100 album hậu punk hàng đầu năm 2022

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Discovery
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
Album phòng thu của Daft Punk
Phát hành12 tháng 3 năm 2001
Thu âm1998–2000
Phòng thuDaft House (Paris)
Thể loại
  • French house
  • disco
  • hậu-disco
Thời lượng60:49
Hãng đĩaVirgin
Sản xuất

  • Daft Punk
  • Todd Edwards
  • Romanthony
  • DJ Sneak

Thứ tự album của Daft Punk
Homework
(1997)
Discovery
(2001)
Alive 1997
(2001)
Đĩa đơn từ Discovery

  1. "One More Time"
    Phát hành: 30 tháng 11 năm 2000
  2. "Aerodynamic"
    Phát hành: 28 tháng 3 năm 2001
  3. "Digital Love"
    Phát hành: 11 tháng 6 năm 2001
  4. "Harder, Better, Faster, Stronger"
    Phát hành: 13 tháng 10 năm 2001
  5. "Face to Face"
    Phát hành: 10 tháng 10 năm 2003
  6. "Something About Us"
    Phát hành: 14 tháng 11 năm 2003

Discovery là album phòng thu thứ hai của bộ đôi nhạc điện tử người Pháp Daft Punk, được Virgin Records phát hành ngày 12 tháng 3 năm 2001.[1] Nó đánh dấu một sự chuyển đổi từ nhạc house Chicago trong album đầu tiên của họ, Homework (1997), sang một phong cách house lấy cảm hứng từ disco, hậu-disco, garage house và R&B. So sánh cách tiếp cận theo phong cách của họ với album trước, Thomas Bangalter mô tả Discovery là một cuộc khám phá cấu trúc và hình thức của âm nhạc trong khi Homework là nhạc điện tử "thô". Bangalter cũng mô tả Discovery là sự phản ánh ký ức thời thơ ấu của bộ đôi, khi họ nghe nhạc với quan điểm vui tươi và hồn nhiên hơn.

Album được thu âm tại nhà của Bangalter ở Paris từ năm 1998 đến năm 2000. Album sử dụng sample rộng rãi; các nhạc sĩ như Romanthony, Todd Edwards và DJ Sneak đã hợp tác trong một số bài hát cả về nhạc lẫn lời. Đối với các video âm nhạc của album, nhóm đã phát triển một kịch bản liên quan đến việc hợp nhất khoa học viễn tưởng với ngành công nghiệp giải trí. Lấy cảm hứng từ tình yêu thời thơ ấu dành cho anime Nhật Bản, bộ đôi đã hợp tác với Leiji Matsumoto để sản xuất Interstella 5555: The 5tory of the 5ecret 5tar 5ystem, một bộ phim hoạt hình lấy toàn bộ Discovery làm nhạc phim. Phim không có lời thoại, ít hiệu ứng âm thanh.

Trước khi phát hành Discovery, bộ đôi đã khoác lên trang phục robot, tuyên bố rằng họ đã trở thành robot do một tai nạn trong phòng thu của họ. Discovery là một thành công quan trọng, đạt đỉnh cao trên một số bảng xếp hạng quốc tế khi phát hành. Các nhà phê bình ca ngợi Daft Punk vì đã đổi mới nền nhạc house như họ đã làm với Homework. Album đã xuất bản sáu đĩa đơn với "One More Time" là thành công nhất, trở thành một bản nhạc ăn khách trong các hộp đêm. Năm 2020, Rolling Stone xếp Discovery ở vị trí thứ 236 trong danh sách "500 album vĩ đại nhất".

Hoàn cảnh ra đời[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi album đầu tay Homework được phát hành, Thomas Bangalter và Guy-Manuel de Homem-Christo đã dành phần lớn năm 1997 để lưu diễn Daftendirektour.[2] Trong nửa đầu năm 1998, bộ đôi này tập trung vào nhãn hiệu cá nhân của riêng họ, đồng thời sản xuất bộ sưu tập video D.A.F.T.: A Story About Dogs, Androids, Firemen and Tomatoes. Vào năm 1999 và 2000, thời gian của họ được phân chia giữa việc sáng tác cá nhân và thu âm Discovery.[2] Bangalter lưu ý rằng Homework đã ảnh hưởng đến nhiều nghệ sĩ khác để bắt chước âm thanh của nó, khiến Daft Punk theo đuổi một hướng đi khác để làm rõ bản thân hơn.[3]

Thu âm[sửa | sửa mã nguồn]

Discovery được ghi lại trong studio riêng của bộ đôi, Daft House, đặt tại nhà của Bangalter ở Paris, Pháp. Daft Punk bắt đầu thực hiện album vào năm 1998, và sản xuất nó trong suốt hai năm.[4] Bangalter và Homem-Christo đã vừa soạn nhạc cùng nhau, vừa làm âm nhạc riêng biệt, tương tự quá trình sản xuất Homework.[2] Mặc dù họ sử dụng các thiết bị tương tự như họ đã có cho Homework, nhưng bộ đôi có ý định thu âm các bài hát ngắn gọn và rõ ràng hơn so với Homework. Bản nhạc "Short Circuit" trước đây đã được chơi trong các buổi biểu diễn trực tiếp năm 1997 của Daft Punk.[5] Album được master (en) bởi Nilesh Patel,[6] người đã master Homework.[7]

Một trong những bài hát đầu tiên được hoàn thiện, "One More Time", được hoàn thành vào năm 1998 và bị bỏ mặc cho đến khi phát hành dưới dạng đĩa đơn vào năm 2000. Sau khi hoàn thành "Too Long" trong giai đoạn đầu sản xuất album, Daft Punk quyết định rằng họ "không muốn làm thêm 14 bản nhạc house nữa" và do đó đã đặt ra mục tiêu kết hợp nhiều phong cách khác nhau cho album.[8][9] Album có sự đóng góp âm nhạc của Romanthony, Todd Edwards và DJ Sneak. Homem-Christo lưu ý rằng Romanthony và Edwards là hai trong số những nhà sản xuất có ảnh hưởng lớn đến Daft Punk. Bộ đôi đã muốn làm việc với họ trong Homework, nhưng cảm thấy khó thuyết phục họ vì Daft Punk vẫn còn tương đối ít người biết đến.[2] DJ Sneak đã viết lời cho "Digital Love" và hỗ trợ sản xuất bài hát.[4][10]

Âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Phong cách[sửa | sửa mã nguồn]

Discovery được công nhận là một album chủ đề.[11][12] Nó liên quan mạnh mẽ đến những ký ức thời thơ ấu của Daft Punk, kết hợp tình yêu điện ảnh và tính cách của họ.[13] Thomas Bangalter chỉ rõ rằng album đề cập đến trải nghiệm của bộ đôi khi lớn lên trong thập kỷ 1975-1985, thay vì chỉ tôn vinh âm nhạc của thời kỳ đó.[2] Album được thiết kế để thể hiện một thái độ nghe nhạc vui tươi, trung thực và cởi mở. Bangalter đã so sánh nó với thời thơ ấu, khi một người không đánh giá hay phân tích âm nhạc.[2] Bangalter lưu ý rằng cách tiếp cận phong cách của album trái ngược với album đầu tay của họ;[14] với Homework là "một thứ nhạc rất thô" tập trung vào âm thanh và kết cấu, còn Discovery là một cuộc khám phá cấu trúc và hình thức của âm nhạc. Sự thay đổi về phong cách này được lấy cảm hứng từ "Windowlicker" của Aphex Twin.[8]

