100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022
Cuốn theo chiều gió giữ danh hiệu bộ phim có doanh thu cao nhất trong 25 năm và, khi tính đến lạm phát, đã thu về nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào khác.

Phim điện ảnh có nhiều nguồn thu, bao gồm công chiếu ngoài rạp, cho thuê băng đĩa, bản quyền truyền hình và các sản phẩm ăn theo. Tuy nhiên, doanh thu phòng vé là thước đo chính để đánh giá mức độ thành công của một bộ phim, chủ yếu vì nó thường công khai hơn số liệu của video tại gia và quyền phát sóng, đồng thời vì thông lệ lịch sử. Sau đây là danh sách của những bộ phim có doanh thu phòng vé cao nhất (xếp theo cả giá trị thật và giá trị danh nghĩa của doanh thu), danh sách những phim có doanh thu cao nhất mỗi năm, một dòng thời gian các kỷ lục doanh thu phòng vé, và danh sánh những loạt phim có doanh thu cao nhất. Tất cả danh sách đều được xếp theo doanh thu phòng vé quốc tế nếu có thể, không tính doanh thu từ video tại gia, bán quyền phát sóng, hay sản phẩm ăn theo.

Trước đây ở phía Tây bán cầu, phim chiến tranh, phim nhạc kịch và phim lịch sử là những thể loại phổ biến nhất, tuy nhiên vào thế kỷ 21, phim thương hiệu trở thành một trong những thể loại bán chạy nhất. Đặc biểt nổi tiếng là thể loại phim siêu anh hùng, với chín bộ phim thuộc Vũ trụ Điện ảnh Marvel nằm trong danh sách những bộ phim ăn khách nhất theo giá trị danh nghĩa. Bộ phim siêu anh hùng thành công nhất, Avengers: Endgame, cũng là bộ phim có doanh thu cao thứ hai trên bảng xếp hạng doanh thu trên danh nghĩa, và có tổng cộng bốn bộ phim dựa trên loạt truyện tranh Avengers lọt vào top 20 bộ phim đứng đầu. Những loạt phim chuyển thể khác của Marvel Comics cũng đạt được nhiều thành công như Người Nhện và Dị nhân, trong khi những bộ phim dựa trên Người Dơi và Siêu Nhân của DC Comics cũng có doanh thu cao. Star Wars cũng có mặt trên bảng xếp hạng doanh thu danh nghĩa với 5 bộ phim, trong khi các loạt phim Harry Potter, Công viên kỷ Jura và Cướp biển vùng Caribbean đều có tên trên bảng xếp hạng. Mặc dù bảng xếp hạng doanh thu danh nghĩa được thống trị bởi những phim chuyển thể và các loạt phim, đứng đầu danh sách là bộ phim nguyên gốc Avatar. Phim hoạt hình gia đình nhìn chung luôn giữ được mức doanh thu cao, với các phim Disney thường có những lần tái chiếu rất ăn khách trước khi video tại gia trở nên phổ biến. Disney cũng gặt hái thành công với các bộ phim như Frozen I và II, Zootopia, và Vua sư tử (với phiên bản làm lại bằng máy tính là bộ phim hoạt hình có doanh thu cao nhất), cùng với thương hiệu Pixar, trong đó Gia đình siêu nhân 2, Câu chuyện đồ chơi 3 và 4, và Đi tìm Dory là những phim có thành tích tốt nhất. Ngoài hoạt hình của Disney và Pixar, các loạt phim Despicable Me, Shrek và Ice Age cũng gặt hái được nhiều thành công.

Tuy lạm phát khiến hầu hết các phim từ những năm 1960 và 1970 không còn nằm trong danh sách, có những thương hiệu từ giai đoạn đó vẫn còn tiếp tục. Ngoài loạt phim Star Wars và Superman, các bộ phim James Bond và Star Trek vẫn thường xuyên được công chiếu; đây là bốn trong số những loạt phim ăn khách nhất. Một số phim đạt kỷ lục doanh thu trước kia vẫn có con số đáng nể theo tiêu chuẩn ngày nay, nhưng không còn cạnh tranh được với những bộ phim bom tấn ngày nay khi mà giá vé chiếu rạp cao hơn nhiều. Tuy nhiên, khi số tiền thu về được điều chỉnh theo lạm phát, Cuốn theo chiều gió—bộ phim nắm giữ kỷ lục doanh thu cao nhất trong suốt 25 năm—vẫn là bộ phim ăn khách nhất mọi thời đại. Tất cả doanh thu trong bài viết này đều có đơn vị là đô la Mỹ theo giá trị danh nghĩa, trừ khi được ghi chú cụ thể.

Phim có doanh thu cao nhất[sửa | sửa mã nguồn]

100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022
James Cameron, người biên soạn và đạo diễn bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại, Avatar.

Với doanh thu phòng vé toàn cầu hơn 2,8 tỷ đô la Mỹ, Avatar được coi là bộ phim có "doanh thu cao nhất", tuy nhiên khẳng định đó thường chỉ nói về doanh thu chiếu rạp mà không tính doanh thu từ video tại gia và truyền hình, đôi khi cấu thành một phần không nhỏ doanh thu của một bộ phim. Khi tính cả doanh thu từ các phương tiện giải trí tại gia, khó xác định rõ ràng bộ phim nào thành công nhất. Titanic thu về 1,2 tỷ USD từ tiền bán và cho thuê video và DVD,[1] cùng với doanh thu phòng vé 2,2 tỷ USD. Tuy số liệu doanh thu đầy đủ của Avatar không được công khai, bộ phim thu về 345 triệu USD từ doanh số 16 triệu DVD và Blu-ray ở Bắc Mỹ,[2] và cuối cùng bán được hơn 30 triệu đĩa DVD và Blu-ray trên toàn thế giới.[3] Nếu tính cả doanh thu video tại gia, cả hai phim đều thu về hơn 3 tỷ đô la Mỹ. Bản quyền phát sóng cũng đóng góp đáng kể cho doanh thu của một bộ phim, với một số phim nhận về 20–25% doanh thu phòng vé qua một vài lần công chiếu trên ti vi;[4] Titanic thu về hơn 55 triệu đô la Mỹ từ quyền phát sóng với NBC và HBO,[1] bằng khoảng 9% doanh thu phòng vé Bắc Mỹ của bộ phim.

Khi một bộ phim có những bản quyền thương mại mang lời, doanh thu bổ trợ của nó đôi khi còn lấn át cả doanh thu từ việc công chiếu bộ phim.[5] Vua sư tử (1994) thu về hơn 2 tỷ đô la Mỹ tiền bán vé và video tại gia,[6] nhưng doanh thu cho bản chuyển thể nhạc kịch trên toàn cầu lên đến 8 tỷ đô la Mỹ.[7] Việc bán các sản phẩm ăn theo cũng có thể mang về số lời lớn: Vua sư tử bán hơn 3 tỷ đô la Mỹ sản phẩm ăn theo,[8] trong khi bộ phim Cars của Pixar—một thành công khiêm tốn so với các phim khác của Pixar với doanh thu 462 triệu USD[9]—thu về doanh thu sản phẩm ăn theo hơn 8 tỷ USD trong vòng 5 năm kể từ khi công chiếu năm 2006.[10][11] Pixar cũng thắng lớn với Câu chuyện đồ chơi 3, với tiền bán sản phẩm ăn theo ở mức gần 10 tỷ USD cộng với doanh thu phòng vé hơn 1 tỷ USD của bộ phim.[12]

Trong bảng xếp hạng này, các phim được xếp theo doanh thu phòng vé theo giá trị danh nghĩa, cùng với thứ hạng cao nhất mà bộ phim đạt được. Đã có năm bộ phim vượt mốc doanh thu 2 tỷ USD trên toàn cầu, với Avatar đứng ở vị trí số một. Tất cả các phim (bao gồm tái chiếu) đều được phát hành trong thế kỷ 21, và những phim trước đây không xuất hiện trong bảng xếp hạng này là do tác động của lạm phát và quy mô dân số.

  

100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022
Nền tô màu chỉ những phim đang được chiếu trong tuần từ ngày 21 tháng 10 năm 2022 tại các rạp trên toàn thế giới.

Dưới đây là doanh sách những phim ăn khách nhất mọi thời đại có doanh thu trên 900 triệu đô

FBox Office Mojo ngừng cập nhật doanh thu của Nữ hoàng băng giá vào tháng 8 năm 2014, trong khi nó vẫn đang được công chiếu. Con số được ghi ở đây tổng hợp số liệu doanh thu sau đó ở Nhật Bản, Nigeria, Tây Ban Nha, Anh và Đức cho đến cuối năm 2015 nhưng không tính doanh thu vào khoảng vài trăm ngàn đô la Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ, Iceland, Brazil, và Úc (2016). Con số tổng cộng được làm tròn đến hàng triệu để bù cho sự sai lệch số liệu. Bộ phim được tái công chiếu ở Anh vào tháng 12 năm 2017 với Frozen: Chuyến phiêu lưu của Olaf thu về thêm 2,3 triệu đô la Mỹ.

F8Trong trường hợp của Fast & Furious 8 doanh thu được lấy từ một phiên bản lưu trữ của Box Office Mojo, sau khi phát hiện bất thường trong số liệu. Sự giảm tổng doanh thu của một số nước—Argentina là ví dụ rõ ràng nhất—dẫn đến sự giảm con số tổng doanh thu toàn cầu.[13]

RKChúa tể những chiếc nhẫn: Sự trở lại của nhà vua có doanh thu được điều chỉnh năm 2019. Kết quả của điều chỉnh này là Người nhện xa nhà, Đại úy Marvel và Transformers 3: Vùng tối của mặt trăng đều đạt đỉnh ở một bậc thấp hơn so với nguồn được trích dẫn.

TS3Box Office Mojo điều chỉnh doanh thu của các phim của Pixar vào tháng 8 năm 2016, dẫn đến doanh thu của Câu chuyện đồ chơi 3 tăng từ 1,063 tỷ lên thành 1,067 tỷ USD.[14][15] Điều này nghĩa là bộ phim xếp hạng cao nhất ở hạng 4, trên Cướp biển vùng Caribbe 2: Chiếc rương tử thần, thay vì hạng 5 như trong nguồn được trích dẫn.

DM2Disney điều chỉnh doanh thu của Vua sư tử vào tháng 5 năm 2016, từ 987,5 triệu xuống còn 968,5 triệu USD.[16] Điều này nghĩa là Kẻ trộm Mặt Trăng 2 đạt thứ hạng cao nhất là hạng 19, trên Vua sư tử, thay vì hạng 20 như trong nguồn được trích dẫn.

Phim có doanh thu cao nhất tính theo lạm phát[sửa | sửa mã nguồn]

100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022
Tỉ lệ lạm phát của mỗi quốc gia khác nhau, làm cho việc điều chỉnh theo lạm phát khó khăn.

Do tác động dài hạn của lạm phát, đặc biệt là sự tăng đáng kể giá vé chiếu rạp, danh sánh không điều chỉnh lạm phát có xu hướng thiên về những phim ra mắt sau.[17] Tuy thường xuất hiện trong truyền thông, danh sách không tính lạm phát đó đa phần vô dụng cho việc so sánh những phim được chiếu ở những thời điểm cách xa nhau, bởi nhiều phim từ những giai đoạn trước sẽ không bao giờ xuất hiện trên một bảng xếp hạng không tính lạm phát, ngay cả khi thành công hơn về mặt thương mại khi tính đến việc giá cả tăng cao.[18] Để bù đáp cho việc tiền tệ mất giá, một số bảng xếp hạng điều chỉnh theo lạm phát, nhưng ngay cả điều này cũng không giải quyết hoàn toàn vấn đề vì giá vé và lạm phát không nhất thiết tỉ lệ với nhau. Ví dụ, trong năm 1970, một vé xem phim có giá 1,55 đô la Mỹ hay khoảng 6,68 đô la Mỹ theo giá tiền 2004; đến năm 1980, giá vé đã tăng lên mức khoảng 2,69 đô la Mỹ, nhưng chỉ tương đương với 5,50 đô la Mỹ theo giá tiền 2004.[19] Giá vé cũng tăng ở các mức lạm phát khác nhau trên thế giới, càng gây khó khăn cho quá trình điều chỉnh doanh thu toàn cầu.[17]

Một trở ngại khác là việc công chiếu bằng nhiều định dạng với những mức giá vé khác nhau. Một ví dụ nổi bật cho hiện tượng này là Avatar, cũng được phát hành trong định dạng 3D và IMAX: gần hai phần ba số vé cho bộ phim là các suất chiếu 3D với giá trung bình là 10 đô la Mỹ, và khoảng một phần sáu là các suất chiếu IMAX với giá vé trung bình 14,50 đô la Mỹ, so với mức giá trung bình 7,61 đô la Mỹ cho phim 2D năm 2010.[20] Các yếu tố xã hội và kinh tế như gia tăng dân số[21] và sự phát triển của thị trường quốc tế[22][23][24] cũng tác động đến số người mua vé xem phim, cũng như thành phần khán giả trong đó một số phim có tỉ lệ vé trẻ em rất cao, hoặc thu hút với khán giả thành thị nơi giá vé thường cao hơn trung bình.[18]

Thước đo mức độ thành công của một bộ phim dựa trên doanh thu danh nghĩa, chủ yếu là vì đây là thông lệ được ngành điện ảnh thực hiện trong quá khứ: biên lai phòng vé được các rạp phim thu thập và trả về cho nhà phân phối rồi được công bố cho truyền thông.[25] Việc đổi sang một hệ thống đo số vé bán ra thay vì doanh thu cũng có nhiều vấn đề bởi số liệu cho những phim cũ thường chỉ có tổng doanh thu.[21] Ngành làm phim cũng có thiên hướng quảng bá cho những phim đang được công chiếu, dẫn đến việc sử dụng số liệu không lạm phát trong các chiến dịch quảng bá để những phim bom tấn mới đạt được thứ hạng doanh thu cao hơn để thu hút người xem.[19][25][26]

Mặc cho những khó khăn trong việc điều chỉnh cho lạm phát, một số bảng xếp hạng như thế đã được đưa ra. Các ước tính dựa trên chỉ số giá để điều chỉnh doanh thu[26] và tỷ giá hối đoái để đổi các đơn vị tiền tệ, cả hai đều có thể tác động đến thứ hạng trong một danh sách tính đến lạm phát. Cuốn theo chiều gió—công chiếu năm 1939—thường được coi là bộ phim thành công nhất, với Sách Kỷ lục Guinness năm 2014 ước tính doanh thu toàn cầu của bộ phim là 3,4 tỷ đô la Mỹ đã tính lạm phát. Tuy nhiên, các ước tính doanh thu của Cuốn theo chiều gió chênh nhau đáng kể: chủ sở hữu bộ phim, Turner Entertainment, ước tính doanh thu điều chỉnh của nó là 3,3 tỷ đô la Mỹ trong năm 2007;[27] những ước tính khác dao động từ dưới 3 tỷ đô la Mỹ năm 2010,[28] cho đến 3,8 tỷ đô la Mỹ năm 2006.[29] Bộ phim xếp thứ hai sau Cuốn theo chiều gió tùy thuộc vào nguồn số liệu được dùng: Guinness xếp Avatar thứ hai với doanh thu 3 tỷ đô la Mỹ, trong khi những ước tính khác đặt Titanic ở vị trí thứ hai với doanh thu toàn cầu khoảng 2,9 tỷ đô la Mỹ theo giá năm 2010.[28]

InfĐiều chỉnh lạm phát được thực hiện sử dụng chỉ số giá tiêu dùng cho các nền kinh tế phát triển được công bố bởi Quỹ Tiền tệ Quốc tế.[31] Chỉ số này được áp dụng cho toàn bộ doanh thu trong bảng xếp hạng của Sácg Kỷ lục Guiness năm 2014, bắt đầu từ chỉ số năm 2014. Số liệu trong bảng trên tính đến lạm phát cho các năm từ 2014 đến 2020.

ADoanh thu điều chỉnh của Avatar bao gồm doanh thu từ lần công chiếu đầu tiên và Phiên bản Đặc biệt năm 2010, nhưng không tính lần chiếu lại năm 2020 và 2021.

TDoanh thu điều chỉnh của Titanic do Guiness ghi nhận tăng khoảng 102.000.000 USD giữa phiên bản năm 2012 (xuất bản năm 2011) và năm 2015, một mức tăng 4,2% bằng với các phim khác trong bảng xếp hạng, mà không tính lần tái chiếu bằng 3D năm 2012.[30][32] Bảng xếp hạng trên tính cả doanh thu 343.550.770 USD từ lần chiếu lại và tính từ chỉ số giá năm 2014.[33] Titanic thu về thêm $691,642 trong một đợt tái chiếu giới hạn năm 2017 nhân kỷ niệm 20 năm, nhưng con số này không được tính trong tổng số điều chỉnh.[34]

AEDoanh thu của Avengers: Hồi kết được điều chỉnh bằng chỉ số giá năm 2020.