Sáng tác[sửa | sửa mã nguồn]

Discovery là sự rẽ khỏi phong cách của nhạc house trước đó của Daft Punk.[15] Trong bài đánh giá của AllMusic, John Bush đã viết rằng Discovery "chắc chắn là phiên bản garage New York" của Homework. Bush nói thêm rằng Daft Punk đã tạo ra âm thanh "hào nhoáng và pop hơn" của Eurodisco và R&B.[16] Keith Gwillim của Tạp chí Stylus khẳng định rằng đây là một album disco dựa trên các yếu tố "nhảy múa" và "bóng bẩy" của thể loại này.[17] Các nhà phê bình khác cũng mô tả album là hậu-disco.[18][19] Theo Uproxx, album cũng có sự kết hợp của nhạc house Pháp.[20]

Bài hát mở đầu, "One More Time", có giọng hát được tự động điều chỉnh và nén từ Romanthony.[2] Bài hát tiếp theo, "Aerodynamic", có một điệu funk, trừ một đoạn độc tấu guitar điện và kết thúc bằng một đoạn nhạc điện tử riêng biệt.[21] "Digital Love" kết hợp các yếu tố của pop,[22] new wave, jazz, funk và disco.[23] "Harder, Better, Faster, Stronger", ca khúc thứ tư trong album là một bài hát mang khuynh hướng Electro.[23] Tiếp theo là "Crescendolls", một bản nhạc nhạc không lời. "Nightvision" là một bài hát thuộc thể loại Ambient.[22] "Superheroes" nghiêng về chủ nghĩa "acid tối giản" trong Homework.[16] "High Life" được xây dựng dựa trên một sample giọng hát "vô nghĩa" và có một phần giống như đàn organ.[23] "Something About Us" là một bài hát thuộc thể loại downtempo, với giọng hát được xử lý kỹ thuật số của Daft Punk và nhịp điệu phòng chờ.[23]

"Voyager" có các đoạn riff guitar, hòa tấu giống như đàn hạc của những năm 80 và một phần âm trầm sôi nổi.[24] "Veridis Quo" là một bài hát baroque tổng hợp "dàn nhạc giả";[16] theo Angus Harrison, tiêu đề của nó là chơi chữ của "very disco".[24] "Short Circuit" là một bài hát Electro-R&B[16] với các nhịp breakbeat[25] và các mẫu trống được lập trình sẫn.[2] "Face to Face" là một bài hát dance-pop có giọng hát của Todd Edwards và mang hơi hướng pop hơn các bài hát khác trên Discovery.[16][24] Về bố cục của album, Bangalter lưu ý rằng "Short Circuit" đại diện cho việc ngừng hoạt động, và "Face to Face" đại diện cho việc tỉnh lại và đối mặt với thực tế.[26] "Too Long", bài hát cuối của album, là một bài hát electro-R&B dài 10 phút.[27]

Các sample[sửa | sửa mã nguồn]

Một lượng sample đáng kể có trong album. Thay vì sáng tác nhạc mới với các sample, Daft Punk đã viết và thực hiện các phần bổ sung.[21] Ghi chú lót của Discovery cho biết việc sử dụng các sample cho bốn bài hát trong album: "I Love You More" của George Duke được lấy sample cho "Digital Love"; "Cola Bottle Baby" của Edwin Birdsong được lấy sample cho "Harder, Better, Faster, Stronger"; Bài hát "Can You Imagine" của The Imperials được lấy sample cho "Crescendolls"; "Who's Been Sleeping in My Bed" của Barry Manilow được lấy sample cho "Superheroes".[6] Người ta thấy rằng "One More Time" có chứa một bản sample của bài hát "More Spell on You" của Eddie Johns, mặc dù nó chưa được công nhận trong ghi chú lót của Discovery. Tờ Los Angeles Times đã xác nhận điều này sau khi Daft Punk chia tay và phát hiện ra rằng Daft Punk trả tiền bản quyền cho sample mỗi năm hai lần cho hãng GM Musipro.[28]

Một số trang web liệt kê nhiều sample khác có trong album, nhưng Bangalter đã tuyên bố rằng một nửa số sample được liệt kê là không đúng sự thật. Bangalter cũng tuyên bố việc lấy sample mà họ làm là được thực hiện một cách hợp pháp, không phải là điều họ cố gắng che giấu.[29] Guy-Manuel de Homem-Christo ước tính rằng một nửa nội dung được lấy sample trên Discovery đã được bộ đôi chơi trực tiếp[4] và nhấn mạnh rằng chất lượng của âm nhạc quan trọng hơn bản ngã của người chơi nhạc cụ.[21]

Quảng cáo và phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
Leiji Matsumoto đã giám sát việc sản xuất Interstella 5555.

Ban đầu, Daft Punk dự định phát hành mỗi bài hát trên Discovery dưới dạng đĩa đơn, theo Orla Lee-Fisher, người đứng đầu bộ phận marketing của Virgin Records Vuơng Quốc Anh vào thời điểm đó, mặc dù kế hoạch này cuối cùng đã bị gác lại.[30] "One More Time" được phát hành vào năm 2000, trước khi phát hành album, với các đĩa đơn của "Aerodynamic", "Digital Love", "Harder, Better, Faster, Stronger", "Something About Us" và "Face to Face" ra mắt sau đó.

Ý tưởng cho các video âm nhạc của album được hình thành trong những buổi thu âm Discovery đầu tiên.[13] Theo Todd Edwards, album ban đầu được dự định đi kèm với "một bộ phim người đóng với mỗi bài hát là một phần của bộ phim". Thay vào đó, ban nhạc quyết định tập trung vào sản xuất anime.[30] Ý tưởng của Daft Punk cho bộ phim liên quan đến sự hợp nhất của khoa học viễn tưởng với văn hóa công nghiệp giải trí. Bộ đôi nhớ lại đã xem các bộ phim anime Nhật Bản khi còn nhỏ, bao gồm cả những bộ phim yêu thích như Thuyền trưởng Harlock, Grendizer và Candy Candy. Cả ba người đã mang cuốn album và kịch bản đã hoàn thành đến Tokyo với hy vọng tạo ra bộ phim với người anh hùng thời thơ ấu của họ, Leiji Matsumoto, người đã tạo ra Thuyền trưởng Harlock. Sau khi Matsumoto gia nhập đội với tư cách giám sát hình ảnh, Shinji Shimizu đã được liên hệ để sản xuất hình ảnh và Kazuhisa Takenouchi để đạo diễn bộ phim. Với sự điều phối dịch thuật của Tamiyuki "Spike" Sugiyama, quá trình sản xuất bắt đầu vào tháng 10 năm 2000 và kết thúc vào tháng 4 năm 2003. Kết quả của sự hợp tác là bộ phim Interstella 5555: The 5tory of the 5ecret 5tar 5ystem lấy toàn bộ Discovery làm nhạc phim.[31]

Daft Punk đã khoác lên trang phục robot trước khi Discovery phát hành. Nhóm nói với báo chí rằng họ đang làm việc trong phòng thu của họ lúc 9:09 sáng ngày 9 tháng 9 năm 1999, khi bộ lấy sample của họ phát nổ. Họ phải trải qua cuộc phẫu thuật tái tạo, và khi tỉnh lại, họ nhận ra mình đã trở thành người máy.[2][13]

Không lâu trước khi phát hành album, nhóm đã ra mắt Daft Club, một trang web cung cấp các bản nhạc và những phần độc quyền khác. Mỗi CD của Discovery đều có thẻ thành viên Daft Club với một mã số duy nhất cung cấp quyền truy cập được cá nhân hóa vào trang web.[2] Bangalter cho biết đây là "cách chúng tôi thưởng cho những người mua CD".[23] Dịch vụ do trang này cung cấp đã kết thúc vào năm 2003; hầu hết các bài hát sau đó được tổng hợp thành album phối lại Daft Club.[13]

Đánh giá từ giới phê bình[sửa | sửa mã nguồn]

Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic 74/100[32]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
[16]
The Guardian
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
[39]
Mixmag
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
[38]
NME 9/10[11]
Pitchfork 6,4/10 (2001)[36]
10/10 (2021)[37]
Q
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
[35]
Rolling Stone
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
100 album hậu punk hàng đầu năm 2022
[34]
Spin 8/10[12]
The Village Voice C+[33]

Discovery nhận được đánh giá chung tích cực từ các nhà phê bình. Tại Metacritic, album nhận được điểm trung bình là 74, dựa trên 19 bài đánh giá.[32] John Bush của AllMusic nói rằng, Daft Punk đã phát triển một âm thanh "xứng tầm phong cách electro-pop từ Giorgio Moroder đến Todd Rundgren đến Steve Miller."[16] Tạp chí Q viết rằng album rất mạnh mẽ và sáng tạo trong việc khám phá "những câu hỏi và lý tưởng đã cũ", ca ngợi nó là "một chuyến lưu diễn cao ngất ngưởng, thuyết phục", "vượt qua nhãn hiệu nhạc dance" mà không thiếu ý tưởng, sự hài hước hoặc "sáng chói".[35] Q đã vinh danh Discovery là một trong 50 album hay nhất năm 2001.[40]

Joshua Clover, viết trên tờ Spin, gọi Discovery là "chiến thắng mới nhất" của disco và cho biết đoạn mở đầu của bài hát ngang bằng với các album như Sign o' the Times (1987) của Prince và Nevermind (1991) của Nirvana.[12] Stephen Dalton từ NME nhận thấy tư tưởng pop art trong album khiến người ta say mê và ghi nhận Daft Punk vì đã "tái sinh những năm giữa thập niên 80 như là kỷ nguyên nhạc pop ngầu nhất từ ​​trước đến nay".[11] Mixmag nói rằng Daft Punk đã "thay đổi dòng nhạc dance lần thứ hai" với Discovery.[38]

Ben Ratliff từ Rolling Stone thì ít ấn tượng hơn và viết rằng ít bài hát trên Discovery phù hợp với sự hoành tráng của "One More Time". Ông nhận thấy hầu hết các bài hát "hỗn loạn - không chỉ trong phạm vi giữa nghiêm túc và vui tính mà còn là danh tính của nó."[34] Viết trên The Guardian, Alexis Petridis cảm thấy nỗ lực của Daft Punk trong việc "cứu vãn" âm nhạc thời trước giống với Homework, nhưng kém mạch lạc và thành công hơn.[39] Nhà phê bình Ryan Schreiber của Pitchfork nhận thấy sự kết hợp giữa "prog và disco" "tương đối vô hại" và nói rằng nó không "được đánh giá dựa trên lời bài hát", điều mà ông cho là nghiệp dư và bình thường.[36] Robert Christgau, viết trên tờ The Village Voice, nói một cách nghiêm túc rằng album có thể thu hút những người trẻ đam mê nhạc techno Berlin, nhưng nó quá "Pháp" đối với người Mỹ.[33]

Tầm ảnh hưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Pitchfork đã gọi tên Discovery là album hay thứ 12 của năm 2000–04[41] và là album hay thứ ba của thập kỷ.[42] Vào năm 2021, Pitchfork đã đưa Discovery vào danh sách các bài đánh giá mà họ "sẽ thay đổi nếu có thể", nâng điểm của nó từ 6,4 lên 10/10. Nhà phê bình Noah Yoo của Pitchfork đã viết: "Nếu điểm số là để chỉ ra sự trường tồn hoặc tầm ảnh hưởng của tác phẩm, bài đánh giá ban đầu không còn hiệu lực trong dòng chảy lịch sử. Album thứ hai của Daft Punk, Discovery, là đỉnh cao sự nghiệp của họ, một album vượt qua cội nguồn hộp đêm của bộ đôi robot và trải dài nhiều thập kỷ sau đó."[37]

Năm 2009, Rhapsody vinh danh Discovery là album xuất sắc thứ 12 của thập kỷ.[43] Nó cũng được gọi tên là album hay thứ tư của thập kỷ bởi Resident Advisor.[44] Năm 2012, Rolling Stone vinh danh Discovery là album EDM vĩ đại thứ tám.[45] Rolling Stone đã đưa nó vào vị trí thứ 236 trong danh sách "500 album vĩ đại nhất" năm 2020.[46] Album cũng được đưa vào chuơng trình Masterpieces của BBC Radio 1 vào tháng 12 năm 2009 do Zane Lowe trình bày, đánh dấu vị thế ngày càng tăng của nó trong suốt thập kỷ.[47]

Một số bài hát đã được lấy sample bởi các nghệ sĩ khác. Ca khúc "Stronger" của Kanye West trong album Graduation có sample giọng hát của "Harder, Better, Faster, Stronger". "Stronger" đã được biểu diễn trực tiếp tại Lễ trao giải Grammy lần thứ 50, với Daft Punk biểu diễn trong cấu trúc kim tự tháp đặc trưng trong khi Kanye West rap trên sân khấu.[48] Bài hát "Summertime" của Wiley trong album See Clear Now có một bản sample của "Aerodynamic".[49] Bài hát "Dream Big" của Jazmine Sullivan trong album Fearless sử dụng sample từ "Veridis Quo".[50]

Hiệu suất thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

Album đạt vị trí thứ hai ở Vương quốc Anh[51] và Pháp,[52] và vị trí thứ hai mươi ba trên bảng xếp hạng Billboard 200.[53] Album cũng ra mắt ở vị trí thứ hai trên Canadian Albums Chart, bán được 13.850 bản trong tuần đầu tiên.[54] Album đã được chứng nhận 3× bạch kim tại Pháp (năm 2007) đồng nghĩa với doanh số 300.000 bản.[55] Discovery đã được chứng nhận Vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) vào ngày 11 tháng 10 năm 2010.[56]

Tính đến tháng 5 năm 2013, album đã bán được 802.000 bản tại Hoa Kì.[57] Đĩa đơn chính của album "One More Time" là thành công nhất, đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng Pháp[58] và bảng xếp hạng Billboard Hot Dance/Disco Club Play,[59] đồng thời lọt vào top 10 trên bảy bảng xếp hạng khác. Nó vẫn là đĩa đơn thành công nhất của nhóm cho đến khi phát hành "Get Lucky" vào năm 2013. Đĩa đơn thứ năm của album, "Face to Face", đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot Dance/Disco Club Play năm 2004.[59] Discovery đã bán được ít nhất 2,6 triệu bản tính đến năm 2005.[60]

Danh sách ca khúc[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả nhạc phẩm được soạn bởi Thomas Bangalter and Guy-Manuel de Homem-Christo.