Phim có doanh thu cao nhất năm[sửa | sửa mã nguồn]

Số liệu phòng vé thường được ghi nhận dưới dạng tổng biên lai hoặc tiền thuê nhà phân phối, dạng sau đặc biệt phổ biến với những phim cũ. Thường bị nhầm với doanh thu video tại gia, tiền thuê là tỉ lệ doanh thu chiếu rạp của một bộ phim thuộc về nhà phân phối, tức tổng doanh thu trừ phần các rạp chiếu phim giữ.[35][36] Trong quá khứ, giá tiền thuê vào khoảng 30–40% khi nhà phân phối cũng giữ quyền sở hữu rạp phim, tức các nhà phân phối thu về hơn một phần ba doanh thu.[37] Trong thị trường ngày nay, giá tiền thuê phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau—tuy nhiên phim từ các hãng lớn thường trung bình ở mức 43%.[35]

Đầu thế kỷ 20, thị hiếu khán giả khá đa dạng, tuy nhiên cũng có một số xu hướng xuất hiện. Trong thời kỳ phim câm, phim với chủ đề chiến tranh trở nên nổi tiếng, với The Birth of a Nation (Nội chiến Mỹ), The Four Horsemen of the Apocalypse, The Big Parade và Wings (đều là Thế chiến I) trở thành những phim thành công nhất năm nó ra mắt, và dần hạ nhiệt với All Quiet on the Western Front năm 1930. Phim có tiếng ra đời năm 1927 dẫn đến sự phổ biến của thể loại ca nhạc, và cả năm 1928 và 1929 đều do phim ca nhạc dẫn đầu phòng vé. Thể loại ca nhạc tiếp tục thịnh hành trong những năm 1930, nhưng với Thế chiến II nổ ra chứng kiến một lần nữa sự thống trị của những phim chiến tranh, bắt đầu từ Cuốn theo chiều gió (Nội chiến Mỹ) năm 1939, và kết thúc với The Best Years of Our Lives (Thế chiến II) năm 1946. Samson and Delilah (1949) mở đầu cho xu hướng phim lịch sử trong bối cảnh La Mã cổ đại/thời kỳ kinh thánh xuyên suốt thập niên 1950 khi mà rạp phim tranh giành người xem với truyền hình,[38] với Quo Vadis, The Robe, The Ten Commandments, Ben-Hur và Spartacus đều trở thành phim có doanh thu cao nhất năm công chiếu, trước khi thể loại này mất dần sức hút sau vài thất bại phòng vé.[39] Thành công của White Christmas và South Pacific trong thập niên 1950 cho thấy sự trở lại của phim ca nhạc trong những năm 1960 với West Side Story, Mary Poppins, My Fair Lady, The Sound of Music và Funny Girl nằm trong nhóm những phim thành công nhất thập kỷ. Thập niên 1970 chứng kiến sự biến chuyển trong thị hiếu khán giả sang những phim high concept, với sáu phim đứng đầu phòng vé thập niên 1980 thuộc về hai đạo diễn George Lucas và Steven Spielberg. Thế kỷ 21 cho thấy sự lớn mạnh của các loạt phim và chuyển thể, với đại đa số các phim dẫn đầu phòng vé đều dựa trên những công trình trước đó.[40]

100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022
Đạo diễn Steven Spielberg có sáu phim dẫn đầu phòng vé của năm, và ba phim có doanh thu cao nhất đến thời điểm đó.

Steven Spielberg là đạo diễn xuất hiện nhiều nhất trong bảng xếp hạng, với sáu phim do ông chỉ đạo, đứng đầu phòng vé các năm 1975, 1981, 1982, 1984, 1989 và 1993. Cecil B. DeMille (1932, 1947, 1949, 1952 và 1956) và William Wyler (1942, 1946, 1959 và 1968) đứng thứ hai và thứ ba, lần lượt với năm và bốn phim, còn D. W. Griffith (1915, 1916 và 1920), George Roy Hill (1966, 1969 và 1973), James Cameron (1991, 1997 và 2009) và anh em nhà Russo (2016, 2018 và 2019) mỗi người có ba phim. George Lucas đạo diễn hai phim đứng đầu năm 1977 và 1999, nhưng cũng tham gia với vai trò nhà sản xuất và biên soạn trong các năm 1980, 1981, 1983, 1984 và 1989. Những đạo diễn sau cũng có hai phim trên bảng xếp hạng: Frank Lloyd, King Vidor, Frank Capra, Michael Curtiz, Leo McCarey, Alfred Hitchcock, David Lean, Stanley Kubrick, Guy Hamilton, Mike Nichols, William Friedkin, Peter Jackson, Gore Verbinski, và Michael Bay; Mervyn LeRoy, Ken Annakin và Robert Wise có một phim solo và một phim làm chung, và John Ford đồng đạo diễn hai phim. Các phim của Disney thường được đồng đạo diễn và vài người đã tham gia vào một số đội đứng đầu: Wilfred Jackson, Hamilton Luske, Clyde Geronimi, David Hand, Ben Sharpsteen, Wolfgang Reitherman và Bill Roberts đều đã đồng đạo diễn ít nhất hai phim trong bảng xếp hạng. Chỉ có bảy đạo diễn dứng đầu phòng vé trong hai năm liên tiếp: McCarey (1944 và 1945), Nichols (1966 và 1967), Spielberg (1981 và 1982), Jackson (2002 và 2003), Verbinski (2006 và 2007) và anh em nhà Russo (2018 và 2019).

Vì đặc điểm của lịch công chiếu—đặc biết với những phim ra mắt gần cuối năm—và thời gian ra mắt khác nhau trên thế giới, nhiều phim được chiếu trong hai năm lịch; và do đó tổng doanh thu ở đây không giới hạn trong năm bắt đầu công chiếu. Con số này cũng không giới hạn trong đợt chiếu rạp đầu tiên, bởi nhiều phim cũ thường xuyên được tái chiếu nên con số ở đây là tổng doanh thu của tất cả các lần chiếu; doanh thu của đợt chiếu đầu tiên được để trong ngoặc nếu có. Vì số liệu không hoàn toàn đầy đủ, khó có thể biết chính xác một phim thu về bao nhiêu và khi nào, nhưng nhìn chung bảng xếp hạng này ghi nhận mỗi phim của năm mà có doanh thu ở cuối đợt phát hành là lớn nhất. Trong trường các ước tính mâu thuẫn nhau, cả hai phim được liệt kê, và trong trường hợp một phim tăng bậc nhờ tái chiếu, phim đứng đầu trước đó cũng được giữ lại.

  

100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022
Nền tô màu chỉ những phim đang được chiếu trong tuần từ ngày 21 tháng 10 năm 2022 tại các rạp trên toàn thế giới.

(...) Do doanh thu không giới hạn trong lần công chiếu đầu tiên, doanh thu của lần chiếu đầu được để trong ngoặc sau tổng doanh thu nếu có.

*Doanh thu ở Hoa Kỳ và Canada.

RTiền thuê nhà phân phối.

TBAChưa xác định.

INKhông có nguồn hiện đại nào cung cấp số liệu cho Hai vạn dặm dưới biển, tuy nhiên The Numbers đưa ra con số 8.000.000 USD cho doanh thu phòng vé Bắc Mỹ.[44] Tuy nhiên, nhiều khả năng con số này bị nhầm với doanh thu của bản làm lại năm 1954, cũng thu về 8.000.000 USD tiền thuê ở Bắc Mỹ.[45]

FHMột số nguồn như The Numbers khẳng định Aloma of the South Seas là phim ăn khách nhất năm, thu về 3 triệu USD.[46] Tuy nhiên, không có nguồn hiện đại nào cung cấp số liệu cho Aloma of the South Seas, cho nên không rõ con số 3 triệu USD đến từ đâu. Nếu là tổng tiền thuê thì nó sẽ là một trong những phim ăn khách nhất của thời kỳ phim câm, một điều khó xảy ra khi mà cả International Motion Picture Almanac và Variety không đưa bộ phim vào danh sách của họ.

SSKhông rõ số liệu của Sunny Side Up là của Bắc Mỹ hay quốc tế. Những nguồn khác đưa ra con số doanh thu 2 triệu USD,[47] dẫn đến ý kiến cho rằng con số cao hơn là số liệu phòng vé quốc tế.[48]

ONSố liệu của It Happened One Night không hoàn toàn thể hiện thành công của nó: bộ phim được phân phối trong một gói gồm hơn hai mươi phim Columbia khác, và tổng doanh thu được tính trung bình; doanh thu thật sự sẽ cao hơn nhiều.

S7Doanh thu 418 triệu USD của Bạch Tuyết không tính doanh thu ngoài Bắc Mỹ kể từ năm 1987.

GWDoanh thu từ lần chiếu đầu của Cuốn theo chiều gió không được xác định rõ ràng. Các nguồn hiện đại hay đưa ra con số 32 triệu USD Tiền thuê nội địa và các bảng xếp hạng thường sử dụng con số này;tuy nhiên, nhiều khả năng đây là tiền thuê quốc tế. Tạp chí thương mại thu thập dữ liệu từ các nhà phân phối hoặc khảo sát các rạp chiếu phim và đưa ra ước tính. Các nhà phân phối thường công bố con số tiền thuê quốc tế vì doanh thu cao hơn làm bộ phim có vẻ thành công hơn, trong khi các ước tính chỉ giới hạn trong phòng vé Bắc Mỹ; do đó không quá lạ khi số Tiền thuê nội địa và quốc tế bị lẫn lộn. Sau khi Thế chiến thứ hai nổ ra, nhiều thị trường quốc tế phải đóng cửa nên thông lệ trở thành báo cáo con số phòng vé Bắc Mỹ.[48] Theo đó, Tiền thuê nội địa của Cuốn theo chiều gió được điều chỉnh thành 21 triệu USD năm 1947 (11 triệu USD thấp hơn con số trước đó),[49] và đến năm 1953—sau lần tái chiếu năm 1947—Variety thông báo doanh thu là 26 triệu USD.[50] Trong năm 1956, MGM ghi nhận doanh thu ở Bắc Mỹ là 30.015.000 USD và quốc tế là $18.964.000 qua ba lần chiếu.[51] Tiền thuê quốc tế 32 triệu USD từ lần chiếu đầu khớp với số liệu sau đó: chúng cho thấy bộ phim thu về 21 triệu USD ở Bắc Mỹ và 11 triệu USD ngoài Bắc Mỹ từ lần chiếu đầu, và thu về thêm 9 triệu USD ở Bắc Mỹ và 8 triệu USD ngoài Bắc Mỹ qua những lần tái chiếu cho đến năm 1956.

MDMom and Dad thường không xuất hiện trong các danh sách phim có doanh thu cao như của Variety do được phân phối độc lập. Về cơ bản là phim thương mại, nó được quảng bá là bộ phim giáo dục sức khỏe tình dục để tránh luật kiểm duyệt. Không tuân thủ Luật Sản xuất Phim Điện ảnh, Mom and Dad bị cấm phân phối rộng rãi mà chỉ được chiếu trong các rạp phim độc lập và drive-in. Đây là bộ phim thành công nhất thể loại, và vẫn được phân phối cho đến thập niên 1970 khi mà Khiêu dâm hardcore dần chiếm lĩnh thị trường. Đến cuối năm 1947 bộ phim thu về 2 triệu USD, và đến năm 1949, 8 triệu; đến năm 1956 nó đã thu về 22 triệu USD tiền thuê, với tổng doanh thu 80 triệu USD, và lọt vào top 10 bộ phim cuối những năm 1940, đầu những năm 1950. Các ước tính tổng doanh thu lên đến con số 100 triệu USD.

UNChopra-Gant nói con số của Unconquered là doanh thu Bắc Mỹ, nhưng cũng như nhiều bộ phim khác thời đó, danh sách nhầm lẫn giữa doanh thu Bắc Mỹ và quốc tế. Các nguồn khác nói rằng con số của Forever Amber (8 triệu USD) và Life with Father (6,5 triệu USD)[52] là tiền thuê quốc tế, do đó có khả năng điều này cũng đúng với Unconquered.

CICon số của Cinerama là tổng doanh thu. Vì Cinerama sở hữu các rạp chiếu phim nên không có phí thuê cho các bộ phim này, tức hãng làm phim nhận 100% doanh thu phòng vé, không như hầu hết các phim khác trong đó nhà phân phối thường nhận được không quá nửa doanh thu. Vì Variety vào thời điểm đó xếp hạng phim theo tiền thuê ở Mỹ, họ đưa ra một con số giả định cho các phim của Cinerama để so sánh với những phim khác trong bảng xếp hạng: trong trường hợp của This Is Cinerama, con số 50 triệu USD doanh thu toàn cầu được tính lại thành 12,5 triệu tiền thuê ở Mỹ; có vẻ như công thức của Variety là chia đôi doanh thu để xấp xỉ doanh thu ở Mỹ, và chia đôi lần nữa để xấp xỉ tiền thuê. Con số 12,5 triệu này của Variety thường được trích dẫn, nhưng không thể hiện khách quan con số thực của bộ phim mà chỉ là số liệu giả định được đưa ra để phân tích so sánh.[53] Cả năm phin Cinerama cộng lại đã thu về 120 triệu USD doanh thu phòng vé trên toàn thế giới.[54]

GSVariety đưa ra tiền thuê quốc tế của The Greatest Show on Earth vào khoảng 18,35 triệu USD (với 12,8 triệu USD đến từ Hoa Kỳ[45]) một năm sau khi phát hành; tuy nhiên, Birchard ước tính doanh thu của bộ phim là 15 triệu USD cho đến năm 1962. Nhiều khả năng con số của Birchard chỉ là tiền thuê ở Bắc Mỹ, và tính cả doanh thu từ các lần tái chiếu năm 1954 và 1960.

SWDoanh thu "lần chiếu đầu" của Star Wars không tính các lần chiếu phiên bản đặc biệt năm 1997; tuy nhiên, con số này có tính doanh thu từ các lần tái chiếu trước đó.

HPKinh phí sản xuất được tính chung với Harry Potter và Bảo bối tử thần – Phần 1.

Loạt phim và thương hiệu có doanh thu cao nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Trước năm 2000, chỉ có bảy loạt phim có doanh thu phòng vé hơn 1 tỷ đô la Mỹ: James Bond,[55] Star Wars,[56] Indiana Jones,[57] Rocky,[58][59][60] Batman,[61] Công viên kỷ Jura,[62] và Star Trek.[63] Kể từ đầu thế kỷ, con số đã tăng lên hơn 70 (không tính những bom tấn đơn lẻ như Avatar, Titanic, và Zootopia).[64] Điều này chủ yếu vì lạm phát và sự tăng trưởng của thị trường, nhưng cũng bởi việc sử dụng mô hình thương hiệu của Hollywood: những phim với danh tiếng có sẵn, như là dựa trên một nguyên tác văn học hoặc một nhân vật nổi tiếng. Phương pháp này dựa trên ý tưởng rằng phim liên quan đến những thứ khán giả đã biết có thể được quảng bá hiệu quả hơn, và do đó giới trong ngành gọi là phim "bán trước".[65]

Một thương hiệu thường được định nghĩa là ít nhất hai tác phẩm dựa trên một tài sản trí tuệ chung. Một đặc trưng cơ bản của mô hình thương hiệu là khái niệm crossover, nghĩa là "một câu chuyện mà trong đó nhân vật hay ý tưởng từ hai hoặc nhiều tác phẩm khác gặp nhau".[66] Một hệ quả của crossover là tài sản trí tuệ có thể được sử dụng bởi nhiều hơn một thương hiệu. Ví dụ, Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý không chỉ thuộc về thương hiệu Batman và Superman, mà còn thuộc Vũ trụ Mở rộng DC, một vũ trụ liên kết, một loại crossover mà trong đó nhân vật từ các tác phẩm hư cấu khác nhau cùng chia sẻ một thế giới hư cấu chung.[67] Vũ trụ liên kết thành công nhất trên màn ảnh là Vũ trụ Điện ảnh Marvel, một crossover giữa nhiều tài sản siêu anh hùng sở hữu bởi Marvel Comics, và là thương hiệu ăn khách nhất với doanh thu phòng vé hơn 25 tỷ đô la Mỹ.

Loạt phim Star Wars là thương hiệu ăn khách nhất dựa trên một tài sản duy nhất, thu về hơn 10 tỷ USD tại phòng vé (tuy nhiên các phim James Bond của Eon thu về hơn 18 tỷ USD khi được điều chỉnh lạm phát).[69] Nếu tính cả các nguồn thu bổ sung thì Star Wars là tài sản có giá trị nhất;[70] giữ kỷ lục Guinness cho "thương hiệu phim ảnh thành công nhất" và được định giá vào mức 19,51 tỷ bảng Anh năm 2012 (khoảng 30 tỷ USD).[71][72] Vũ trụ Điện ảnh Marvel có nhiều phim trên 1 tỷ USD nhất với 9 phim. Bốn bộ phim Avengers và hai bộ phim Frozen là hai thương hiệu có mỗi phần đều có doanh thu hơn 1 tỷ USD. Cùng với Vua sư tử, đây cũng là những thương hiệu duy nhất có mức doanh thu trung bình đạt trên 1 tỷ USD mỗi phim.

  

100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022
Nền tô màu chỉ những phim đang được chiếu trong tuần từ ngày 21 tháng 10 năm 2022 tại các rạp trên toàn thế giới.