STTTựa đềSáng tácThời lượng
1."One More Time"

  • Bangalter
  • de Homem-Christo
  • Anthony Moore

5:20
2."Aerodynamic"   3:31
3."Digital Love"

  • Bangalter
  • de Homem-Christo
  • Carlos Sosa
  • George Duke

4:55
4."Harder, Better, Faster, Stronger"

  • Bangalter
  • de Homem-Christo
  • Edwin Birdsong

3:44
5."Crescendolls"

  • Bangalter
  • de Homem-Christo
  • Dwight Brewster
  • Aleta Jennings

3:31
6."Nightvision"   1:44
7."Superheroes"

  • Bangalter
  • de Homem-Christo
  • Barry Manilow
  • Marty Panzer

3:59
8."High Life"   3:21
9."Something About Us"   3:50
10."Voyager"   3:48
11."Veridis Quo"   5:44
12."Short Circuit"   3:26
13."Face to Face"

  • Bangalter
  • de Homem-Christo
  • Todd Imperatrice

4:00
14."Too Long"

  • Bangalter
  • de Homem-Christo
  • Moore

9:59
Tổng thời lượng:60:49

Nhân lực[sửa | sửa mã nguồn]

  • Daft Punk – giọng hát (bài hát thứ 3, 4, 9), máy vocoder, máy trình tự, máy sampler, máy synthesizer, piano điện tử Wurlitzer, guitar, âm trầm, hộp talkbox, máy drum machine, sản xuất, chủ đề, định hướng nghệ thuật
  • Romanthony – giọng hát (bài hát thứ 1, 14), đồng sản xuất (bài hát thứ 14)
  • Todd Edwards – giọng hát và đồng sản xuất (bài hát thứ 13)
  • Nilesh Patel – mastering
  • Alex & Martin – chủ đề, định hướng nghệ thuật
  • Cedric Hervet – chủ đề, định hướng nghệ thuật
  • Gildas Loaëc – chủ đề, định hướng nghệ thuật
  • Simon Scott – chủ đề, định hướng nghệ thuật
  • Daniel Vangarde – chủ đề, định hướng nghệ thuật
  • Pedro Winter – chủ đề, định hướng nghệ thuật
  • Mitchell Feinberg – hình ảnh kim loại lỏng
  • Luis Sanchis – hình ảnh piano
  • Tony Gardner, Alterian Inc. – kỹ thuật sinh học
  • Tamiyuki "Spike" Sugiyama – người kết nối Tokyo

Xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Paoletta, Michael (24 tháng 2 năm 2001). “Virgin's Hitmakers Daft Punk Return With 'Homework' Done, Parisian Pair On Road To 'Discovery'”. Billboard: 15. ISSN 0006-2510 – qua Google Books.
  2. ^ a b c d e f g h i j Gill, Chris (1 tháng 5 năm 2001). “ROBOPOP”. Remix. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2006.
  3. ^ Papin, Gregory (2001). “Daft Punk”. WSound. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2003.
  4. ^ a b c “15 Things You Didn't Know About Daft Punk's Discovery”. Ministry of Sound. 26 tháng 2 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2017.
  5. ^ Cardew, Ben (17 tháng 10 năm 2016). “Daft Punk Confirmed to Play Glastonbury... in 1997”. Medium. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2016.
  6. ^ a b “Daft Punk – Discovery (2001, Vinyl)”. Discogs. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2021.
  7. ^ “Daft Punk – Homework (1997, Vinyl)”. Discogs. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2022.
  8. ^ a b “Daft Punk Embark on a Voyage of Discovery”. MTVe.com. 15 tháng 3 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2006.
  9. ^ Dombal, Ryan (15 tháng 5 năm 2013). “Daft Punk: Cover Story Outtakes”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2013.
  10. ^ DaftSide. “DJ Sneak”. French Touch Information. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2013.
  11. ^ a b c “Daft Punk : Discovery”. NME. 12 tháng 9 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2020.
  12. ^ a b c Clover, Joshua (tháng 6 năm 2001). “Daft Punk: Discovery”. Spin. New York. 17 (6): 145 – qua Google Books.
  13. ^ a b c d Santorelli, Dina (30 tháng 6 năm 2014). Daft Punk: A Trip Inside the Pyramid. London: Omnibus Press. tr. 1911. ISBN 178323293-5.
  14. ^ Baron, Zach (7 tháng 5 năm 2013). “Daft Punk Is (Finally!) Playing at Our House”. GQ. 83 (5): 76–82.
  15. ^ Stereo IQ; Dickinson, John (14 tháng 5 năm 2013). “Human After All: Daft Punk's Random Access Memories”. HuffPost. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2022.
  16. ^ a b c d e f g Bush, John. “Discovery – Daft Punk”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2012.
  17. ^ Gwillim, Keith (1 tháng 9 năm 2003). “Daft Punk - Discovery - Review”. Stylus. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2007.
  18. ^ “Best New Music - Daft Punk (Discovery)”. CMJ New Music Monthly. 93: 71. 2001. ISSN 1074-6978.
  19. ^ Burgess, Andrew (12 tháng 3 năm 2001). “Daft Punk - Discovery”. musicOMH. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2013.
  20. ^ Galbraith, Alex (14 tháng 3 năm 2016). “We Ranked Daft Punk's 'Discovery' Track By Track 15 Years Later”. Uproxx. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2016.
  21. ^ a b c Reesman, Bryan (1 tháng 10 năm 2001). “Daft Punk”. Mix. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2005.
  22. ^ a b Jones, Chris (2007). “Daft Punk Discovery Review”. BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2009.
  23. ^ a b c d e “Daft Punk on Road to 'Discovery'”. Billboard. 23 tháng 1 năm 2001. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2013.
  24. ^ a b c THUMP Staff (21 tháng 11 năm 2016). “Every Daft Punk Song, Ranked—Yeah, All of Them”. Vice. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2020.
  25. ^ Thompson, Jason (12 tháng 3 năm 2001). “Daft Punk: Discovery”. PopMatters. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2021.
  26. ^ Martin, Piers (4 tháng 12 năm 2013). “Daft Punk: The Birth of the Robots”. Vice. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2020.
  27. ^ Olivier, Bobby (31 tháng 1 năm 2017). “Daft Punk's Albums Ranked From Worst to Best: Critic's Picks”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2022.
  28. ^ Brown, August (6 tháng 5 năm 2021). “A homeless L.A. musician helped create a Daft Punk classic. So why hasn't he seen a dime?”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2021.
  29. ^ “Daft Punk speak out on sample sources: 'half of this list is not true'”. The Daily Swarm. 13 tháng 7 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2007.
  30. ^ a b Cardew, Ben (2021). Daft Punk's Discovery: The Future Unfurled. London: Velocity Press. tr. 32. ISBN 978-1-913231-11-8.
  31. ^ “An Interview with Daft Punk”. Cartoon Network. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2001.
  32. ^ a b “Reviews for Discovery by Daft Punk”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2013.
  33. ^ a b Christgau, Robert (20 tháng 11 năm 2001). “Turkey Shoot 2001”. The Village Voice. New York. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2020.
  34. ^ a b Ratliff, Ben (6 tháng 3 năm 2001). “Daft Punk: Discovery”. Rolling Stone. New York: 59–60. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2019.
  35. ^ a b “Daft Punk: Discovery”. Q. London (175): 97. tháng 4 năm 2001.
  36. ^ a b Schreiber, Ryan (13 tháng 3 năm 2001). “Daft Punk: Discovery”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2009.
  37. ^ a b Yoo, Noah (5 tháng 10 năm 2021). “Pitchfork Reviews: Rescored”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2021.
  38. ^ a b “Daft Punk: Discovery”. Mixmag. London. 2 (119): 163. tháng 4 năm 2001.
  39. ^ a b Petridis, Alexis (8 tháng 3 năm 2001). “CD of the week: Daft Punk: Discovery”. The Guardian. London. Friday Review section. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2014.
  40. ^ “The Best 50 Albums of 2001”. Q. tháng 12 năm 2001. tr. 60–65.
  41. ^ Daniel, Drew (7 tháng 2 năm 2005). “The Top 100 Albums of 2000–04”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2016.
  42. ^ Ewing, Tom (2 tháng 10 năm 2009). “The Top 200 Albums of the 2000s”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2018.
  43. ^ P.S. (4 tháng 12 năm 2009). “100 Best Albums of the Decade, 11–20”. Rhapsody. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2009.
  44. ^ O'Donnell, Mallory (25 tháng 1 năm 2010). “Top 100 albums of the '00s”. Resident Advisor. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2021.
  45. ^ Dolan, Jon; Matos, Michaelangelo (2 tháng 8 năm 2012). “The 30 Greatest EDM Albums of All Time”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2018.
  46. ^ “The 500 Greatest Albums of All Time”. Rolling Stone. 22 tháng 9 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2020.
  47. ^ Lowe, Zane (3 tháng 12 năm 2009). “Zane's Masterpieces - Daft Punk: Discovery”. BBC Radio 1. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2009.
  48. ^ “Daft Punk Make Surprise Grammy Appearance with Kanye West”. NME. 11 tháng 2 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2021.
  49. ^ “Grime Music Cleans Up in the Charts”. The Independent. 8 tháng 8 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2008.
  50. ^ Cinquemani, Sal (21 tháng 12 năm 2008). “Review: Jazmine Sullivan, Fearless”. Slant. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2014.
  51. ^ “Daft Punk - Artist - Official Charts”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2015.
  52. ^ “Daft Punk - Discovery”. lescharts.com. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2008.
  53. ^ “Daft Punk - Chart History - The Billboard 200”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2021.
  54. ^ Cantin, Paul (21 tháng 3 năm 2001). “Daft Punk crashes into Cdn. chart”. Canoe.com. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2001.
  55. ^ “Certifications Albums Triple Platine – année 2007”. Tổ chức Xuất bản Âm thanh Quốc gia (Pháp). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2013.
  56. ^ “Gold & Platinum - RIAA”. Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2022.
  57. ^ a b Grein, Paul (29 tháng 5 năm 2013). “Week Ending May 26, 2013. Albums: Daft Punk Gets Lucky”. Yahoo! Music. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2013.
  58. ^ “Daft Punk - One More Time”. lescharts.com. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2022.
  59. ^ a b “Chart History - Daft Punk - Dance Club Songs”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2022.
  60. ^ “Daft Punk Embraces Universal Themes With Ground-Breaking New CD 'Human After All'; Duo's Third Studio Album to Hit Stores 25 March; First Single Is "Robot Rock"”. HighBeam. PR Newswire. 26 tháng 1 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2011.
  61. ^ "Australiancharts.com – Daft Punk – Discovery". Hung Medien.
  62. ^ “ARIA Dance - Week Commencing 19th March 2001 - Albums” (PDF). The ARIA Report (577): 14. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2008 – qua Thư viện Quốc gia Úc.
  63. ^ "Austriancharts.at – Daft Punk – Discovery" (bằng tiếng Đức). Hung Medien.
  64. ^ "Ultratop.be – Daft Punk – Discovery" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  65. ^ "Ultratop.be – Daft Punk – Discovery" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  66. ^ "Daft Punk Chart History (Canadian Albums)". Billboard.
  67. ^ "Danishcharts.dk – Daft Punk – Discovery". Hung Medien.
  68. ^ "Dutchcharts.nl – Daft Punk – Discovery" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  69. ^ “Eurochart Top 100 Albums - March 31, 2001” (PDF). Music & Media. 18 (14): 20. 31 tháng 3 năm 2001.
  70. ^ "Daft Punk: Discovery" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  71. ^ "Lescharts.com – Daft Punk – Discovery". Hung Medien.
  72. ^ "Offiziellecharts.de – Daft Punk – Discovery" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts.
  73. ^ “Hits of the World - Greece”. Billboard. 113 (17): 61. 28 tháng 4 năm 2001.
  74. ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 11, 2001". Chart-Track. IRMA.
  75. ^ "Italiancharts.com – Daft Punk – Discovery". Hung Medien.
  76. ^ "Charts.nz – Daft Punk – Discovery". Hung Medien.
  77. ^ "Norwegiancharts.com – Daft Punk – Discovery". Hung Medien.
  78. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart". OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry.
  79. ^ “Hits of the World - Portugal”. Billboard. 113 (16): 59. 21 tháng 4 năm 2001.
  80. ^ Salaverri, Fernando (tháng 9 năm 2005). Sólo éxitos: año a año, 1959–2002 (ấn bản 1). Spain: Fundación Autor-SGAE. ISBN 84-8048-639-2.
  81. ^ "Swedishcharts.com – Daft Punk – Discovery". Hung Medien.
  82. ^ "Swisscharts.com – Daft Punk – Discovery". Hung Medien.
  83. ^ "Official Albums Chart Top 100". Official Charts Company.
  84. ^ "Daft Punk Chart History (Billboard 200)". Billboard.
  85. ^ "Daft Punk Chart History (Top Catalog Albums)". Billboard.
  86. ^ "Daft Punk Chart History (Vinyl Albums)". Billboard.
  87. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2022. 4. hét" (bằng tiếng Hungaria). MAHASZ.
  88. ^ “2021 9-os savaitės klausomiausi (Top 100)” (bằng tiếng Litva). AGATA. 5 tháng 3 năm 2021.
  89. ^ "Daft Punk Chart History (Top Dance/Electronic Albums)". Billboard.
  90. ^ “ARIA Charts - End of Year Charts - Top 100 Albums 2001”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  91. ^ “ARIA Highest Selling Dance Albums 2001” (PDF). The ARIA Report (617): 12. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2008 – qua Thư viện Quốc gia Úc.
  92. ^ “Jahreshitparade 2001”. austriancharts.at (bằng tiếng Đức). Hung Medien.
  93. ^ “Jaaroverzichten 2001”. Ultratop (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  94. ^ “Rapports annuels 2001”. Ultratop (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  95. ^ “Jaaroverzichten 2001 – Alternatieve Albums” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop.
  96. ^ “Jaaroverzichten – Album 2001” (ASP) (bằng tiếng Đức).
  97. ^ “European Top 100 Albums 2001” (PDF). Music & Media. 22 tháng 12 năm 2001. tr. 15.
  98. ^ “Classement Albums - année 2001”. Tổ chức Xuất bản Âm thanh Quốc gia (Pháp) (bằng tiếng Pháp). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2012.
  99. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts – 2001” (bằng tiếng Đức). Offizielle Deutsche Charts.
  100. ^ “Schweizer Jahreshitparade 2001” (bằng tiếng Đức). hitpaarde.ch.
  101. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2001”. Official Charts Company.
  102. ^ “Tops de l'Année - Top Albums 2002”. Tổ chức Xuất bản Âm thanh Quốc gia (Pháp) (bằng tiếng Pháp).
  103. ^ “ARIA Australian Highest Selling Dance Albums 2008” (PDF). The ARIA Report (983): 19. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2009 – qua Thư viện Quốc gia Úc.
  104. ^ “ARIA Top 50 Dance Albums 2013”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  105. ^ “Jaaroverzichten 2013 - Mid price” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop.
  106. ^ “Rapports Annuels 2013 - Mid price” (bằng tiếng Pháp). Ultratop.
  107. ^ “End of Year 2013” (PDF). UKChartsPlus.
  108. ^ “ARIA Top 50 Dance Albums 2016”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  109. ^ “Top Dance/Electronic Albums – Year-End 2018”. Billboard.
  110. ^ “Top Dance/Electronic Albums – Year-End 2020”. Billboard.
  111. ^ “Rapports Annuels 2021”. Ultratop.
  112. ^ “Top Dance/Electronic Albums – Year-End 2021”. Billboard.
  113. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2001 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  114. ^ “Ultratop − Goud en Platina – 2008”. Ultratop & Hung Medien / hitparade.ch.
  115. ^ “Canada album certifications – Daft Punk – Discovery”. Music Canada.
  116. ^ “Denmark album certifications – Daft Punk – Discovery”. IFPI Đan Mạch.
  117. ^ “France album certifications – Daft Punk – Discovery” (bằng tiếng Pháp). Syndicat national de l'édition phonographique.
  118. ^ “InfoDisc: Les Albums (CD / Téléchargement) les plus Vendus depuis le 1er Janvier 2000”. InfoDisc. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2022.
  119. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Daft Punk; 'Discovery')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
  120. ^ “RIAJ > The Record > October 2002 > Page 14> Certified Awards (August 2002)” (PDF). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2014.
  121. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Awards (Daft Punk; 'Discovery')”. IFPI Switzerland. Hung Medien.
  122. ^ “Britain album certifications – Daft Punk – Discovery” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry.
  123. ^ “American album certifications – Daft Punk – Discovery” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Album rồi nhấn Search
  124. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 2014”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế.