Loạt phim và thương hiệu ăn khách nhất[§](Có thể xem các phim trong mỗi thương hiệu bằng cách nhấn "hiện".)
Hạng Loạt phim Tổng doanh thu toàn cầu Số phim Trung bình phim Phim có doanh thu cao nhất

{{Highest-grossing films franchise|type=franchise|rank=1|title=Vũ trụ Điện ảnh Marvel |total=27439023513|number=29|highest=Avengers: Hồi Kết|gross=2797501328|release=

Giai đoạn 4$4.851.120.479 6 $808.520.080 Doctor Strange in the Multiverse of Madness ($955.775.804)
1 [Thor: Love and Thunder]] (2022) $760.740.359
2 [Doctor Strange in the Multiverse of Madness]] (2022) $955.775.804
3 [Spider-Man: No Way Home] (2021) $1.920.544.470
4 [Eternals]] (2021) $402.064.899
5 [Shang-Chi and the Legend of the Ten Rings]] (2021) $432.243.292
6 [Black Widow]] (2021) $379.751.655
Giai đoạn 3$13.504.967.341 11 $1.227.724.304 Avengers: Hồi kết ($2.797.501.328)
1 Avengers: Hồi kết(2019) $2.797.501.328
2 Avengers: Cuộc chiến vô cực(2018) $2.048.359.754
3 Black Panther: Chiến binh Báo Đen(2018) $1.347.280.838
4 Captain America: Nội chiến siêu anh hùng(2016) $1.153.329.473
5 Người Nhện xa nhà(2019) $1.131.928.519
6 Đại úy Marvel(2019) $1.128.274.794
7 Người Nhện: Trở về nhà(2017) $880.166.924
8 Vệ binh dải Ngân Hà 2(2017) $863.756.051
9 Thor: Tận thế Ragnarok(2017) $853.977.126
10 Doctor Strange(2016) $677.718.395
11 Người Kiến và Chiến binh Ong(2018) $622.674.139
Giai đoạn 2$5.271.691.209 6 $878.615.202 Avengers: Đế chế Ultron ($1.405.403.694)
1 Avengers: Đế chế Ultron(2015) $1.405.403.694
2 Người Sắt 3(2013) $1.214.811.252
3 Vệ binh dải Ngân Hà(2014) $773.328.629
4 Captain America: Chiến binh mùa đông(2014) $714.264.267
5 Thor 2: Thế giới Bóng tối(2013) $644.571.402
6 Người Kiến(2015) $519.311.965
Giai đoạn 1$3.811.244.484 6 $635.207.414 The Avengers ($1.518.812.988)
1 The Avengers(2012) $1.518.812.988
2 Người Sắt 2(2010) $623.933.331
3 Người Sắt(2008) $585.174.222
4 Thor(2011) $449.326.618
5 Captain America: Kẻ báo thù đầu tiên(2011) $370.569.774
6 Người khổng lồ xanh phi thường(2008) $263.427.551
2 Star Wars$10.315.843.646 12 $859.653.637 Thần lực thức tỉnh ($2.068.223.624)
Saga Skywalker$8.798.578.722 9 $977.619.858 Thần lực thức tỉnh ($2.068.223.624)
Bộ ba hậu truyện$4.474.907.761 3 $1.491.635.920 Thần lực thức tỉnh ($2.068.223.624)
1 VII – Thần lực thức tỉnh(2015) $2.068.223.624
2 VIII – Jedi cuối cùng(2017) $1.332.539.889
3 IX – Skywalker trỗi dậy(2019) $1.074.144.248
Bộ ba tiền truyện$2.525.197.773 3 $841.732.591 Hiểm họa bóng ma ($1.027.044.677)
1 I – Hiểm họa bóng ma(1999) $1.027.044.677
2 III – Sự báo thù của người Sith(2005) $848.754.768
3 II – Sự xâm lăng của người Vô tính(2002) $649.398.328
Bộ ba chính truyện$1.798.473.188 3 $599.491.063 A New Hope ($775.398.007)
1 IV – Niềm hi vọng mới(1977) $775.398.007
2 V – Đế chế phản công(1980) $547.969.004
3 VI – Sự trở lại của Jedi(1983) $475.106.177
Phim hợp tuyển$1.448.982.080 2 $724.491.040 Rogue One ($1.056.057.273)
1 Rogue One(2016) $1.056.057.273
2 Solo(2018) $392.924.807
The Clone Wars(2008) $68.282.844
3 Thế giới phù thủy$9.650.574.615 11 $877.324.965 Harry Potter và Bảo bối tử thần – Phần 2 ($1.342.025.430)
Loạt phim Harry Potter$7.776.718.872 8 $972.089.859 Bảo bối Tử thần – Phần 2 ($1.341.693.157)
1 Bảo bối tử thần – Phần 2(2011) $1.342.025.430
2 Hòn đá phù thủy(2001) $1.006.968.171
3 Bảo bối tử thần – Phần 1(2010) $976.941.486
4 Hội phượng hoàng(2007) $942.900.866
5 Hoàng tử lai(2009) $934.394.929
6 Chiếc cúp lửa(2005) $896.374.191
7 Phòng chứa bí mật(2002) $880.295.582
8 Tên tù nhân ngục Azkaban(2004) $796.818.217
Loạt phim Sinh vật huyền bí$1.873.855.743 2 $936.927.872 Sinh vật huyền bí và nơi tìm ra chúng ($814.038.508)
1 Sinh vật huyền bí và nơi tìm ra chúng(2016) $814.038.508
2 Tội ác của Grindelwald(2018) $654.655.901
3 Bí mật của Dumbledore(2022)" $405.161.334
4 Avengers$7.770.077.764 4 $1.942.519.441 Endgame ($2.797.501.328)
1 Hồi kết(2019) $2.797.501.328
2 Cuộc chiến vô cực(2018) $2.048.359.754
3 The Avengers(2012) $1.518.812.988
4 Đế chế Ultron(2015) $1.405.403.694
5 Người Nhện$9.634.317.540 11 $875.847.049 Người nhện không còn nhà ($1.920.544.470)
Loạt phim Raimi$2.496.346.518 3 $832.115.506 Spider-Man 3 ($890.871.626)
1 Người Nhện 3(2007) $890.871.626
2 Người Nhện(2002) $821.708.551
3 Người Nhện 2(2004) $783.766.341
Vũ trụ Điện ảnh Marvel$4.721.255.864 2 $2.360.627.932 Người Nhện xa nhà ($1.131.928.519)
1 Người Nhện: Không còn nhà(2021) $1.920.544.470
2 Người Nhện xa nhà(2019) $1.920.544.470
3 Trở về nhà(2017) $880.166.924
Loạt phim Webb$1.466.912.986 2 $733.456.493 Người Nhện siêu đẳng ($757.930.663)
1 Người Nhện siêu đẳng(2012) $757.930.663
2 Người Nhện siêu đẳng 2(2014) $708.982.323
Vũ trụ Sony Pictures của các nhân vật Marvel$1.362.948.743 1 $1.362.948.743 Venom ($856.085.151)
1 Venom(2018) $856.085.151
2 Venom let there be carnage(2021) $506.863.592
Vũ trụ mới(2018) $375.469.903
6 James Bond$7.041.344.771 26 $270.820.953 Skyfall ($1.108.561.013)
Loạt phim Eon$6.839.600.053 24 $284.983.336 Tử địa Skyfall ($1.108.561.013)
Daniel Craig$3.175.491.435 4 $793.872.859 Tử địa Skyfall ($1.108.561.013)
1 Tử địa Skyfall(2012) $1.108.561.013
2 Spectre(2015) $880.674.609
3 Sòng bạc hoàng gia(2006) $600.165.086
4 Định mức khuây khỏa(2008) $586.090.727
Pierce Brosnan$1.479.008.618 4 $369.752.155 Die Another Day ($431.971.116)
1 Die Another Day(2002) $431.971.116
2 The World Is Not Enough(1999) $361.832.400
3 GoldenEye(1995) $352.194.034
4 Tomorrow Never Dies(1997) $333.011.068
Roger Moore$1.151.600.000 7 $164.514.286 Moonraker ($210.300.000)
1 Moonraker(1979) $210.300.000
2 For Your Eyes Only(1981) $194.900.000
3 The Spy Who Loved Me(1977) $185.400.000
4 Octopussy(1983) $183.700.000
5 A View to a Kill(1985) $152.400.000
6 Live and Let Die(1973) $126.400.000
7 The Man with the Golden Gun(1974) $98.500.000
Sean Connery$621.500.000 6 $103.583.333 Thunderball ($141.200.000)
1 Thunderball(1965) $141.200.000
2 Goldfinger(1964) $124.900.000
3 Diamonds Are Forever(1971) $116.000.000
4 You Only Live Twice(1967) $101.000.000
5 From Russia with Love(1963) $78.900.000
6 Dr. No(1962) $59.500.000
Timothy Dalton's Bond$347.400.000 2 $173.700.000 The Living Daylights ($191.200.000)
1 The Living Daylights(1987) $191.200.000
2 Licence to Kill(1989) $156.200.000
George Lazenby's Bond$64.600.000 1 $64.600.000 On Her Majesty's Secret Service ($64.600.000)
1 On Her Majesty's Secret Service(1969) $64.600.000
Never Say Never Again(1983) $160.000.000
Casino Royale(1967) $41.744.718
7 Fast & Furious
100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022
$6.186.409.279 10 $618.640.928 Furious 7 ($1.516.045.911)
Saga Fast
100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022
$5.427.352.344 9 $603.039.149 Furious 7 ($1.516.045.911)
1 Fast & Furious 7(2015) $1.516.045.911
2 Fast & Furious 8(2017)F8 $1.238.764.765
3 Fast & Furious 6(2013) $788.679.850
4 Fast & Furious 5(2011) $626.137.675
5 Fast & Furious 4(2009) $363.164.265
6 Fast & Furious 9(2021)
100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022
$292.457.000
7 2 Fast 2 Furious(2003) $236.350.661
8 The Fast and the Furious(2001) $207.283.925
9 Tokyo Drift(2006) $158.468.292
Hobbs & Shaw(2019) $759.056.935
8 X-men$6.083.343.812 13 $467.949.524 Deadpool 2 ($785.046.920)
Loạt phim chính$3.061.275.291 7 $437.325.042 Ngày cũ của tương lai ($747.862.775)
1 Ngày cũ của tương lai(2014) $747.862.775
2 Cuộc chiến chống Apocalypse(2016) $543.934.787
3 Phán xét cuối cùng(2006) $459.359.555
4 X2(2003) $407.711.549
5 Thế hệ thứ nhất(2011) $353.624.124
6 X-Men(2000) $296.339.527
7 Phượng hoàng bóng tối(2019) $252.442.974
Loạt phim Deadpool$1.568.159.899 2 $784.079.950 Deadpool 2 ($785.046.920)
1 Deadpool 2(2018) $785.046.920
2 Deadpool(2016) $783.112.979
Loạt phim Wolverine$1.406.912.546 3 $468.970.849 Logan ($619.021.436)
1 Logan(2017) $619.021.436
2 Người sói Wolverine(2013) $414.828.246
3 Người Sói(2009) $373.062.864
Dị nhân thế hệ mới(2020) $46.996.076
9 Batman$6.072.549.025 16 $379.534.314 Kỹ sĩ bóng đêm trỗi dậy ($1.084.939.099)
Loạt phim Nolan$2.463.716.216 3 $821.238.739 The Dark Knight Rises ($1.084.939.099)
1 Kỵ sĩ bóng đêm trỗi dậy(2012) $1.084.939.099
2 Kỵ sĩ bóng đêm(2008) $1.004.558.444
3 Huyền thoại Người Dơi(2005) $374.218.673
Loạt phim Burton/Schumacher$1.253.192.682 4 $313.298.171 Batman ($411.556.825)
1 Batman(1989) $411.556.825
2 Batman Forever(1995) $336.567.531
3 Batman Returns(1992) $266.832.411
4 Batman & Robin(1997) $238.235.915
Joker(2019) $1.074.251.311
Vũ trụ Mở rộng DC$873.634.919 1 $873.634.919 Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý ($873.634.919)
1 Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý(2016) $873.634.919
The Lego Batman Movie(2017) $311.950.384
Catwoman(2004) $82.102.379
Mask of the Phantasm(1993) $5.617.391
Phim hoạt hình gốc của Vũ trụ DC$4.501.125 2 $2.250.563 The Killing Joke ($4.462.034)
1 The Killing Joke(2016) $4.462.034
2 Batman và Harley Quinn(2017) $39.091
Loạt phim truyền hình 1960$3.957.343 2 $1.978.672 Batman: The Movie ($3.900.000)
1 Batman (1966)*R $3.900.000
2 Return of the Caped Crusaders(2016) $57.343
10 Trung địa$5.953.077.710 7 $850.439.673 Chúa tể những chiếc nhẫn: Sự trở lại của nhà vua ($1.146.030.912)
Loạt phim Jackson$5.922.606.290 6 $987.101.048 Chúa tể những chiếc nhẫn: Sự trở lại của nhà vua ($1.146.030.912)
Chúa tể những chiếc nhẫn$2.991.216.079 3 $997.072.026 Sự trở lại của nhà vua ($1.146.030.912)
1 Sự trở lại của nhà vua(2003) $1.146.030.912
2 Hai tòa tháp(2002) $947.495.095
3 Hiệp hội nhẫn thần(2001) $897.690.072
Người Hobbit$2.931.390.211 3 $977.130.070 Hành trình vô định ($1.021.103.568)
1 Hành trình vô định(2012) $1.017.003.568
2 Đại chiến với rồng lửa(2013) $958.366.855
3 Đại chiến Năm cánh quân(2014) $956.019.788
Chúa tế những chiếc nhẫn(1978) $30.471.420
11 Vũ trụ Mở rộng DCS$5.651.148.668 9 $627.905.408 Aquaman ($1.148.485.886)
1 Aquaman(2018) $1.148.485.886
2 Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý(2016) $873.634.919
3 Wonder Woman(2017) $821.847.012
4 Biệt đội cảm tử(2016) $746.846.894
5 Người đàn ông thép(2013) $668.045.518
6 Liên minh Công lý(2017) $657.924.295
7 Shazam!(2019) $365.971.656
8 Birds of Prey(2020) $201.858.461
9 Wonder Woman 1984(2020) $166.534.027
12 Công viên kỷ Jura$4.998.557.380 5 $999.711.476 Thế giới khủng long ($1.671.713.208)
Thế giới khủng long$2.981.197.669 2 $1.490.598.835 Thế giới khủng long ($1.671.713.208)
1 Thế giới khủng long(2015) $1.671.713.208
2 Vương quốc sụp đổ(2018) $1.309.484.461
Bộ ba Công viên kỷ Jura$2.017.359.711 3 $672.453.237 Jurassic Park ($1.029.939.903)
1 Công viên kỷ Jura(1993) $1.029.939.903
2 Thế giới bị mất(1997) $618.638.999
3 Công viên kỷ Jura III(2001) $368.780.809
13 Transformers$4.853.126.073 7 $693.303.725 Vùng tối của Mặt Trăng ($1.123.794.079)
Bay series$4.379.286.781 5 $875.857.356 Vùng tối của Mặt Trăng ($1.123.794.079)
1 Vùng tối của Mặt Trăng(2011) $1.123.794.079
2 Kỷ nguyên hủy diệt(2014) $1.104.054.072
3 Bại binh phục hận(2009) $836.303.693
4 Transformers(2007) $709.709.780
5 Chiến binh cuối cùng(2017) $605.425.157
Bumblebee(2018) $467.989.645
The Transformers: The Movie(1986) $6.469.244
14 Cướp biển vùng Caribbean$4.524.439.761 5 $904.887.952 Chiếc rương tử thần ($1.066.179.725)
1 Chiếc rương tử thần(2006) $1.066.179.725
2 Suối nguồn tươi trẻ(2011) $1.045.713.802
3 Nơi tận cùng thế giới(2007) $963.420.425
4 Salazar báo thù(2017) $794.861.794
5 Lời nguyền của tàu Ngọc Trai Đen(2003) $654.264.015

{{Highest-grossing films franchise|type=franchise|rank=15|title=Kẻ trộm mặt trăng|total={{#expr:2548675279+2090046097|number=5|highest=Minions|gross=1159398397