Squalling and sardonic, post-punk ripped out the rebellious core of punk in the late ’70s and took it in a new, experimental direction. This is the story of the incendiary genre in 15 wildly influential albums.

Suicide, ‘Suicide’ (1977)

Even the punks hated Suicide; when the abrasive and experimental New York band supported Elvis Costello in Brussels, they managed to play for precisely 23 boo-accompanied minutes before full chaos took over (at one point, a crowd member stole their microphone). Later, a riot broke out – Alan Vega broke his nose, and the police were called. As a result Suicide became known for their confrontational presence  – and they admittedly took pleasure from pissing off their crowds.

But ultimately, Suicide were far more than mere wind-up merchants. Listening back to their most infamous disaster show 42 years later, their self-titled debut sounds absurdly ahead of its time, ripping out the rebellious heart of punk, and twisting it into something shocking. Minimal and menacing, the group hollowed out the grit of punk and traded sheer volume for shadowy and electronic gloom. Even in their sugary moments – the Parisian croon of ‘Cheree’ or the hip-shimmies of ‘Girl’ – there’s a dark and unsettling quality amid the kitschy textures; like a derelict and deserted fairground with a lone lit-up carousel that’s still spinning.

Why it was so influential: They were arguably a post-punk band before the genre really existed, as well as influencing everything from no-wave to industrial techno.

Magazine, ‘Real Life’ (1978)

Formed in Manchester by Howard Devoto of Buzzcocks, Magazine took punk rock’s relentless chug and added a mischievous streak; their landmark debut ‘Real Life’ jostles with gnarled guitars, rip-roaring sax solos, and busy-fingered synths. And crucially it bursts with tongue-in-cheek humour, melodrama, and a touch of the absurd – three key pillars of punk’s newest mutation. As with Public Image Ltd (formed by Sex Pistols’ John Lydon) Magazine feel particularly important in the trajectory of post-punk because they were created by an icon of the genre that spawned it.

Why it was so influential: The band went on to redefine the cultural force that Devoto contributed to with Buzzcocks – ‘Real Life’ is arguably one of the first great post-punk records.

Siouxsie and the Banshees, ‘The Scream’ (1978)

Released in the aftermath of their break-out single ‘Hong Kong Garden’ this London band’s 1978 debut drags punk kicking and screaming onto a ghost train. There’s something slightly absurd about strapping yourself into a juddering kart and waiting to be scared shitless by a warped plastic Frankenstein, after all, and on ‘The Scream’ Siouxsie and the Banshees nail this strange balancing act between the ominously gothic, and the playfully glam.

The whole record sounds truly enormous; listening to ‘Mirage’ feels like standing in the shadow of a toweringly spooky castle, while ‘Metal Postcard (Mittageisen)’ proved that aggression can be dished out slowly. And Siouxsie herself has to be one of the best vocalists of the late-’70s – like a severely haunted Velvet Underground and Nico.

Why it was so influential: It’s really impossible to overstate the effect that ‘The Scream’ had on gothic-minded groups like The Cure, Echo and the Bunnymen, and Psychedelic Furs – all post-punk purveyors in their own right.

The Fall, ‘Live at the Witch Trials’ (1979)

Flickers of The Fall are everywhere. From James Murphy’s stream-of-consciousness musings with LCD Soundsystem to the meandering lyrics of everyone from Shame and Dry Cleaning to Parquet Courts and Fontaines D.C. the shadow of Mark E. Smith’s acerbic inner narrative is deeply ingrained in the weirdest side of post-punk.

Wildly prolific, The Fall have 32 studio albums to their name – and though no single record stands out as their one classic moment, debut album ‘Live at the Witch Trials’ feels like the best place to start in the story of post-punk. It’s angular, mean-sounding and visceral, and things frequently become meta (“Er, what’s this song about?” Smith mumbles on ‘Mother – Sister!’), the band mocking artsy emptiness with surreal contempt. “Erasing off our rainbows, we are men, we have big toes!” he announces ‘The New Thing!’. “It’s the new leather thing, crash smash crash ring”

Why it was so influential: Just listen to virtually any post-punk band making music after the Millennium – Mark E. Smith’s voice is everywhere

Gang of Four, ‘Entertainment!’ (1979)

One of the greatest things about post-punk is the way that it makes intense bleakness danceable despite itself; and Leeds outfit Gang of Four were one of the earliest pioneers with their debut album ‘Entertainment!’. Sarcastic in title and biting by nature, it’s a record that sets out an urgent agenda with thumping drums: spanning from political violence in Northern Ireland to rampant consumerism. And Gang of Four’s politics often veer towards the personal: the likes of ‘5.45’ and ‘Contract’ nail the lingering sense of anxiety and dread that comes with a constant numbing bombardment of terrible news. “Our bodies make us worry,” frontman Andy Gill sings cheerfully on the latter, atop spiking and uneasy dub-punk. Despair and disenfranchisement colliding with gold-standard pop writing – it doesn’t get much better than this.

Tại sao nó lại có ảnh hưởng như vậy: Gang of Four Kid-in-a-Sweet-shop đối với thể loại-lấy các yếu tố của Disco, Funk và Dub-didn chỉ hình thành cách tiếp cận phân tán hậu-punk. 'Giải trí! Cũng ảnh hưởng đến tất cả mọi thứ từ rap đến grunge: Kurt Cobain từng nói rằng Nirvana bắt đầu như một sự lột xác một phần của Gang of Four.Gang of Four’s kid-in-a-sweet-shop approach to genre – snatching up elements of disco, funk and dub – didn’t just shape post-punk’s scattershot approach. ‘Entertainment! also influenced everything from rap to grunge: Kurt Cobain once said that Nirvana began as a partial rip-off of Gang of Four.

Division Joy, ‘Những thú vui chưa biết (1979)

Channeling Velvet Underground, Rock Rock, Brutal BỉN, và cắt từ một miếng vải thử nghiệm tương tự đến các ban nhạc rock của Đức NEU! Và có thể, Joy Division không giữ được gì khi họ ra mắt ‘những thú vui không rõ ràng. Nhà sản xuất Martin Harnett là một người tin tưởng vững chắc vào ý tưởng rằng Punk Rock đã bỏ lỡ một mánh khóe khi sử dụng không gian để tạo ra sự bất hòa tàn bạo, và không có thời gian nào, ban nhạc đã đập vỡ các chai bia, ghi lại giọng hát để 'hiểu biết' xuống một Đường dây điện thoại, nhai trên các tấm giòn và vận chuyển loa trong thang máy xung quanh studio Strawberry của Stockport. Kết quả là một kiệt tác bóng tối, được dẫn dắt bởi giọng hát đang bùng nổ của Ian Curtis.

Tại sao nó lại có ảnh hưởng như vậy: cũng như truyền cảm hứng cho một triệu áo phông loại bỏ trong những năm tới, ‘những thú vui chưa biết, nếu khí quyển lọc qua mọi người từ Interpol đến Fontaines.As well as inspiring a million knock-off t-shirts in years to come, ‘Unknown Pleasures’ mastery if atmospherics filters through to everyone from Interpol to Fontaines.

Talking Heads, ‘Sợ âm nhạc (1979)

Những người đứng đầu nói chuyện dễ dàng nhất với các thể loại của New Wave và Art-Rock-nhưng ‘sợ âm nhạc, được cho là một trong những kỷ lục có ảnh hưởng nhất để thu hẹp khoảng cách giữa những vùng lãnh thổ và hậu-punk. Họ đã làm việc với Brian Eno trong bản thu âm thứ hai của họ 'Thêm các bài hát về các tòa nhà và thực phẩm' năm trước, và sự hợp tác tiếp tục 'Fear of Music', điều này làm tan chảy New York Punk với những ảnh hưởng khác nhau, từ Disco và Afrobeat đến Thơ siêu thực và một cảm giác dai dẳng của sự khó chịu lo lắng.

Tại sao nó lại có ảnh hưởng như vậy: trong thế giới của những người nói chuyện bất cứ điều gì và mọi thứ diễn ra, và ‘nỗi sợ âm nhạc chọn cách tiếp cận sau đó sẽ sinh ra sóng mới.In the world of Talking Heads anything and everything goes, and ‘Fear of Music’s pick’n’mix approach would later spawn new-wave.

Công ty TNHH Hình ảnh công khai, ‘Hộp kim loại (1979)

Được biết đến nhiều nhất là biểu tượng nhạc punk của Vương quốc Anh nhờ súng lục sex đứng đầu, John Lydon, Public Image Ltd là một ban nhạc sau punk theo nghĩa đen nhất của từ này-nhạc sĩ ban đầu thành lập ban nhạc như một lối thoát để thử nghiệm hơn nữa. Album đầu tay của họ ‘Lần đầu tiên của họ đã thu hút nhạc tiếng ồn làm mất phương hướng, lồng tiếng và một bước ngoặt tiến bộ trên rock-nhưng nó đã tiếp theo‘ hộp kim loại tiếp theo, hoàn toàn rơi vào tình trạng nổi tiếng. Thôi miên và vỗ tay, nó nghiền ngẫm, bóng tối ý thức bị buộc tội với một tang kim loại; Một phần nhờ vào việc sử dụng guitar nhôm Veleno nặng.

Tại sao nó lại có ảnh hưởng như vậy: Lydon Lau Shake-Up đã truyền cảm hứng trực tiếp cho tất cả các biểu tượng để nắm lấy thử nghiệm-tấn công lớn và móng tay chín inch đều là những người hâm mộ Pil Mega.Lydon’s shake-up has directly inspired all manner of icons to embrace experimentation – Massive Attack and Nine Inch Nails are both PiL mega-fans.

B52, B52, (1979)

Gói cùng nhau lướt sóng, punk băm chân và bộ dụng cụ thập niên 60 của Retina, thành một vũng nước sặc sỡ và có thể nhảy múa, album đầu tay của B52 đã đưa một bản swerve siêu thực hơn trên các cấu trúc hạc và thực dụng hậu-punk. Không giống như một số người đương thời của họ, những người đã sử dụng thể loại này như một phương tiện để tạo ra sự riposte chính trị, lô này đã trao đổi nó cho chủ nghĩa phi lý vui vẻ; Hát về tất cả mọi thứ, từ tôm hùm nhạc rock khét tiếng của họ đến phô mai limburger hôi thối và tình yêu phun trào như một ngọn núi lửa nóng bỏng màu đỏ. Chắc chắn là một trong những album Weirder để có được trạng thái bạch kim ở Mỹ (với hơn một triệu doanh số ở đó), nó kết thúc, một cách tự nhiên, với một trang bìa của Petula Clark, Downtown Downtown.

Tại sao nó có ảnh hưởng rất lớn: Kitschy và Campy, sự tuyệt vời của ‘Rock Lobster, đặc biệt có một bàn tay to lớn trong việc định hình sóng mới.Kitschy and campy, the sheer silliness of ‘Rock Lobster’ in particular had a big hand in shaping new-wave.

Liên đoàn con người, ‘Dare, (1981)

Những người nổi tiếng của Synth được dán trên ‘Dare, chiếm một thế giới tương tự với nhà cách mạng Kraftwerk,‘ Trans-Europe Express. Và mặc dù League League đã thêm một búp bê melodrama poppy vào cocktail, album thứ ba của họ ‘Dare, cũng đã giúp vận chuyển nhịp đập kinh tế tàn bạo của Punk trên sàn nhảy.

Tại sao nó lại có ảnh hưởng như vậy: chỉ cần nghe hầu như bất kỳ bản thu âm nhạc pop nào của thập niên 80 xuất hiện sau khi ‘dám nghe những dấu hiệu của nó.Just listen to virtually any ’80s pop record that came out after ‘Dare’ to hear its hallmarks.

Elastica, ‘elastica, (1995)

Vào lúc cao điểm của họ, Relastica đã phải đưa ra rất nhiều nhảm nhí về phân biệt giới tính - cụ thể là những cáo buộc rằng họ đã nợ thành công của họ với giọng ca chính Justine Frischmann, các mối quan hệ trong quá khứ (trước đó trong những năm 90, cô ấy đã hẹn hò với cả người bạn cùng nhóm da lộn Brett Anderson và Blur, Damon Albarn). Ban nhạc cũng được gộp lại với nhiều ban nhạc Britpop thống trị âm nhạc vào thời điểm đó, mặc dù thực tế là Elastica có chung nhiều điểm chung với những cái đầu nói chuyện và dây điện nói chuyện với nhau. Và album cổ điển có tựa đề của họ là sự phục hưng hậu punk ở mức tốt nhất của nó-cũng như một ngón tay giữa nọc độc theo hướng của những người quá ngu ngốc để đánh giá thấp họ.