Loạt phim chính$2.548.675.279 3 $849.558.426 Kẻ trộm Mặt Trăng 3 ($1.034.799.409)
1 Kẻ trộm Mặt Trăng 3(2017) $1.034.799.409
2 Kẻ trộm Mặt Trăng 2(2013) $970.761.885
3 Kẻ trộm Mặt Trăng(2010) $543.113.985
Minions$2.090.046.097 2 $1.045.023.049 minions ($1.159.398.397)
1 Minions(2015) $1.159.398.397
2 Minions sự trỗi dậy của Gru(2022) $930.647.700
16 Nhiệm vụ bất khả thi$3.570.477.227 6 $595.079.538 Fallout ($791.115.104)
1 Sụp đổ(2018) $791.115.104
2 Chiến dịch bóng ma(2011) $694.713.380
3 Quốc gia bí ẩn(2015) $682.714.267
4 Nhiệm vụ bất khả thi 2(2000) $546.388.105
5 Nhiệm vụ bất khả thi(1996) $457.696.359
6 Nhiệm vụ bất khả thi III(2006) $397.850.012
17 Shrek$3.510.794.482 5 $702.158.896 Shrek 2 ($919.838.758)
Loạt phim chính$2.955.807.005 4 $738.951.751 Shrek 2 ($919.838.758)
1 Shrek 2(2004) $919.838.758
2 Shrek the Third(2007) $798.958.162
3 Shrek Forever After(2010) $752.600.867
4 Shrek(2001) $484.409.218
Mèo đi hia(2011) $554.987.477
18 The Twilight Saga$3.346.157.056 5 $669.231.411 Breaking Dawn – Part 2 ($829.746.820)
1 Hừng đông – Phần 2(2012) $829.746.820
2 Hừng đông – Phần 1(2011) $712.205.856
3 Trăng non(2009) $709.711.008
4 Nhật thực(2010) $698.491.347
5 Chạng vạng(2008) $393.616.788
6 Chạng vạng / New Moon Combo (2010) $2.385.237
19 Kỷ băng hà$3.217.251.681 5 $643.450.336 Dawn of the Dinosaurs ($886.686.817)
1 Khủng long thức giấc(2009) $886.686.817
2 Lục địa trôi dạt(2012) $877.244.782
3 Thời băng tan(2006) $661.483.908
4 Trời sập(2016) $408.579.038
5 Kỷ băng hà(2002) $383.257.136
20 Câu chuyện đồ chơi$3.043.569.798 4 $760.892.450 Câu chuyện đồ chơi 4 ($1.073.394.593)
1 Câu chuyện đồ chơi 4(2019) $1.073.394.593
2 Câu chuyện đồ chơi 3(2010) $1.066.969.703
3 Câu chuyện đồ chơi 2(1999) $497.366.869
4 Câu chuyện đồ chơi(1995) $373.554.033
5 Câu chuyện đồ chơi / Câu chuyện đồ chơi 2 (3D) (2009) $32.284.600
21 The Hunger Games$2.968.191.442 4 $742.047.861 Bắt lửa ($865.011.746)
1 Bắt lửa(2013) $865.011.746
2 Húng nhại – Phần 1(2014) $755.356.711
3 Đấu trường sinh tử(2012) $694.394.724
4 Húng nhại – Phần 2(2015) $653.428.261
22 Frozen$2.740.026.933 2 $1.370.013.467 Frozen II ($1.450.026.933)
1 Nữ hoàng băng giá II(2019) $1.450.026.933
2 Nữ hoàng băng giá(2013) $1.290.000.000
23 Vua sư tử$2.625.427.171 2 $1.312.713.586 Vua sư tử (2019) ($1.656.943.394)
1 Vua sư tử(2019) $1.656.943.394
2 Vua sư tử(1994) $968.483.777
24 Superman$2.554.837.548 9 $283.870.839 Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý ($873.634.919)
DC Extended Universe$1.541.680.437 2 $770.840.219 Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý ($873.634.919)
1 Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý(2016) $873.634.919
2 Người đàn ông thép(2013) $668.045.518
Loạt phim gốc$622.048.041 5 $124.409.608 Superman ($300.451.603)
Christopher Reeve films$607.751.603 4 $151.937.901 Superman ($300.451.603)
1 Superman(1978) $300.451.603
2 Superman II(1980) $190.400.000
3 Superman III(1983) $80.200.000
4 Superman IV: The Quest for Peace(1987) $36.700.000
Supergirl(1984)* $14.296.438
Siêu nhân trở lại(2006) $391.081.192
Death of Superman/Reign of the Supermen(2018) $27.878
25 Người Sắt$2.423.918.805 3 $807.972.935 Người Sắt 3 ($1.214.811.252)
1 Người Sắt 3(2013) $1.214.811.252
2 Người Sắt 2(2010) $623.933.331
3 Người Sắt(2008) $585.174.222

SVũ trụ liên kết trong đó một số tài sản cũng có loạt phim riêng.

*Doanh thu tại Mỹ và Canada.

RTiền thuê nhà phân phối.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Các danh sách phim có doanh thu cao nhất

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Pincus-Roth, Zachary (8 tháng 1 năm 2006). “Movies aren't the only B.O. monsters”. Variety. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2014.
  2. ^ “Avatar – Video Sales”. The Numbers. Nash Information Services, LLC. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2013.
  3. ^ “Unkind unwind”. The Economist. 17 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2012.
  4. ^ Vogel, Harold L. (2010). Entertainment Industry Economics: A Guide for Financial Analysis. Cambridge University Press. tr. 224. ISBN 978-1-107-00309-5. Most pictures would likely receive 20% to 25% of theatrical box office gross for two prime-time network runs.
  5. ^ Clark, Emma (12 tháng 11 năm 2001). “How films make money”. BBC News. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2012.
  6. ^ Pincus-Roth, Zachary (8 tháng 1 năm 2006). “Movies aren't the only B.O. monsters”. Variety. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2014.
  7. ^ Seymour, Lee (18 tháng 12 năm 2017). “Over The Last 20 Years, Broadway's 'Lion King' Has Made More Money For Disney Than 'Star Wars'”. Forbes. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2019.
  8. ^ “The Entertainment Glut”. Bloomberg Businessweek. 15 tháng 2 năm 1998. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2014.
  9. ^ “Pixar – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2012.
  10. ^ Szalai, Georg (14 tháng 2 năm 2011). “Disney: 'Cars' Has Crossed $8 Billion in Global Retail Sales”. The Hollywood Reporter. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2011.
  11. ^ Chmielewski, Dawn C.; Keegan, Rebecca (21 tháng 6 năm 2011). “Merchandise sales drive Pixar's 'Cars' franchise”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2012.
  12. ^ Palmeri, Christopher; Sakoui, Anousha (7 tháng 11 năm 2014). “More Disney Fun and Games With 'Toy Story 4' in 2017”. Bloomberg News. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2015.
  13. ^ “The Fate of the Furious (2017) – International Box Office Results: Argentina”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2018.
  14. ^ “Pixar Movies at the Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2016.
  15. ^ “Pixar Movies at the Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2016.
  16. ^ Brevert, Brad (29 tháng 5 năm 2016). “'X-Men' & 'Alice' Lead Soft Memorial Day Weekend; Disney Tops $4 Billion Worldwide”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  17. ^ a b Bialik, Carl (29 tháng 1 năm 2010). “How Hollywood Box-Office Records Are Made”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2011.
  18. ^ a b Pincus-Roth, Zachary (6 tháng 7 năm 2009). “Best Weekend Never”. Slate. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2011.
  19. ^ a b Anderson, S. Eric; Albertson, Stewart; Shavlick, David (tháng 3 năm 2004). How the motion picture industry miscalculates box office receipts. Proceedings of the Midwest Business Economics Association. Loma Linda University. Bản gốc (DOC) lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2013.
  20. ^ Gray, Brandon. “'Avatar' Claims Highest Gross of All Time”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2010.
  21. ^ a b Bialik, Carl (30 tháng 1 năm 2010). “What It Takes for a Movie to Be No. 1”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2011.
  22. ^ Kolesnikov-Jessop, Sonia (22 tháng 5 năm 2011). “Hollywood Presses Its Global Agenda”. The New York Times. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2012.
  23. ^ Hoad, Phil (11 tháng 8 năm 2011). “The rise of the international box office”. The Guardian. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2012.
  24. ^ Frankel, Daniel (1 tháng 5 năm 2011). “Why the Foreign Box Office Leads: 'Fast Five,' 'Thor' Open Overseas First”. The Wrap. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2012.
  25. ^ a b Bialik, Carl (17 tháng 12 năm 2007). “Box-Office Records Are the Stuff of 'Legend'”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2011.
  26. ^ a b Leonhardt, David (1 tháng 3 năm 2010). “Why 'Avatar' Is Not the Top-Grossing Film”. The New York Times. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2013.
  27. ^ Miller, Frank; Stafford, Jeff (5 tháng 1 năm 2007). “Gone With the Wind (1939) – Articles”. Turner Classic Movies. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2013.
  28. ^ a b Shone, Tom (3 tháng 2 năm 2010). “Oscars 2010: How James Cameron took on the world”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2012.
  29. ^ Hill, George F. (25 tháng 6 năm 2006). “Gone With The Wind, Indeed”. The Washington Post. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2018.
  30. ^ a b Records, Guinness World (2014). Guinness World Records. 60 (ấn bản 2015). tr. 160–161. ISBN 978-1-908843-70-8.
  31. ^ “World Economic Outlook: Inflation rate, end of period consumer prices”. International Monetary Fund. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2021.
  32. ^ Glenday, Craig biên tập (2011). Гиннесс. Мировые рекорды [Guinness World Records] (bằng tiếng Nga). Andrianov, P.I.; Palova, I.V. biên dịch (ấn bản 2012). Moscow: Astrel. tr. 211. ISBN 978-5-271-36423-5.
  33. ^ “Titanic 3D (2012) – International Box Office results”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2012. North America: $57,884,114; Overseas: $285,666,656
  34. ^ “Titanic (20th Anniversary)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2019. Domestic Total Gross: $691,642
  35. ^ a b Cones, John W. (1997). The feature film distribution deal: a critical analysis of the single most important film industry agreement. Southern Illinois University Press. tr. 41. ISBN 978-0-8093-2082-0. Distributor rentals: It is also important to know and recognize the difference between the distributor's gross receipts and the gross rentals. The term "rentals" refers to the aggregate amount of the film distributor's share of monies paid at theatre box offices computed on the basis of negotiated agreements between the distributor and the exhibitor. Note that gross receipts refers to amounts actually received and from all markets and media, whereas gross rentals refers to amounts earned from theatrical exhibition only, regardless of whether received by the distributor. Thus, gross receipts is the much broader term and includes distributor rentals. The issue of film rentals (i.e., what percentage of a film's box office gross comes back to the distributor) is of key importance...More current numbers suggest that distributor rentals for the major studio/distributor released films average in the neighborhood of 43% of box office gross. Again, however, such an average is based on widely divergent distributor rental ratios on individual films.
  36. ^ Marich, Robert (2009) [1st. pub. Focal Press:2005]. Marketing to moviegoers: a handbook of strategies used by major studios and independents (ấn bản 2). Southern Illinois University Press. tr. 252. ISBN 978-0-8093-2884-0. Rentals are the distributors' share of the box office gross and typically set by a complex, two-part contract.
  37. ^ Balio, Tino (2005). The American film industry. University of Wisconsin Press. tr. 296. ISBN 978-0-299-09874-2. Film Rentals as Percent of Volume of Business (1939): 36.4
  38. ^ Balio, Tino (1987). United Artists: the Company that Changed the Film Industry. University of Wisconsin Press. tr. 124–125. ISBN 978-0-299-11440-4. To rekindle interest in the movies, Hollywood not only had to compete with television but also with other leisure-time activities...Movies made a comeback by 1955, but audiences had changed. Moviegoing became a special event for most people, creating the phenomenon of the big picture.
  39. ^ Hall & Neale 2010, tr. 179. "Later epics proved far more disastrous for the backers. Samuel Bronston's The Fall of the Roman Empire, filmed in Spain, cost $17,816,876 and grossed only $1.9 million in America. George Stevens's long-gestating life of Christ, The Greatest Story Ever Told (1965), which had been in planning since 1954 and in production since 1962, earned domestic rentals of $6,962,715 on a $21,481,745 negative cost, the largest amount yet spent on a production made entirely within the United States. The Bible—in the Beginning... (1966) was financed by the Italian producer Dino De Laurentiis from private investors and Swiss banks. He then sold distribution rights outside Italy jointly to Fox and Seven Arts for $15 million (70 percent of which came from Fox), thereby recouping the bulk of his $18 million investment. Although The Bible returned a respectable world rental of $25.3 million, Fox was still left with a net loss of just over $1.5 million. It was the last biblical epic to be released by any major Hollywood studio for nearly twenty years."
  40. ^ Williams, Trey (25 tháng 9 năm 2015). “Ridley Scott's latest 'Alien' announcement drives Hollywood's sequel problem”. MarketWatch. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2016.
  41. ^ “Yearly Box Office”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
  42. ^ “Movie Index By Year”. The Numbers. Nash Information Services. LLC. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
  43. ^ Dirks, Tim. “All-Time Box-Office Hits By Decade and Year”. Filmsite.org. American Movie Classics. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2012.
  44. ^ “20,000 Leagues Under the Sea”. The Numbers. Nash Information Services, LLC. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2012.
  45. ^ a b Finler 2003, tr. 358
  46. ^ Milwaukee Magazine. 32. 2007. The year's top–grossing movie, Aloma made $3 million in the first three months and brought Gray back to Milwaukee for its opening at the Wisconsin Theatre.
  47. ^ Parkinson, David (2007). The Rough Guide to Film Musicals. Dorling Kindersley. tr. 28. ISBN 978-1-84353-650-5. But they had previously succeeded in showing how musicals could centre on ordinary people with Sunny Side Up (1929), which had grossed $2 million at the box office and demonstrated a new maturity and ingenuity in the staging of story and dance.
  48. ^ a b Hall & Neale 2010, tr. 6–7. "For similar reasons of accountability, Variety has typically used figures for domestic (U.S. and Canadian) rather than worldwide revenue. This became its standard policy in 1940, when the advent of war in Europe persuaded the American film industry (temporarily, as it turned out) that it should be wholly reliant on the home market for profitability. Where specific rentals data are reported in Variety before this (which tended to be only sporadically) they were often for worldwide rather domestic performance. This was also the case with other trade sources, such as Quigley's annual Motion Picture Almanac, which published its own all-time hits lists from the early 1930s onward. The subsequent confusion of domestic and worldwide figures, and of rental and box-office figures, has plagued many published accounts of Hollywood history (sometimes including those in Variety itself), and we have attempted to be diligant in clarifying the differences between them."
  49. ^ Shearer, Lloyd (26 tháng 10 năm 1947). “GWTW: Supercolossal Saga of an Epic”. The New York Times. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2012.
  50. ^ “Cinema: The Big Grossers”. Time. 2 tháng 2 năm 1953. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2012.
  51. ^ Block & Wilson 2010, tr. 129. "Domestic Rentals: $30,015,000 (61%); Foreign Rentals: $18,964,000 (39%)...Gone with the Wind includes initial release plus four rereleases (1941,1942,1947 and 1954) since foreign rental revenues were available only cumulative through 1956."
  52. ^ McDermott, Christine (2010), Life with Father, tr. 307, No matter what the billing, the movie became a worldwide hit with $6.5 million in worldwide rentals, from Pappa och vi in Sweden to Vita col padre in Italy, although it booked a net loss of $350,000. In: Block & Wilson 2010.
  53. ^ Mulligan, Hugh A. (23 tháng 9 năm 1956). “Cinerama Pushing Ahead As Biggest Money-Maker”. The Register-Guard. Eugene, Oregon. tr. 7B.
  54. ^ Hall & Neale 2010, tr. 145. "The commercial success of the five Cinerama travelogues, which earned an aggregate worldwide box-office gross of $120 million by 1962 (including $82 million in the United States and Canada), nevertheless demonstrated to the mainstream industry the market value of special screen formats."
  55. ^ “Box Office History for James Bond Movies”. The Numbers. Nash Information Services, LLC. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2012.
  56. ^ “Box Office History for Star Wars Movies”. The Numbers. Nash Information Services, LLC. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2012.
  57. ^ “Indiana Jones – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
  58. ^ Anderson, Dave (16 tháng 11 năm 2003). “Bayonne Bleeder Throws a Punch at the Italian Stallion”. The New York Times. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2012.
  59. ^ Schneiderman, R. M. (10 tháng 8 năm 2006). “Stallone Settles With The 'Real' Rocky”. Forbes. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2012.
  60. ^ Poller, Kenneth G. (12 tháng 11 năm 2003). “Charles Wepner v. Sylvester Stallone” (PDF). Mango & Iacoviello. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2012.
  61. ^ “Batman – Worldwide (Unadjusted) & Batman: Mask of the Phantasm”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
  62. ^ “Jurassic Park – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
  63. ^ “Box Office History for Star Trek Movies”. The Numbers. Nash Information Services, LLC. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2012.
  64. ^ “Movie Franchises”. The Numbers. Nash Information Services, LLC. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2017.
  65. ^ The Economist online (11 tháng 7 năm 2011). “Pottering on, and on”. The Economist. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2011.
  66. ^ Nevins, Jess (23 tháng 8 năm 2011). “A Brief History of the Crossover”. io9. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2018.
  67. ^ Nevins, Jess (9 tháng 9 năm 2011). “The First Shared Universes”. io9. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2018.
  68. ^ “How 'Spectre' May Stack Up With 'Thunderball' as a James Bond Blockbuster”. The New York Times. 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2018.
  69. ^ Trước khi Spectre ra mắt năm 2015, loạt phim James Bond có doanh thu ước đạt 17,7 tỷ USD theo giá năm 2015;[68] sau khi tính thêm doanh thu gần 900 triệu USD của Spectre, tổng doanh thu của loạt phim ước đạt 18,6 tỷ USD điều chỉnh theo lạm phát.
  70. ^ Harrod, Horatia (17 tháng 5 năm 2011). “Pixar's $6 billion playthings”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2012.
  71. ^ Swatman, Rachel (16 tháng 6 năm 2015). “Star Wars: The Force Awakens second trailer sets YouTube world record”. Guinness World Records. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2015.
  72. ^ “Field Listings – Exchange Rates”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2015.