Tại sao nó lại có ảnh hưởng như vậy: nếu không có Elastica, Justine Frischmann, chúng ta có thể không có M.I.A-họ đã sống với nhau sau Velastica và giọng ca trở thành một người cố vấn, kiếm được tín dụng đồng sáng tác trên album đầu tay của M.I.A.Without Elastica’s Justine Frischmann we might not have M.I.A – they lived together post-Elastica and the vocalist became something of a mentor, earning co-writing credit’s on M.I.A’s 2003 debut album ‘Arular’.

Interpol, bật đèn sáng (2002)

Kéo thể loại này vào album đầu tay của 00 00, Interpol, ‘Turn On The Bright Lights, đã triệu tập bộ phim truyền hình đơn điệu của Joy Division,‘ Những niềm vui chưa biết, và cho nó một cú hích ngoài sân khấu. Nghe và lớn, bạn có thể nghe thấy những dấu ấn của bản thu này được nhúng trên đá Noughies tiếp theo, và cùng với Yeah Yeah Yeah, LCD Soundsystem, TV trên đài phát thanh và các nét, Interpol đã giúp mang Trở lại đường phố New York.

Tại sao nó lại có ảnh hưởng như vậy: Bật đèn sáng, được cho là đã đặt ra mẫu cho tảng đá đầy tham vọng, đầy tham vọng của những năm đầu tiên.‘Turn On The Bright Lights’ arguably laid out the template for the monumentally ambitious, stadium-filling rock of the early ’00s.

Tòa án sàn, ‘Light Up Gold (2012)

Âm thanh của người New York được buộc tội với những dòng guitar nghịch ngợm được đưa ra ở một nhịp độ điên cuồng, lời bài hát tuôn ra từ thủ lĩnh Andrew Savages, bộ não trong một bản vẽ khăng khăng, ý thức. Mặc dù các bản thu âm sau này của họ thu hút rất nhiều về nhạc rock nhảy múa (‘Wide Awake !,) Và Rock KhănNroll đã trở nên Wonky (‘ Hiệu suất của con người), nhưng album đột phá năm 2012 của họ đã đưa Post-punk vào hiện tại với sự khẩn cấp nhất. Trong khi đó, nó bị buộc tội với một sự phục vụ phụ của chủ nghĩa phi lý.

Tại sao nó có ảnh hưởng đến mức như vậy: Khoảnh khắc đột phá của Parquet Courts rất đặc biệt đến nỗi nó vô tình sinh ra toàn bộ thể loại các ban nhạc, những người nghe có vẻ hơi giống sân sàn.Parquet Courts’ breakthrough moment was so distinctive that it accidentally spawned an entire genre of bands who ‘sound a bit like Parquet Courts’.

Savages, ‘Im lặng bản thân (2013)

Khi Savages xuất hiện vào năm 2011, họ đã đi kèm với thần thoại của riêng họ cảm thấy bị xé toạc từ thời điểm khác; Tại các chương trình đầu tiên, Jehnny Beth đã đám đông từ bên trong một cái lồng gỗ và ban nhạc đặt ra tầm nhìn sáng tạo của họ trong một bản tuyên ngôn cô đọng. Nếu bạn tập trung, bạn khó tiếp cận hơn, hãy đọc phần trước của album đầu tay của họ ‘Silence Yourself. Nếu bạn bị phân tâm, bạn có sẵn. Và đó là một ethos thông báo mọi ghi chú cuối cùng; Những người tàn bạo, công nghiệp, rib-cage Juddering sau punk mà không có một ounce.

Xoay quanh trong những bộ trang phục toàn màu đen và tạo ra âm nhạc đáng sợ, đáng sợ, Savages đã nổi tiếng là ‘đáng sợ. Mặc dù từ đó theo họ kể từ đó, ‘Im lặng, chính bạn cũng truyền tải sự vui tươi bẩm sinh của hậu punk tốt nhất, rắc rối với những cơn gió clarinet và melodrama yên tĩnh, có chủ ý. Thêm vào đó, hãy lấy viên đá quý trữ tình này từ ‘Strife

Tại sao nó lại có ảnh hưởng như vậy: & nbsp; Savages mang theo một liều thuốc thần thoại rất cần thiết, và đặt ra những câu hỏi có giá trị về lý do tại sao phụ nữ trong punk thường xuyên được coi là bolshy hoặc đáng sợ.Savages brought with them a dose of much-needed mythology, and raised valuable questions about why women in punk are so frequently branded as bolshy or intimidating.

Fontaines DC, ‘Dogrel, (2019)

Murk độc mà Mark E Smith đã triệu tập với The Fall Landers lớn hơn album đầu tay của ban nhạc Dublin này. Giống như một phiến đá cổ điển, ‘Liberty Belle, trò đùa trên khắp SLOP, kêu gọi giọng hát ủng hộ và trả lời vui tươi. ‘Thành phố Dublin Sky, treo nặng và buồn bã như một màn sương trên thành phố. Và ’quá thực sự bùng nổ với cuộc đối đầu khiêu khích: Có phải nó quá thật đối với bạn không?

Tại sao nó có ảnh hưởng rất lớn: toàn bộ ảnh hưởng của Fontaines vẫn chưa diễn ra - họ vẫn còn trong giai đoạn sơ khai tương đối như một ban nhạc. Nhưng chỉ cần nhìn vào sự đột biến của các ban nhạc đã tạo ra âm nhạc tương tự; Họ đã giúp dẫn đầu một cảnh hồi sinh mới.The full extent of Fontaines’ influence is yet to play out – they’re still in their relative infancy as a band. But just look at the surge of bands already making similarly charged music; they’ve helped to spearhead a new revivalist scene.

Bài viết đầu tiên của Anh là gì

Nhà sử học âm nhạc Clinton Heylin đặt ra "điểm khởi đầu thực sự cho tiếng Anh sau punk" ở đâu đó trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 1977 đến tháng 5 năm 1978, với sự xuất hiện của guitarist John McKay ở Siouxsie và The Banshees vào tháng 7 năm 1977, album đầu tiên của tạp chí1978 và sự hình thành của Công ty TNHH Hình ảnh công cộng.Siouxsie and the Banshees in July 1977, Magazine's first album, Wire's new musical direction in 1978 and the formation of Public Image Ltd.

Là bài đăng U2

Ban đầu bắt nguồn từ phong cách âm nhạc của U2, phong cách âm nhạc của U2 đã phát triển trong suốt sự nghiệp của họ, nhưng vẫn duy trì chất lượng tuyển dụng được xây dựng dựa trên giọng hát biểu cảm của Bono và âm thanh guitar dựa trên hiệu ứng của Bono., U2's musical style has evolved throughout their career, yet has maintained an anthemic quality built on Bono's expressive vocals and the Edge's chiming, effects-based guitar sounds.

Là bài đăng của Smiths

Các Smiths "Không nhịp đập và màu xanh lam, tổng hợp trắng hơn những năm 1960 của những năm 1960 và hậu-punk.post-punk.

Ai là ban nhạc punk bán chạy nhất mọi thời đại?

1) Ngày xanh các cậu bé đã mang phong trào punk pop đến MTV, sân vận động và thậm chí cả Broadway cao hơn bất kỳ nhóm nào khác trong lịch sử thể loại này, "Dookie" chỉ bán hơn 20 triệu bản.Green Day The boys who brought the pop punk movement to MTV, stadiums and even Broadway rank higher than any other group in the genre's history, "Dookie" alone selling over 20 million copies.