Nguồn doanh thu phòng vé[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b “Avengers: Endgame (2019)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2021.
  2. ^ a b c d e “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2019.
  3. ^ a b Titanic
    • Total: “Titanic (1997)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2017. $2,187,425,379
    • Original release: “Titanic (1997)”. Box Office Mojo. $1,843,201,268
    • 2012 3D release: “Titanic (2012 3D Release)”. Box Office Mojo. $343,550,770
    • 2017 re-release: “Titanic (2017 Re-release)”. Box Office Mojo. $691,642
  4. ^ a b “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2001.
  5. ^ a b “Star Wars: The Force Awakens (2015)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2016.
  6. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  7. ^ a b “Avengers: Infinity War (2018)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2019.
  8. ^ a b c d “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2019.
  9. ^ “Jurassic World (2015)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2015.
  10. ^ a b “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 11 năm 2015.
  11. ^ “The Lion King”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2020.
  12. ^ a b “The Avengers (2012)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2017.
  13. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2012.
  14. ^ “Furious 7 (2015)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2015.
  15. ^ a b “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2015.
  16. ^ “Frozen II”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2020.
  17. ^ a b c “Top Lifetime Grosses – Worldwide”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2020.
  18. ^ “Avengers: Age of Ultron (2015)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016.
  19. ^ “Black Panther (2018)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2018.
  20. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  21. ^ a b Harry Potter và Bảo bối tử thần – Phần 2
    • Tổng: “Harry Potter and the Deathly Hallows Part 2 (2011)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2020.
    • Kinh phí: Frankel, Daniel (17 tháng 11 năm 2010). “Get Ready for the Biggest 'Potter' Opening Yet”. The Wrap. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2011.
  22. ^ a b “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2011.
  23. ^ a b “Star Wars: The Last Jedi”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2018.
  24. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2018.
  25. ^ “Jurassic World: Fallen Kingdom (2018)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2019.
  26. ^ a b Frozen
    • “Frozen (2013) – International Box Office Results”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2014. Worldwide – $1,274,219,009 (total as of August 8, 2014; including Japanese gross up to August 3, Spanish gross up to July 27, UK gross up to June 8, German gross up to March 30, and omitting Nigerian gross)
    • “Frozen (2013) – International Box Office Results: Japan”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
    Doanh thu tính đến 3 tháng 8 năm 2014: $247,650,477Doanh thu tính đến 31 tháng 8 năm 2014: $249,036,646
    • “Frozen (2013) – International Box Office Results: Nigeria”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
    Doanh thu tính đến 17 tháng 8 năm 2014: $167,333
    • “Frozen (2013) – International Box Office Results: Spain”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2014.
    Doanh thu tính đến 27 tháng 7 năm 2014: $21,668,593Doanh thu tính đến 2 tháng 11 năm 2014: $22,492,845
    • “Frozen (2013) – International Box Office Results: United Kingdom”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2016.
    Doanh thu tính đến 8 tháng 6 năm 2014: £39,090,985Doanh thu tính đến 30 tháng 11 năm 2014: £40,960,083 ($1 = £0.63866)Doanh thu tính đến 7 tháng 12 năm 2014: £41,087,765 ($1 = £0.64136)Doanh thu tính đến 14 tháng 12 năm 2014: £41,170,608 ($1 = £0.636)Doanh thu tính đến 26 tháng 11 năm 2017: £42,840,559 ($1 = £0.7497)Doanh thu tính đến 3 tháng 12 năm 2017: £42,976,318 ($1 = £0.742)
    • “Frozen (2013) – International Box Office Results: Germany”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2016.
    Doanh thu tính đến 30 tháng 3 năm 2014: €35,098,170Doanh thu tính đến 18 tháng 5 năm 2015: €42,526,744 nb. tỷ giá chuyển đổi từ euro sang đôla không được xác định cho doanh thu từ tháng 4 năm 2014, nhưng đồng euro chưa bao giờ rớt giá thấp hơn đô la trong năm 2014 và 2015 (có thể được kiểm chứng bằng cách so sánh tỷ giá vào từng ngày nhất định ở trên) do đó ở đây sử dụng chuyển đổi xấp xỉ 1 euro = 1 đô la để làm cận dưới.
  27. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2014.
  28. ^ “Beauty and the Beast (2017)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2017.
  29. ^ a b c “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2017.
  30. ^ “Incredibles 2 (2018)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2019.
  31. ^ “The Fate of the Furious (2017)”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2017.
  32. ^ “Iron Man 3 (2013)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2013.
  33. ^ a b “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2014.
  34. ^ “Minions (2015)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  35. ^ a b “Captain America: Civil War (2016)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2020.
  36. ^ a b “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2016.
  37. ^ “Aquaman (2018)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2020.
  38. ^ a b “The Lord of the Rings: The Return of the King”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2020. Worldwide: $1,146,030,912; original release: $1,140,682,011
  39. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2004.
  40. ^ “Spider-Man: Far From Home”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2019.
  41. ^ “Captain Marvel (2019)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2019.
  42. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2019.
  43. ^ “Transformers: Dark of the Moon (2011)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2014.
  44. ^ a b Công viên kỷ Jura
    • Tổng: “Jurassic Park (1993)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2013. Worldwide: $1,029,153,882; Production Budget: $63 million
    • Lần chiếu đầu: “Jurassic Park (1993)”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2013. $914,691,118
    • Tái chiếu 2011: “Jurassic Park (2011 re-release)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2015. United Kingdom: $786,021
    • Tính đến 2010: Block & Wilson 2010, tr. 756–757. "Kinh phí: $70,0 (triệu USD không tính lạm phát) ... Jurassic Park was a smash at the box office, bringing in $920 million in worldwide box office and spawning two sequels."
  45. ^ a b Krämer, Peter (1999). “Women First: Titanic, Action-Adventure Films, and Hollywood's Female Audience”. Trong Sandler, Kevin S.; Studlar, Gaylyn (biên tập). Titanic: Anatomy of a Blockbuster. Rutgers University Press. tr. 108–131. ISBN 978-0-8135-2669-0. p. 130: The list has Jurassic Park at number one with $913 million, followed by The Lion King...
  46. ^ “Skyfall (2012)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2013.
  47. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  48. ^ a b “Transformers: Age of Extinction”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2015.
  49. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2014.
  50. ^ “The Dark Knight Rises (2012)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2012.
  51. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2012.
  52. ^ “Joker (2019)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2020.
  53. ^ “Star Wars: Episode IX - The Rise of Skywalker”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020.
  54. ^ “Toy Story 4”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2019.
  55. ^ a b “Toy Story 3 (2010)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010.
  56. ^ a b “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2011.
  57. ^ a b “Pirates of the Caribbean: Dead Man's Chest (2006)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2010.
  58. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2006.
  59. ^ a b Vua sư tử
    • Total: “The Lion King (1994)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016. Worldwide: $968,483,777; Production Budget: $45 million
    • Tổng doanh thu (Mỹ & Canada): “The Lion King (1994) – Release Summary”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016. Initial: $312,855,561; IMAX: $15,686,215; 3D: $94,242,001
    • Tổng doanh thu (ngoài Mỹ & Canada): Brevert, Brad (29 tháng 5 năm 2016). “'X-Men' & 'Alice' Lead Soft Memorial Day Weekend; Disney Tops $4 Billion Worldwide”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016. ...the original release of The Lion King made $450.6 million internationally, an additional $3.8 million with the 2002 IMAX reissue, and another $91.3 million from 2011's 3D reissue for an international total of $545.7 million.
    • Tính đến 2010: Block & Wilson 2010, tr. 764. "Kinh phí: $79,3 (triệu USD không tính lạm phát)."
  60. ^ “Rogue One: A Star Wars Story (2016)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2017.
  61. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2017.
  62. ^ “Aladdin (2019)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2019.
  63. ^ “Pirates of the Caribbean: On Stranger Tides”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2011.
  64. ^ “Despicable Me 3 (2017)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2018.
  65. ^ “Finding Dory (2016)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2017.
  66. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2016.
  67. ^ a b Star Wars Episode I: The Phantom Menace
    • Total: “Star Wars: Episode I – The Phantom Menace (1999)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2012. $1,027,044,677
    • Original release: “Star Wars: Episode I – The Phantom Menace (1999)”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2012. $924,317,558
  68. ^ “Alice in Wonderland (2010)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2011.
  69. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2010.
  70. ^ “Zootopia (2016)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2017.
  71. ^ a b Harry Potter and the Philosopher's Stone
    • Total: “Harry Potter and the Sorcerer's Stone (2001)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2021.
  72. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2003.
  73. ^ “The Hobbit: An Unexpected Journey (2012)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2021.
  74. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2013.
  75. ^ a b Kỵ sĩ bóng đêm
    • Tổng: “The Dark Knight (2008)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2012. Total: $1,004,558,444
    • Lần chiếu đầu tiên (không tính tái chiếu IMAX năm 2009): “The Dark Knight”. The Numbers. Nash Information Services. LLC. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2012. North America: $531,039,412 (as of January 22, 2009); Overseas: $466,000,000; IMAX re-release: January 23, 2009
    • Tái chiếu IMAX năm 2009: “Warner Bros. Entertainment Wraps Record-Breaking Year”. Warner Bros. 8 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2016. With worldwide receipts of $997 million, "The Dark Knight" is currently fourth on the all-time box office gross list, and the film is being re-released theatrically on January 23.
    • Lần chiếu đầu tiên và tái chiếu IMAX: Gray, Brandon (20 tháng 2 năm 2009). “Billion Dollar Batman”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2014. The Dark Knight had been hovering just shy of $1 billion for several months and reportedly sat at $997 million when Warner Bros. modestly relaunched it on Jan. 23, timed to take advantage of the announcement of the Academy Awards nominations on Jan. 22.
  76. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2009.
  77. ^ “Harry Potter and the Deathly Hallows Part 1 (2010)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2020.
  78. ^ “All Time Worldwide Box Office”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2011.
  79. ^ “Despicable Me 2 (2013)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2013.
  80. ^ Monaco, James (2009). How to Read a Film:Movies, Media, and Beyond. Oxford University Press. tr. 262. ISBN 978-0-19-975579-0. The Birth of a Nation, costing an unprecedented and, many believed, thoroughly foolhardy $110,000, eventually returned $20 million and more. The actual figure is hard to calculate because the film was distributed on a "states' rights" basis in which licenses to show the film were sold outright. The actual cash generated by The Birth of a Nation may have been as much as $50 million to $100 million, an almost inconceivable amount for such an early film.
  81. ^ Wasko, Janet (1986). “D.W. Griffiths and the banks: a case study in film financing”. Trong Kerr, Paul (biên tập). The Hollywood Film Industry: A Reader. Routledge. tr. 34. ISBN 978-0-7100-9730-9. Various accounts have cited $15 to $18 million profits during the first few years of release, while in a letter to a potential investor in the proposed sound version, Aitken noted that a $15 to $18 million box-office gross was a 'conservative estimate'. For years Variety has listed The Birth of a Nation's total rental at $50 million. (This reflects the total amount paid to the distributor, not box-office gross.) This 'trade legend' has finally been acknowledged by Variety as a 'whopper myth', and the amount has been revised to $5 million. That figure seems far more feasible, as reports of earnings in the Griffith collection list gross receipts for 1915–1919 at slightly more than $5.2 million (including foreign distribution) and total earnings after deducting general office expenses, but not royalties, at about $2 million.
  82. ^ Lang, Robert biên tập (1994). The Birth of a nation: D.W. Griffith, director. Rutgers University Press. tr. 30. ISBN 978-0-8135-2027-8. The film eventually cost $110,000 and was twelve reels long.
  83. ^ a b Block & Wilson 2010, tr. 26.
    • Intolerance: "Tiền thuê nội địa: $1.0 (triệu USD không tính lạm phát)."
    • Cleopatra: "Tiền thuê nội địa: $0.5; Production Cost: $0.3 (triệu USD không tính lạm phát)."
  84. ^ Birchard, Robert S. (2010), Intolerance, tr. 45, Intolerance was the most expensive American film made up until that point, costing a total of $489,653, and its performance at the box ... but it did recoup its cost and end with respectable overall numbers. In: Block & Wilson 2010.
  85. ^ Coons, Robin (30 tháng 6 năm 1939). “Hollywood Chatter”. The Daytona Beach News-Journal. tr. 6.
  86. ^ Shipman, David (1970). The great movie stars: the golden years. Crown Publishing Group. tr. 98. It was a low budgeter—$120,000—but it grossed world-wide over $3 million and made stars of Chaney and his fellow-players, Betty Compson and Thomas Meighan.
  87. ^ a b c d “Biggest Money Pictures”. Variety. 21 tháng 6 năm 1932. tr. 1. Cited in “Biggest Money Pictures”. Cinemaweb. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2011.
  88. ^ a b Solomon, Aubrey (2011). The Fox Film Corporation, 1915–1935: A History and Filmography. McFarland & Company. ISBN 978-0-7864-6286-5.
    • Way Down East: p. 52. "D.W. Griffith's Way Down East (1920) was projected to return rentals of $4,000,000 on an $800,000 negative. This figure was based on the amounts earned from its roadshow run, coupled with its playoff in the rest of the country's theaters. Griffith had originally placed the potential film rental at $3,000,000 but, because of the success of the various roadshows that were running the $4,000,000 total was expected. The film showed a profit of $615,736 after just 23 weeks of release on a gross of $2,179,613."
    • What Price Glory?: p. 112. "What Price Glory hit the jackpot with massive world rentals of $2,429,000, the highest figure in the history of the company. Since it was also the most expensive production of the year at $817,000 the profit was still a healthy $796,000..."
    • Cavalcade: p. 170. "The actual cost of Cavalcade was $1,116,000 and it was most definitely not guaranteed a success. In fact, if its foreign grosses followed the usual 40 percent of domestic returns, the film would have lost money. In a turnaround, the foreign gross was almost double the $1,000,000 domestic take to reach total world rentals of $3,000,000 and Fox's largest profit of the year at $664,000."
    • State Fair: p. 170. "State Fair did turn out to be a substantial hit with the help of Janet Gaynor boosting Will Rogers back to the level of money-making star. Its prestige engagements helped raked in a total $1,208,000 in domestic rentals. Surprisingly, in foreign countries unfamiliar with state fairs, it still earned a respectable $429,000. With its total rentals, the film ended up showing a $398,000 profit."
  89. ^ Hall & Neale 2010, tr. 53. "The Four Forsemen of the Apocalypse trở thành bộ phim đắt đỏ nhất của Metro và là một trong những bom tấn phòng vé của thập niên 1920. Kinh phí sản xuất của bộ phim được ước tính "dao động trong khoảng $600.000 đến $800.000." Variety ước tính doanh thu toàn cầu của bộ phim là 4 triệu USD năm 1925 và 5 triệu USD năm 1944; năm 1991, Tiền thuê nội địa của bộ phim ước tính vào khoảng 3.800.000 USD."
  90. ^ Brownlow, Kevin (1968). The parade's gone by . University of California Press. tr. 255. ISBN 978-0-520-03068-8. The negative cost was about $986,000, which did not include Fairbanks' own salary. Once the exploitation and release prints were taken into account, Robin Hood cost about $1,400,000—exceeding both Intolerance ($700,000) and the celebrated "million dollar movie" Foolish Wives. But it earned $2,500,000.
  91. ^ Vance, Jeffrey (2008). Douglas Fairbanks. University of California Press. tr. 146. ISBN 978-0-520-25667-5. The film had a production cost of $930,042.78—more than the cost of D.W. Griffith's Intolerance and nearly as much as Erich von Stroheim's Foolish Wives (1922).
  92. ^ a b “Business: Film Exports”. Time. 6 tháng 7 năm 1925. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2011.
  93. ^ a b c d e Birchard, Robert S. (2009). Cecil B. DeMille's Hollywood. University Press of Kentucky. ISBN 978-0-8131-3829-9.
    • ch. 45. The Ten Commandments (1923). "Cost: $1,475,836.93; Gross: $4,169,798.38"
    • ch. 56. The Sign of the Cross. "Cost: $694,064.67; Gross: $2,738,993.35 (to 1937)"
    • ch. 68. Samson and Delilah. "Cost: $3,097,563.05"
    • ch. 69. The Greatest Show on Earth. "Cost: $3,873,946.50; Gross receipts: $15,797,396.36 (to December 29, 1962)"
    • ch. 70. The Ten Commandments (1956). "Cost: $13,272,381.87; Gross receipts: $90,066,230.00 (to June 23, 1979)"
  94. ^ May, Richard P. (Fall 2005), “Restoring The Big Parade”, The Moving Image, 5 (2): 140–146, doi:10.1353/mov.2005.0033, ISSN 1532-3978, S2CID 192076406, ...earning somewhere between $18 and $22 million, depending on the figures consulted
  95. ^ Robertson, Patrick (1991). Guinness Book of Movie Facts and Feats (ấn bản 4). Abbeville Publishing Group. tr. 30. ISBN 978-1-55859-236-0. The top grossing silent film was King Vidor's The Big Parade (US 25), with worldwide rentals of $22 million.
  96. ^ Hall & Neale 2010, tr. 58–59. "Even then, at a time when the budget for a feature averaged at around $300,000, no more than $382,000 was spent on production...According to the Eddie Mannix Ledger at MGM, it grossed $4,990,000 domestically and $1,141,000 abroad."
  97. ^ “Ben-Hur (1925) – Notes”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2017.
  98. ^ Hall & Neale 2010, tr. 163. "MGM's silent Ben-Hur, which opened at the end of 1925, had out-grossed all the other pictures released by the company in 1926 combined. With worldwide rentals of $9,386,000 on first release it was, with the sole possible exception of The Birth of a Nation, the highest-earning film of the entire silent era. (At a negative cost of $3,967,000, it was also the most expensive.)"
  99. ^ Miller, Frank. “For Heaven's Sake (1926) – Articles”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2012.
  100. ^ Finler 2003, tr. 188. "At a cost of $2 million Wings was the studio's most expensive movie of the decade, and though it did well it was not good enough to earn a profit."
  101. ^ a b The Jazz Singer and The Singing Fool
    • Block, Hayley Taylor (2010), The Jazz Singer, tr. 113, The film brought in $2.6 million in worldwide rentals and made a net profit of $1,196,750. Jolson's follow-up Warner Bros. film, The Singing Fool (1928), brought in over two times as much, with $5.9 in worldwide rentals and a profit of $3,649,000, making them two of the most profitable films in the 1920s. In: Block & Wilson 2010.
  102. ^ Crafton, Donald (1999). The Talkies: American Cinema's Transition to Sound, 1926–1931. University of California Press. tr. 549–552. ISBN 978-0-520-22128-4. The Singing Fool: Negative Cost ($1000s): 388
  103. ^ Birchard, Robert S. (2010), The Broadway Melody, tr. 121, It earned $4.4 million in worldwide rentals and was the first movie to spawn sequels (there were several until 1940). In: Block & Wilson 2010.
  104. ^ Bradley, Edwin M. (2004) [1st. pub. 1996]. The First Hollywood Musicals: A Critical Filmography of 171 Features, 1927 Through 1932. McFarland & Company. ISBN 978-0-7864-2029-2.
    • The Singing Fool: p. 12. "Ego aside, Jolson was at the top of his powers in The Singing Fool. The $150,000 Warner Bros. paid him to make it, and the $388,000 it took to produce the film, were drops in the hat next to the film's world gross of $5.9 million. Its $3.8-million gross in this country set a box-office record that would not be surpassed until Walt Disney's Snow White and the Seven Dwarfs (1937)."
    • The Broadway Melody: p. 24. "The Broadway Melody with a negative cost of $379,000, grossed $2.8 million in the United States, $4.8 million worldwide, and made a recorded profit of $1.6 million for MGM."
    • Gold Diggers of Broadway: p. 58. "It grossed an impressive $2.5 million domestically and nearly $4 million worldwide."
  105. ^ a b c Solomon, Aubrey (2002) [First published 1988]. Twentieth Century-Fox: a corporate and financial history. Filmmakers series. 20. Rowman & Littlefield. ISBN 978-0-8108-4244-1.
    • Sunny Side Up: p. 10. "Sunny Side Up, a musical starring Janet Gaynor and Charles Farrell, showed domestic rentals of $3.5 million, a record for the company."
    • Forever Amber: p. 66. "On the surface, with world rentals of $8 million, Forever Amber was considered a hit at distribution level."
    • The French Connection
    p. 167. "The Planet of the Apes motion pictures were all moneymakers and Zanuck's record would have immediately improved had he stayed through the release of The French Connection, which took in rentals of approximately $75 million worldwide."p. 256. "$3,300,00".
  106. ^ Block & Wilson 2010, tr. 46. "Production Cost: $0.6 (triệu USD không tính lạm phát)."
  107. ^ Cormack, Mike (1993). Ideology and Cinematography in Hollywood, 1930–1939. Palgrave Macmillan. tr. 28. ISBN 978-0-312-10067-4. Although costing $1250000—a huge sum for any studio in 1929—the film was a financial success. Karl Thiede gives the domestic box-office at $1500000, and the same figure for the foreign gross.
  108. ^ a b Balio, Tino (1996). Grand Design: Hollywood as a Modern Business Enterprise, 1930–1939. 5 of History of the American Cinema. University of California Press. ISBN 978-0-520-20334-1.
    • Cavalcade: p. 182. "Produced by Winfield Sheehan at a cost of $1.25 million, Cavalcade won Academy Awards for best picture, director, art direction and grossed close to $4 million during its first release, much of which came from Great Britain and the Empire."
    • Whoopee: p. 212. "Produced by Sam Goldwyn at a cost of $1 million, the picture was an adaptation of a smash musical comedy built around Eddie Cantor...A personality-centered musical, Whoopee! made little attempt to integrate the comedy routines, songs, and story. Nonetheless, Cantor's feature-film debut grossed over $2.6 million worldwide and started a popular series that included Palmy Days (1931), The Kid from Spain (1932), and Roman Scandals (1933)."
  109. ^ Hell's Angels
    • Balio, Tino (1976). United Artists: The Company Built by the Stars. University of Wisconsin Press. tr. 110. Hughes did not have the "Midas touch" the trade press so often attributed to him. Variety, for example, reported that Hell's Angels cost $3.2 million to make, and by July, 1931, eight months after its release, the production cost had nearly been paid off. Keats claimed the picture cost $4 million to make and that it earned twice that much within twenty years. The production cost estimate is probably correct. Hughes worked on the picture for over two years, shooting it first as a silent and then as a talkie. Lewis Milestone said that in between Hughes experimented with shooting it in color as well. But Variety's earnings report must be the fabrication of a delirious publicity agent, and Keats' the working of a myth maker. During the seven years it was in United Artists distribution, Hell's Angels grossed $1.6 million in the domestic market, of which Hughes' share was $1.2 million. Whatever the foreign gross was, it seems unlikely that it was great enough to earn a profit for the picture.
  110. ^ Feaster, Felicia. “Frankenstein (1931)”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2011.
  111. ^ Block & Wilson 2010, tr. 163. "It drew $1.4 million in worldwide rentals in its first run versus $1.2 million for Dracula, which had opened in February 1931."
  112. ^ Vance, Jeffrey (2003). Chaplin: genius of the cinema. Abrams Books. tr. 208. Chaplin's negative cost for City Lights was $1,607,351. The film eventually earned him a worldwide profit of $5 million ($2 million domestically and $3 million in foreign distribution), an enormous sum of money for the time.
  113. ^ Ramsaye, Terry biên tập (1937). “The All-Time Best Sellers – Motion Pictures”. International Motion Picture Almanac 1937–38: 942–943. Kid from Spain: $2,621,000 (data supplied by Eddie Cantor)
  114. ^ a b c d Sedgwick, John (2000). Popular Filmgoing In 1930s Britain: A Choice of Pleasures. University of Exeter Press. tr. 146–148. ISBN 978-0-85989-660-3. Sources: Eddie Mannix Ledger, made available to the author by Mark Glancy...
    • Grand Hotel: Production Cost $000s: 700; Distribution Cost $000s: 947; U.S. box-office $000s: 1,235; Foreign box-office $000s: 1,359; Total box-office $000s: 2,594; Profit $000s: 947.
    • The Merry Widow: Production Cost $000s: 1,605; Distribution Cost $000s: 1,116; U.S. box-office $000s: 861; Foreign box-office $000s: 1,747; Total box-office $000s: 2,608; Profit $000s: -113.
    • Viva Villa: Production Cost $000s: 1,022; Distribution Cost $000s: 766; U.S. box-office $000s: 941; Foreign box-office $000s: 934; Total box-office $000s: 1,875; Profit $000s: 87.
    • Mutiny on the Bounty: Production Cost $000s: 1,905; Distribution Cost $000s: 1,646; U.S. box-office $000s: 2,250; Foreign box-office $000s: 2,210; Total box-office $000s: 4,460; Profit $000s: 909.
    • San Francisco: Production Cost $000s: 1,300; Distribution Cost $000s: 1,736; U.S. box-office $000s: 2,868; Foreign box-office $000s: 2,405; Total box-office $000s: 5,273; Profit $000s: 2,237.
  115. ^ Shanghai Express
    • Block & Wilson 2010, tr. 165. "Shanghai Express was Dietrich's biggest hit in America, bringing in $1.5 million in worldwide rentals."
  116. ^ King Kong
    • Jewel, Richard (1994). “RKO Film Grosses: 1931–1951”. Historical Journal of Film Radio and Television. 14 (1): 39. 1933 release: $1,856,000; 1938 release: $306,000; 1944 release: $685,000
    • “King Kong (1933) – Notes”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2012. 1952 release: $2,500,000; budget: $672,254.75
  117. ^ “I'm No Angel (1933) – Notes”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2012. According to a modern source, it had a gross earning of $2,250,000 on the North American continent, with over a million more earned internationally.
  118. ^ Finler 2003, tr. 188. "The studio released its most profitable pictures of the decade in 1933, She Done Him Wrong and I'm No Angel, written by and starring Mae West. Produced at a rock-bottom cost of $200,000 each, they undoubtedly helped Paramount through the worst patch in its history..."
  119. ^ Block, Alex Ben (2010), She Done Him Wrong, tr. 173, The worldwide rentals of over $3 million keep the lights on at Paramount, which did not shy away from selling the movie's sex appeal. In: Block & Wilson 2010.
  120. ^ Phillips, Kendall R. (2008). Controversial Cinema: The Films That Outraged America. ABC-CLIO. tr. 26. ISBN 978-1-56720-724-8. The reaction to West's first major film, however, was not exclusively negative. Made for a mere $200,000, the film would rake in a healthy $2 million in the United States and an additional million in overseas markets.
  121. ^ Block & Wilson 2010, tr. 135. "Total production cost: $274,076 (Unadjusted $s)."
  122. ^ a b Turk, Edward Baron (2000) [1st. pub. 1998]. Hollywood Diva: A Biography of Jeanette MacDonald. University of California Press. ISBN 978-0-520-22253-3.
    • The Merry Widow: p. 361 Cost: $1,605,000. Earnings: domestic $861,000; foreign $1,747,000; total $2,608,000. Loss: $113,000.
    • San Francisco: p. 364 Cost: $1,300,000. Earnings: domestic $2,868,000; foreign $2,405,000; total $5,273,000. Profit: $2,237,000. [Reissues in 1938–39 and 1948–49 brought profits of $124,000 and $647,000 respectively.]
  123. ^ McBride, Joseph (2011). Frank Capra: The Catastrophe of Success. University Press of Mississippi. tr. 309. ISBN 978-1-60473-838-4. According to the studio's books It Happened One Night brought in $1 million in film rentals during its initial release, but as Joe Walker pointed out, the figure would have been much larger if the film had not been sold to theaters on a block-booking basis in a package with more than two dozen lesser Columbia films, and the total rentals of the package spread among them all, as was customary in that era, since it minimized the risk and allowed the major studios to dominate the marketplace.
  124. ^ Dick, Bernard F. (2008). Claudette Colbert: She Walked in Beauty. University Press of Mississippi. tr. 79. ISBN 978-1-60473-087-6. Although Columbia's president, Harry Cohn, had strong reservations about It Happened One Night, he also knew that it would not bankrupt the studio; the rights were only $5,000, and the budget was set at $325,000, including the performers' salaries.
  125. ^ Snow White and the Seven Dwarfs
    • Monaco, Paul (2010). A History of American Movies: A Film-By-Film Look at the Art, Craft, and Business of Cinema. Scarecrow Press. tr. 54. ISBN 978-0-8108-7434-3. Considered a highly risky gamble when the movie was in production in the mid-1930s, by the fiftieth anniversary of its 1937 premiere Snow White's earnings exceeded $330 million.
    • Wilhelm, Henry Gilmer; Brower, Carol (1993). The Permanence and Care of Color Photographs: Traditional and Digital Color Prints, Color Negatives, Slides, and Motion Pictures. Preservation Pub. tr. 359. ISBN 978-0-911515-00-8. In only 2 months after the 1987 re-release, the film grossed another $45 million—giving it a total gross to date of about $375 million!
    • “Snow White and the Seven Dwarfs (1987 Re-issue)”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016. North American box-office: $46,594,719
    • “Snow White and the Seven Dwarfs (1993 Re-issue)”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016. North American box-office: $41,634,791
  126. ^ a b Snow White and the Seven Dwarfs and Pinocchio
    • Block & Wilson 2010
    p. 207. "When the budget rose from $250,000 to $1,488,423 he even mortgaged his own home and automobile. Disney had bet more than his company on the success of Snow White."p. 237. "By the end of 1938, it had grossed more than $8 million in worldwide rentals and was ranked at the time as the second-highest-grossing film after the 1925 epic Ben-Hur".p. 255. "On its initial release Pinocchio brought in only $1.6 million in domestic rentals (compared with Snow White's $4.2 million) and $1.9 million in foreign rentals (compared with Snow White's $4.3 million)."
  127. ^ 1938
    • You Can't Take It With You:“You Can't Take It With You Premieres”. Focus Features. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 9 năm 2012. You Can't Take It With You received excellent reviews, won Best Picture and Best Director at the 1938 Academy Awards, and earned over $5 million worldwide.
    • Boys Town: Block, Alex Ben (2010), Boys Town, tr. 215, The film quickly became a smash nationwide, making a profit of over $2 million on worldwide rentals of $4 million. In: Block & Wilson 2010.
    • The Adventures of Robin Hood: Glancy, H. Mark (1995). “Warner Bros Film Grosses, 1921–51: the William Schaefer ledger”. Historical Journal of Film, Radio and Television. 1 (15): 55–60. doi:10.1080/01439689500260031. $3.981 million.
    • Alexander's Ragtime Band: Block, Hayley Taylor (2010), Alexander's Ragtime Band, tr. 213, Once the confusion cleared, however, the film blossomed into a commercial success, with a profit of $978,000 on worldwide rentals of $3.6 million. In: Block & Wilson 2010.
  128. ^ Chartier, Roy (6 tháng 9 năm 1938). “You Can't Take It With You”. Variety. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2011.
  129. ^ “Gone with the Wind”. The Numbers. Nash Information Services. LLC. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013.
  130. ^ “Gone with the Wind”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  131. ^ Miller, Frank; Stafford, Jeff (5 tháng 1 năm 2007). “Gone With the Wind (1939) – Articles”. Turner Classic Movies. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2013.
  132. ^ Gone with the Wind tại Box Office Mojo
  133. ^ Hall & Neale 2010, tr. 283 ."The final negative cost of Gone with the Wind (GWTW) has been variously reported between $3.9 million and $4.25 million."
  134. ^ “Pinocchio (1940)”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  135. ^ Barrier, Michael (2003). Hollywood Cartoons: American Animation in Its Golden Age. New York: Oxford University Press. tr. 266. ISBN 978-0-19-983922-3. The film's negative cost was $2.6 million, more than $1 million higher than Snow White's.
  136. ^ Schatz, Thomas (1999) [1st. pub. 1997]. Boom and Bust: American Cinema in the 1940s. 6 of History of the American Cinema. University of California Press. tr. 466. ISBN 978-0-520-22130-7. Boom Town ($4.6 million).
  137. ^ Block & Wilson 2010, tr. 258–259. "Production Cost: $2.1 (triệu USD không tính lạm phát) ... Boom Town was the biggest moneymaker of 1940 and one of the top films of the decade."
  138. ^ Block & Wilson 2010, tr. 267. "With worldwide rentals of $7.8 million in its initial release, the movie made a net profit of over $3 million."
  139. ^ Finler 2003, tr. 301. "The studio did particularly well with its war-related pictures, such as Sergeant York (1941), which cost $1.6 million but was the studio's biggest hit of the decade aside from This is the Army (1943), the Irving Berlin musical for which the profits were donated to the Army Emergency Relief fund."
  140. ^ “Bambi”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  141. ^ Block & Wilson 2010, tr. 281. "Worldwide rentals of $3,449,353 barely recouped the film's nearly $2 million production cost."
  142. ^ a b c d Block & Wilson 2010, tr. 712–713.
    • Bambi: "Worldwide Box Office: $266.8; Production Cost: $1.7 (Millions of $s)"
    • 101 Dalmatians: "Worldwide Box Office: $215.0; Production Cost: $3.6 (Millions of $s)"
    • The Jungle Book: "Worldwide Box Office: $170.8"; Production Cost: $3.9 (Millions of $s)"
    • Aladdin: "Worldwide Box Office: $505.1"; Production Cost: $28.0 (Millions of $s)"
  143. ^ Glancy, Mark (1999). When Hollywood Loved Britain: The Hollywood 'British' Film 1939–1945. Manchester University Press. tr. 94–95. ISBN 978-0-7190-4853-1. Mrs Miniver was a phenomenon. It was the most popular film of the year (from any studio) in both North America and Britain, and its foreign earnings were three times higher than those of any other MGM film released in the 1941–42 season. The production cost ($1,344,000) was one of the highest of the season, indicating the studio never thought of the film as a potential loss-maker. When the film earned a worldwide gross of $8,878,000, MGM had the highest profit ($4,831,000) in its history. Random Harvest nearly matched the success of Mrs Miniver with worldwide earnings of $8,147,000 yielding the second-highest profit in MGM's history ($4,384,000). Random Harvest was also the most popular film of the year in Britain, where it proved to be even more popular than Britain's most acclaimed war film, In Which We Serve.
  144. ^ Block & Wilson 2010
    • Mrs. Miniver: Burns, Douglas (2010), Mrs. Miniver, tr. 279, Mrs. Miniver's galvanizing effect on Americans spawned a record-breaking ten-week run at Radio City Music Hall and garnered a $5.4 million take in domestic rentals (making Mrs. Miniver 1942's top grosser), with a $4.8 million profit on worldwide rentals of $8.9 million.
    • Yankee Doodle Dandy: p. 275. "It became the second biggest box-office hit of 1942 (after Mrs. Miniver) and was praised by critics, making a profit of $3.4 million on worldwide rentals of $6.5 million."
  145. ^ McAdams, Frank (2010), For Whom the Bell Tolls, tr. 287, Despite the early furor over the novel being "pro-red and immoral," the film opened to strong and favorable reviews and brought in $11 million in worldwide rentals in its initial release. In: Block & Wilson 2010.
  146. ^ “For Whom the Bell Tolls (1943) – Notes”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2012.
  147. ^ a b “A Guy Named Joe (1944) – Notes”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2012. According to M-G-M studio records at the AMPAS Library, the film had a negative cost of $2,627,000 and took in $5,363,000 at the box office. When the picture was re-issued for the 1955–56 season, it took in an additional $150,000.
  148. ^ Bergreen, Laurence (Summer 1996). “Irving Berlin: This Is the Army”. Prologue. 28 (2). Part 3. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2012.
  149. ^ “This Is the Army (1943) – Notes”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2011.
  150. ^ a b c d e f g Finler 2003, tr. 356–363
  151. ^ Block & Wilson 2010, tr. 420. "(Unadjusted $s) in Millions of $s – Production Cost: $1.0"
  152. ^ a b Block & Wilson 2010, tr. 232.
    • Mrs. Miniver: "Domestic Rentals: $5,358,000; Foreign Rentals: $3,520,000 (Unadjusted $s)"
    • Meet Me in St. Louis: "Domestic Rentals: $5,016,000; Foreign Rentals: $1,623,630 (Unadjusted $s)"
    • Easter Parade: "Domestic Rentals: $4,144,000; Foreign Rentals: $1,774,134 (Unadjusted $s)"
  153. ^ Schaefer, Eric (1999). "Bold! Daring! Shocking! True!": A History of Exploitation Films, 1919–1959. Duke University Press. tr. 197–199. ISBN 978-0-8223-2374-7. Leading the pack of postwar sex hygiene films was Mom and Dad (1944), which would become not only the most successful sex hygiene film in history but the biggest pre-1960 exploitation film of any kind. At the end of 1947, the Los Angeles Times reported that Mom and Dad had grossed $2 million. By 1949 Time had estimated that Mom and Dad had taken in $8 million from twenty million moviegoers. And publicity issuing from Mom and Dad's production company indicated that by the end of 1956 it had grossed over $80 million worldwide. Net rentals of around $22 million by 1956 would easily place it in the top ten films of the late 1940s and early 1950s had it appeared on conventional lists. Some estimates have placed its total gross over the years at up to $100 million, and it was still playing drive-in dates into 1975...The film was made for around $65,000 with a crew of Hollywood veterans including director William "One Shot" Beaudine, cinematographer Marcel LePicard, and a cast that sported old stalwarts Hardie Albright, Francis Ford, and John Hamilton.
  154. ^ Block & Wilson 2010
    • p. 296. "Production Cost: $1.6 (triệu USD không tính lạm phát)"
    • Wasson, Sam (2010), The Bells of St. Mary's, tr. 297, This was that rare sequel that did even better at the box office than the original, bringing in a $3.7 million profit on $11.2 million in worldwide rentals.
  155. ^ “Song of the South”. The Numbers. Nash Information Services. LLC. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2011.
  156. ^ Gabler, Neal (2007). Walt Disney: the biography. Aurum Press. tr. 438. Still, the film wound up grossing $3.3 million...
  157. ^ “Song of the South (1946) – Notes”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2012.
  158. ^ Hall & Neale 2010
    • p. 132."Best Years was considerably cheaper, costing only $2.1 million, and therefore vastly more profitable."
    • p. 286 (note 6.70). "Worldwide rentals for The Best Years of Our Lives amounted to $14,750,000."
  159. ^ Burns, Douglas (2010), The Best years of Our Lives, tr. 301, The film made a $5 million profit on worldwide rentals of $14.8 million. In: Block & Wilson 2010.
  160. ^ a b Hall & Neale 2010, tr. 285 (note 6.56). "The cost of Duel in the Sun has been reported as both $5,255,000 (Haver, David O'Selznick's Hollywood, 361) and $6,480,000 (Thomson, Showman: The Life of David O'Selznick, 472); the latter figure may include distribution expenses. Forever Amber cost $6,375,000 (Solomon, Twentieth Century-Fox: A Corporate and Financial History, 243)."
  161. ^ Chopra-Gant, Mike (2006). Hollywood Genres and Post-war America: Masculinity, Family and Nation in Popular Movies and Film Noir. I.B. Tauris. tr. 18. ISBN 978-1-85043-815-1. Forever Amber: $8 million; Unconquered: $7.5 million; Life with Father: $6.25 million
  162. ^ “Unconquered (1947) – Notes”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012.
  163. ^ Miller, Frank. “Easter Parade (1948) – Articles”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2012.
  164. ^ Street, Sarah (2002). Transatlantic Crossings: British Feature Films in the United States. Continuum International Publishing Group. tr. 110. ISBN 978-0-8264-1395-6. Although both films had higher than average budgets (The Red Shoes cost £505,581 and Hamlet cost £572,530, while the average cost of the other thirty films for which Rank supplied information was £233,000), they resulted in high takings at home and abroad.
  165. ^ Officer, Lawrence H. (2011). “Dollar-Pound Exchange Rate From 1791”. MeasuringWorth. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012. 1947–1948: $4.03 (per British pound)
  166. ^ “The Snake Pit”. The Numbers. Nash Information Services. LLC. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2011.
  167. ^ 'Snake Pit' Seen No Problem After All”. Variety. 19 tháng 1 năm 1949. tr. 7.
  168. ^ a b Hall & Neale 2010, tr. 136–139
    • Samson and Delilah: "...the film became the highest grosser in the studio's history to date, with domestic rentals of $7,976,730 by 1955 and a further $6,232,520 overseas...For all their spectacle, Samson and David were quite economically produced, costing $3,097,563 and $2,170,000 respectively."
    • Quo Vadis: "Production costs totaled a record $7,623,000...Worldwide rentals totaled $21,037,000, almost half of which came from the foreign market."
  169. ^ “Cinderella (1950)”. The Numbers. Nash Information Services. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2017.
  170. ^ Eisner, Michael D.; Schwartz, Tony (2009). Work in Progress. Pennsylvania State University. tr. 178. ISBN 978-0-7868-8507-7. Cinderella revived its fortunes. Re-released in February 1950, it cost nearly $3 million to make but earned more than $20 million worldwide.
  171. ^ Barrier, Michael (2003). Hollywood Cartoons: American Animation in Its Golden Age. Oxford University Press. tr. 401. ISBN 978-0-19-516729-0. It cost around $2.2 million, little more than each of the two package features, Melody Time and The Adventures of Ichabod and Mr. Toad (as Tluo Fabulous Characters had ultimately been named), that just preceded it, but its gross rentals—an amount shared by Disney and RKO—were $7.8 million, almost twice as much as the two package features combined.
  172. ^ The E. J. Mannix ledger. Margaret Herrick Library, Academy of Motion Picture Arts and Sciences: Howard Strickling Collection. 1962.
  173. ^ a b Lev, Peter (2006). Transforming the Screen, 1950–1959. 7 of History of the American Cinema. University of California Press. ISBN 978-0-520-24966-0.
    • Quo Vadis: p. 15. "MGM's most expensive film of the period, Quo Vadis (1951) also did extremely well. The cost was $7,623,000, earnings were an estimated $21.2 million (with foreign earnings almost 50 percent of this total), and profit was estimated at $5,562,000."
    • Rear Window: pp. 203–204. "Rear Window (1954) was an excellent commercial success, with a cost of $1 million and North American rentals of $5.3 million."
  174. ^ a b Block & Wilson 2010, tr. 335.
    • The Robe: "Domestic Rentals: $16.7; Foreign Rentals: $9.4; Production Cost: $4.1 (triệu USD không tính lạm phát)."
    • Quo Vadis: "Domestic Rentals: $11.1; Foreign Rentals: $15.6; Production Cost: $7.5 (triệu USD không tính lạm phát)."
  175. ^ Mulligan, Hugh A. (23 tháng 9 năm 1956). “Cinerama Pushing Ahead As Biggest Money-Maker”. The Register-Guard. Eugene, Oregon. tr. 7B.
  176. ^ Zone, Ray (2012). 3-D Revolution: The History of Modern Stereoscopic Cinema. University Press of Kentucky. tr. 71. ISBN 978-0-8131-3611-0. Produced at a cost of $1 million, This is Cinerama ran 122 weeks, earning $4.7 million in its initial New York run alone and eventually grossed over $32 million. It was obvious to Hollywood that the public was ready for a new form of motion picture entertainment. The first five Cinerama feature-length travelogues, though they only played in twenty-two theaters, pulled in a combined gross of $82 million.
  177. ^ Burns, Douglas (2010), The Greatest Show on Earth, tr. 354–355, By May 1953, Variety was reporting that the Best Picture winner had amassed $18.35 million in worldwide rentals. In: Block & Wilson 2010.
  178. ^ “The Greatest Show on Earth (1952) – Notes”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2012.
  179. ^ “Peter Pan (1953) – Notes”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2011.
  180. ^ “Top Grossers of 1953”. Variety: 10. 13 tháng 1 năm 1954. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2019.
  181. ^ Hall & Neale 2010, tr. 147–148. "To take full advantage of CinemaScope's panoramic possibilities, shooting was delayed for the sets to be redesigned and rebuilt, adding $500,000 to the eventual $4.1 million budget...It ultimately returned domestic rentals of $17.5 million and $25 million worldwide, placing it second only to Gone with the Wind in Variety's annually updated chart."
  182. ^ Block & Wilson 2010, tr. 367. "It brought in $16.7 million in domestic rentals, $9.4 million in foreign rentals, and made a net profit of $8.1 million."
  183. ^ “Rear Window”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  184. ^ “White Christmas”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  185. ^ Block & Wilson 2010, tr. 420. "Domestic Box Office: $19.6 million; Production Cost: $3.8 million."
  186. ^ Hall & Neale 2010, tr. 149. "VistaVision was first used for the musical White Christmas (1954), which Variety named the top grosser of its year with anticipated domestic rentals of $12 million."
  187. ^ “20000 Leagues Under The Sea”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  188. ^ Miller, John M. “20,000 Leagues Under the Sea (1954) – Articles”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2012.
  189. ^ Finler 2003, tr. 320. "It was up and running in time to handle Disney's most elaborate expensive feature, 20,000 Leagues Under the Sea, based on the book by Jules Verne, starring James Mason and Kirk Douglas and directed by Richard Fleischer at a cost of $4.5 million."
  190. ^ a b c D'Alessandro, Anthony (27 tháng 10 năm 2003). “Disney Animated Features at the Worldwide Box Office”. Variety. The Jungle Book $378 million; One Hundred and One Dalmatians $303 million; Lady and the Tramp $187 million
  191. ^ “Lady and the Tramp (1955) – Notes”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2011.
  192. ^ Minego, Pete (21 tháng 5 năm 1956). “Pete's Pungent Patter”. Portsmouth Daily Times. Portsmouth, Ohio. tr. 19.
  193. ^ “Cinerama Holiday (1955) – Notes”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  194. ^ Block & Wilson 2010
    • p. 382. "Production Cost: $2.4 (triệu USD không tính lạm phát)"
    • Burns, Douglas (2010), Mister Roberts, tr. 383, Mister Roberts sailed onto movie screens buoyed by enthusiastic reviews and receptive audiences. For pr, Fonda, Cagney, and lemmon reenacted several scenes on ed sullivan's popular Toast of the Town television variety show. It returned a net profit of $4.5 million on worldwide rentals of $9.9 million, putting it in the top 5 domestic films of 1955.
  195. ^ Block & Wilson 2010, tr. 327. "Production cost: $13.3 million; Domestic Film Rental: $31.3; Foreign Film Rental: $23.9; Worldwide Box office (estimated): $122.7 (lần chiếu đầu – triệu USD không tính lạm phát)."
  196. ^ a b Hall & Neale 2010, tr. 159–161
    • The Ten Commandments: "No film did more to entrench roadshow policy than The Ten Commandments. While the success of This Is Cinerama, The Robe, and even Eighty Days could be attributed, at least in part, to their respective photographic and projection formats, that of DeMille's film (which cost a record $13,266,491) could not...General release began at normal prices in 1959 and continued until the end of the following year, when the film was temporarily withdrawn (the first of several reissues came in 1966). The worldwide rental by this time was around $60 million. In the domestic market it dislodged Gone with the Wind from the number one position on Variety's list of All-Time Rentals Champs. GWTW had hitherto maintained its lead through several reissues (and was soon to regain it through another in 1961)."
    • The Bridge on the River Kwai: Columbia's Anglo-American war film The Bridge on the River Kwai (1957) opened on a roadshow basis in selected U.S. cities (including New York, Chicago, Boston, and Los Angeles) and in London. Costing only $2,840,000 to produce, it grossed $30.6 million worldwide on first release."
  197. ^ Hall & Neale 2010, tr. 153. "South Pacific also became for a time the most successful film ever released in the United Kingdom, where it earned a box-office gross three times its negative cost of $5,610,000. Anticipated global rentals after three years were $30 million."
  198. ^ Ross, Steven J. (2011). Hollywood Left and Right: How Movie Stars Shaped American Politics. Oxford University Press. tr. 278–279. ISBN 978-0-19-991143-1. Costing $15 million to produce, the film earned $47 million by the end of 1961 and $90 million worldwide by January 1989.
  199. ^ Block & Wilson 2010, tr. 324. "Worldwide box office: $146.9 million; Worldwide rentals: $66.1 million; Production cost: $15.9 million. (lần chiếu đầu – triệu USD không tính lạm phát)"
  200. ^ Reid, John Howard (2006). America's Best, Britain's Finest: A Survey of Mixed Movies. 14 of Hollywood classics. Lulu. tr. 243–245. ISBN 978-1-4116-7877-4. Negative cost: around $4 million; Worldwide film rentals gross (including 1968 American reissue) to 1970: $30 million.
  201. ^ Webster, Patrick (2010). Love and Death in Kubrick: A Critical Study of the Films from Lolita Through Eyes Wide Shut. McFarland & Company. tr. 298 (note 2.23). ISBN 978-0-7864-5916-2. Spartacus cost $12 million and grossed some $60 million at the box office, figures Kubrick rarely again matched.
  202. ^ a b Hall & Neale 2010, tr. 179.
    • Spartacus: "In the case of Spartacus, overseas earnings to 1969 amounted to $12,462,044, while U.S. and Canadian rentals (even including a million-dollar TV sale) were only $10,643,181. But the film failed to show a profit on production costs of $10,284,014 because of the distribution charges and expenses amounting to an additional $15,308,083."
    • The Bible: "The Bible—In the Beginning... (1966) was financed by the Italian producer Dino De Laurentiis from private investors and Swiss banks. He then sold distribution rights outside Italy jointly to Fox and Seven Arts for $15 million (70 percent of which came from Fox), thereby recouping the bulk of his $18 million investment. Although The Bible returned a respectable world rental of $25.3 million, Fox was still left with a net loss of just over $1.5 million. It was the last biblical epic to be released by any major Hollywood studio for nearly twenty years."
  203. ^ Nixon, Rob. “Psycho (1960) – Articles”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2012.
  204. ^ Tube. (18 tháng 1 năm 1961). “One Hundred and One Dalmatians”. Daily Variety. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2011.
  205. ^ Block, Hayley Taylor (2010), West Side Story, tr. 449, With its three rereleases, it took in over $105 million in worldwide box office ($720 million in 2005 dollars). In: Block & Wilson 2010.
  206. ^ a b c d e f Block & Wilson 2010, tr. 434.
    • The Sound of Music: "Tiền thuê nội địa: $68,4; Tiền thuê ngoài nước: $46,2; Kinh phí: $8,0 (triệu USD không tính lạm phát)."
    • The Dirty Dozen: "Tiền thuê nội địa: $20,1; Tiền thuê ngoài nước: $11,2; Kinh phí: $5,4 (lần chiếu đầu – triệu USD không tính lạm phát)."
    • 2001: A Space Odyssey: "Tiền thuê nội địa: $16,4; Tiền thuê ngoài nước: $5,5; Kinh phí: $10,3 (lần chiếu đầu – triệu USD không tính lạm phát)."
    • Cleopatra: "Tiền thuê nội địa: $22,1; Tiền thuê ngoài nước: $18,2; Kinh phí: $44,0 (lần chiếu đầu – triệu USD không tính lạm phát)."
    • West Side Story: "Tiền thuê nội địa: $16,2; Tiền thuê ngoài nước: $15,6; Kinh phí: $7,0 (lần chiếu đầu – triệu USD không tính lạm phát)."
    • The Longest Day: "Tiền thuê nội địa: $13,9; Tiền thuê ngoài nước: $19,3; Kinh phí: $8,6 (lần chiếu đầu – triệu USD không tính lạm phát)."
    • Butch Cassidy and the Sundance Kid: "Tiền thuê nội địa: $29,2; Tiền thuê ngoài nước: $7,9; Kinh phí: $6,6 (lần chiếu đầu – triệu USD không tính lạm phát)."
  207. ^ Lawrence of Arabia
    • 1962 release: “Lawrence of Arabia”. The Numbers. Nash Information Services. LLC. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2011. Worldwide Box Office: $69,995,385; International Box Office: $32,500,000
    • U.S. total (including reissues): “Lawrence of Arabia”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016. $44,824,852
  208. ^ a b c Hall & Neale 2010, tr. 165–166
    • Lawrence of Arabia: Columbia released the $13.8 million Lawrence of Arabia (1962), filmed in Super Panavision 70, exclusively on a hard-ticket basis, but opened Barabbas (1962), The Cardinal (1963), and the $12 million Joseph Conrad adaptation Lord Jim (1965) as 70 mm roadshows in selected territories only."
    • The Longest Day: "Darryl's most ambitious independent production was The Longest Day (1962), a three-hour reconstruction of D-Day filmed in black-and-white CinemaScope at a cost of $8 million. It grossed over $30 million worldwide as a roadshow followed by general release, thereby helping the studio regain stability during its period of reorganization."
    • Cleopatra: "With top tickets set at an all-time high of $5.50,Cleopatra had amassed as much as $20 million in such guarantees from exhibitors even before its premiere. Fox claimed the film had cost in total $44 million, of which $31,115,000 represented the direct negative cost and the rest distribution, print and advertising expenses. (These figures excluded the more than $5 million spent on the production's abortive British shoot in 1960–61, prior to its relocation to Italy.) By 1966 worldwide rentals had reached $38,042,000 including $23.5 million from the United States."
  209. ^ Hall & Neale 2010, tr. 164. "West cost $14,483,000; although it earned $35 million worldwide in just under three years, with ultimate domestic rentals totaling $20,932,883, high distribution costs severely limited its profitability."
  210. ^ a b c d Block & Wilson 2010, tr. 428–429
    • From Russia With Love: "Worldwide Box Office: 78.9; Production Cost: 2.0 (in millions of $s)"
    • Goldfinger: "Worldwide Box Office: 124.9; Production Cost: 3.0 (in millions of $s)"
    • Diamonds Are Forever: "Worldwide Box Office: 116; Production Cost: 7.2 (in millions of $s)"
    • Moonraker: "Worldwide Box Office: 210.3; Production Cost: 34.0 (in millions of $s)"
  211. ^ a b Chapman, James (2007). Licence to thrill: a cultural history of the James Bond films. I.B. Tauris. ISBN 978-1-84511-515-9.
    • From Russia With Love: "The American release of From Russia With Love again followed on some six months after it had been shown in Britain. North American rentals of $9.9 million were an improvement on its predecessor, helped by a slightly wider release, though they were still only half the $19.5 million of foreign rentals... (Online copy at Google Books)"
    • Diamonds Are Forever: "Diamonds Are Forever marked a return to the box-office heights of the Bond films of the mid-1960s. Its worldwide rentals were $45.7 million..."[cần số trang]
    • Moonraker: "These figures were surpassed by Moonraker, which earned total worldwide rentals of $87.7 million, of which $33 million came from North America. (Online copy at Google Books)"
  212. ^ a b Balio, Tino (2009). United Artists, Volume 2, 1951–1978: the Company that Changed the Film Industry. University of Wisconsin Press. tr. 261. ISBN 978-0-299-23014-2.
    • From Russia With Love: "The picture grossed twice as much as Dr. No, both domestic and foreign—$12.5 million worldwide (Online copy at Google Books)"
    • Goldfinger: "Produced on a budget of around $3 million, Goldfinger grossed a phenomenal $46 million worldwide the first time around. (Online copy at Google Books)"
  213. ^ a b Hall & Neale 2010, tr. 184
    • My Fair Lady: "My Fair Lady (1964) cost Warners $17 million to make, including a record $5.5 million just for the film rights to the Alan Jay Lerner and Frederick Loewe stage show and a million-dollar fee for star Audrey Hepburn. By 1967 it was reported to have grossed $55 million from roadshowing worldwide."
    • Mary Poppins: "Mary Poppins (1964), which cost $5.2 million, was neither a stage adaptation nor a roadshow. But by the end of its first release, it had grossed nearly $50 million worldwide."
  214. ^ Burns, Douglas (2010), Mary Poppins, tr. 469, In its initial run, Poppins garnered an astounding $44 million in worldwide rentals and became the company's first Best Picture Oscar contender. In: Block & Wilson 2010.
  215. ^ “The Sound of Music”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  216. ^ Silverman, Stephen M (1988). The Fox that got Away: The Last Days of the Zanuck Dynasty at Twentieth Century-Fox. Secaucus, N.J.: L. Stuart. tr. 325. ISBN 9780818404856.
  217. ^ “Hawaii”. The Numbers. Nash Information Services. LLC. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2011.
  218. ^ “Who's Afraid of Virginia Wolf? (1966)”. The Numbers. Nash Information Services. LLC. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2020.
  219. ^ Hall & Neale 2010, tr. 188. "The negative cost of Warners' adaptation of Edward Albee's play Who's Afraid of Virginia Woolf? (1966)—filmed in widescreen and black-and-white, largely set in domestic interiors and with a cast of only four principal actors—amounted to $7,613,000, in part because stars Elizabeth Taylor and Richard Burton received up-front fees of $1 million and $750,000 respectively, against 10 percent of the gross apiece. (Their participation was presumably added to the budget)."
  220. ^ “Animals Portray Parts in Disney's "Robin Hood"”. Toledo Blade. 18 tháng 10 năm 1970. Sec. G, p. 7. "The Jungle Book," in it's [sic] initial world-wide release, has grossed $23.8 million to date...
  221. ^ “The Jungle Book”. Variety. 31 tháng 12 năm 1966. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2018. It was filmed at a declared cost of $4 million over a 42-month period.
  222. ^ a b Denisoff, R. Serge; Romanowski, William D. (1991). Risky Business: Rock in Film. Transaction Publishers. ISBN 978-0-88738-843-9.
    • The Graduate: p. 167. "World net rental was estimated at more than $85 million by January 1971."
    • Grease: p. 236. "The film was produced for $6 million and Paramount reportedly spent another $3 million on promotion."
  223. ^ a b Hall & Neale 2010, tr. 191–192
    • The Graduate: "The Graduate eventually earned U.S. rentals of $44,090,729 on a production cost of $3.1 million to become the most lucrative non-roadshow picture (and independent release) to date."
    • Butch Cassidy and the Sundance Kid: "None of these films was roadshown in the United States; most were set in contemporary America or had a contemporary "take" on the past (the casting of genuine teenagers to play Romeo and Juliet, the urbane sophistication of the dialogue in Butch Cassidy, the antiauthoritarianism of Bonnie and Clyde and MASH); most were produced on modest or medium-sized budgets (as low as $450,000 for Easy Rider and no higher than $6,825,000 for Butch Cassidy); and all grossed upward of $10 million domestically."
  224. ^ 2001: A Space Odyssey
    • Total: Miller, Frank. “2001: A Space Odyssey (1968) – Articles”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2011. 2001: A Space Odyssey made $15 million on its initial U.S. release, and currently shows a worldwide gross of over $190 million.
    • As of 2006: Palmer, R. Barton (2006). “2001: The Critical Reception and the Generation Gap”. Trong Kolker, Robert Phillip (biên tập). Stanley Kubrick's 2001: a Space Odyssey: New Essays. Oxford University Press. tr. 16. ISBN 978-0-19-517452-6. With its initial and subsequent releases, domestic and worldwide, Kubrick's arty, intellectual film earned nearly $138 million, which was, at that time, an astounding figure.
    • 2013 re-release: “2001: A Space Odyssey (2013 re-release)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2018. Domestic Total Gross: $214,618; United Kingdom: $568,997
    • 2014 re-release: “2001: A Space Odyssey (2014 re-release)”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2018. Domestic Total Gross: $135,370
    • 2018 re-release: “2001: A Space Odyssey (2018 re-release)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2018. Domestic Total Gross: $1,283,820; Australia: $192,457; Greece: $27,510; Netherlands: $159,068; New Zealand: $5,046; Russia: $155,841; United Kingdom: $296,525
  225. ^ Haber, Joyces (27 tháng 3 năm 1969). “'Funny Girl' a Box Office Winner”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2012. ..."Funny Girl" will gross an estimated $80 to $100 million worldwide.
  226. ^ Welles, Chris (7 tháng 9 năm 1970). “Behind the Silence at Columbia Pictures—No Moguls, No Minions, Just Profits”. New York. 3 (36). New York Media. tr. 42–47. While Columbia, battling Ray Stark over every dollar, did Funny Girl for around $8.8 million, a million or so over budget, Fox spent nearly $24 million on Hello, Dolly!, more than twice the initial budget, and the film will thus have to gross three times as much to break even.
  227. ^ Butch Cassidy and the Sundance Kid
    • United States and Canada: “Butch Cassidy and the Sundance Kid”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016. $102,308,525
    • Outside North America: Vanity Fair. 2008. tr. 388. Butch Cassidy went on to be a huge hit—by the spring of 1970 it had taken in $46 million in North America and grossed another $50 million abroad.
  228. ^ D'Alessandro, Anthony (15 tháng 7 năm 2002). “Top 50 worldwide grossers”. Variety: 52, Paramount at 90 supplement.
  229. ^ 'Love Story' II: Ryan Redux?”. New York. 9. New York Media. 1976. tr. 389. Bring those handkerchiefs out of retirement. ... After all, the first movie made around $80 million worldwide.
  230. ^ Block, Hayley Taylor (2010), Love Story, tr. 545, The final cost came in at $2,260,000. In: Block & Wilson 2010.
  231. ^ Block & Wilson 2010, tr. 549. "Fiddler had the highest domestic box office of 1971 (it was second in worldwide box office after Diamonds Are Forever), with more than $100 million in unadjusted worldwide box office on its initial release. The soundtrack album was also a huge seller. The 1979 rerelease was not as successful, with the $3.8 million print and ad costs almost as high as the $4.3 million in worldwide rentals."
  232. ^ a b c d Block & Wilson 2010, tr. 527.
    • Star Wars: "Tiền thuê nội địa: $127,0; Tiền thuê ngoài nước: $141,5; Kinh phí: $13,0 (lần chiếu đầu – triệu USD không tính lạm phát)."
    • The Godfather: "Tiền thuê nội địa: $85,6; Tiền thuê ngoài nước: $42,0; Kinh phí: $7,2 (lần chiếu đầu – triệu USD không tính lạm phát)."
    • Fiddler on the Roof: "Tiền thuê nội địa: $34,0; Tiền thuê ngoài nước: $11,1; Kinh phí: $9,0 (lần chiếu đầu – triệu USD không tính lạm phát)."
    • Rocky: "Tiền thuê nội địa: $56,0; Tiền thuê ngoài nước: $21,1; Kinh phí: $1,6 (lần chiếu đầu – triệu USD không tính lạm phát)."
  233. ^ The Godfather
    • 1974: Newsweek. 84. 1974. tr. 74. The original Godfather has grossed a mind-boggling $285 million...
    • 1991: Von Gunden, Kenneth (1991). Postmodern auteurs: Coppola, Lucas, De Palma, Spielberg, and Scorsese. McFarland & Company. tr. 36. ISBN 978-0-89950-618-0. Since The Godfather had earned over $85 million in U.S.-Canada rentals (the worldwide box-office gross was $285 million), a sequel, according to the usual formula, could be expected to earn approximately two-thirds of the original's box-office take (ultimately Godfather II had rentals of $30 million).
    • Releases: “The Godfather (1972)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2020. Original release: $243,862,778; 1997 re-release: $1,267,490; 2009 re-release: $121,323; 2011 re-release: $818,333; 2014 re-release: $29,349; 2018 re-release: $21,701; Budget: $6,000,000
  234. ^ Jacobs, Diane (1980). Hollywood Renaissance. Dell Publishing. tr. 115. ISBN 978-0-440-53382-5. The Godfather catapulted Coppola to overnight celebrity, earning three Academy Awards and a then record-breaking $142 million in worldwide sales.
  235. ^ “The Godfather (1972) – Notes”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2020.
  236. ^ “The Exorcist”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  237. ^ Stanley, Robert Henry; Steinberg, Charles Side (1976). The media environment: mass communications in American society. Hastings House. tr. 76. ISBN 978-0-8038-4681-4. ...further reflected by the phenomenal successes of The Sting, Chinatown and The Exorcist. The latter film, which cost about $10 million to produce, has grossed over $110 million worldwide.
  238. ^ “Big Rental Films of 1974”. Variety: 24. 8 tháng 1 năm 1975. U.S-Canada market only $66,3000,000
  239. ^ a b Pollock, Dale (9 tháng 5 năm 1979). “WB Adds To Its Record Collection”. Daily Variety: 1. "Towering Inferno" did $56,000,000 overseas in billings while "The Exorcist" toted up $46,000,000
  240. ^ New York, 8, New York Media, 1975, ...Jaws should outstrip another MCA hit, The Sting, which had world-wide revenues of $115 million. (Online copy at Google Books)
  241. ^ Block & Wilson 2010, tr. 560. "Production Cost: $5.5 (triệu USD không tính lạm phát)."
  242. ^ “It Towers $203,336,412 (advertisement)”. Variety: 8–9. 2 tháng 6 năm 1976. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2020.
  243. ^ Hall & Neale 2010, tr. 206–208. "The most successful entry in the disaster cycle was the $15 million The Towering Inferno which earned over $48,650,000 in domestic rentals and about $40 million foreign."
  244. ^ Klady, Leonard (1998). “All-Time Top Film Rentals”. Variety. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 1999. Domestic rentals: $48,838,000
  245. ^ Block & Wilson 2010, tr. 568. "Production Cost: $14.3 (triệu USD không tính lạm phát)."
  246. ^ “Jaws”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  247. ^ Kilday, Gregg (5 tháng 7 năm 1977). “Director of 'Jaws II' Abandons His 'Ship'”. The Victoria Advocate. tr. 6B.
  248. ^ Priggé, Steven (2004). Movie Moguls Speak: Interviews With Top Film Producers. McFarland & Company. tr. 8. ISBN 978-0-7864-1929-6. The budget for the first Jaws was $4 million and the picture wound up costing $9 million.
  249. ^ Hall & Neale 2010, tr. 214. "Rocky was the "sleeper of the decade". Produced by UA and costing just under $1 million, it went on to earn a box-office gross of $117,235,247 in the United States and $225 million worldwide."
  250. ^ Block, Alex Ben (2010), Rocky, tr. 583, The budget was $1,075,000 plus producer's fees of $100,000. In: Block & Wilson 2010.
  251. ^ “Star Wars (1977)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012.
  252. ^ a b Wuntch, Philip (19 tháng 7 năm 1985). “Return of E.T.”. The Dallas Morning News. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2012. Its worldwide box-office gross was $619 million, toppling the record of $530 million set by Star Wars.
  253. ^ Hall & Neale 2010, tr. 218. "Eventually costing $11,293,151, Star Wars was previewed at the Northpoint Theatre in San Francisco on May 1, 1977."
  254. ^ “Grease”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  255. ^ Hofler, Robert (2010). Party Animals: A Hollywood Tale of Sex, Drugs, and Rock 'N' Roll Starring the Fabulous Allan Carr. ReadHowYouWant.com. tr. 145. ISBN 978-1-4596-0007-2. Despite the fact that Grease was well on its way to becoming the highest-grossing movie musical in the world, and eventually grossed over $341 million...
  256. ^ “Grease (40th Anniversary)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2018.
  257. ^ a b Kramer vs. Kramer
    • United & Babson Investment Report. 72. Babson-United, Inc. 1980. tr. 262. Columbia Pictures Industries is continuing to rake in the box office dollars from its Oscar-winning Kramer vs. Kramer, which has topped $100 million in domestic grosses and $70 million overseas. Kramer, which cost less than $8 million to make, is now the second...
    • Prince, Stephen (2002). A New Pot of Gold: Hollywood Under the Electronic Rainbow, 1980–1989. University of California Press. tr. 7. ISBN 978-0-520-23266-2. Much of this was attributable to the performance of its hit film, Kramer vs. Kramer ($94 million worldwide and the number two film in the domestic market).
  258. ^ “Rocky II”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  259. ^ Kilday, Greg (22 tháng 5 năm 1992). “Rules of the Game”. Entertainment Weekly (119). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2012.
  260. ^ The Empire Strikes Back
    • Total up to 2014: “The Empire Strikes Back (1980)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012. $538,375,067
    • Special edition: “The Empire Strikes Back (Special Edition)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012. North America: $67,597,694; Overseas: $57,214,766
    • 2015 re-release: “The Empire Strikes Back”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2015. United Kingdom: $9,593,937
  261. ^ a b c Block & Wilson 2010, tr. 519.
    • Đế chế phản công: "Kinh phí: $32,0 (triệu USD không tính lạm phát)."
    • Sự trở lại của Jedi: "Kinh phí: $42,7 (triệu USD không tính lạm phát)."
    • Hiểm họa bóng ma: "Kinh phí: $127,5 (triệu USD không tính lạm phát)."
  262. ^ Raiders of the Lost Ark
    • “Raiders of the Lost Ark (1981)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2012. Total: $389,925,971; North America: $212,222,025 (original run); Overseas: $141,766,000
    • Block & Wilson 2010, tr. 625. Doanh thu phòng vé Bắc Mỹ: $180,1; "Kinh phí: $22,8 (lần chiếu đầu – triệu USD không tính lạm phát)."
  263. ^ “E.T.: The Extra-Terrestrial (1982)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012.
  264. ^ Block & Wilson 2010, tr. 609. "Steven Spielberg, by far the most successful director of the decade, had the highest-grossing movie with 1982's E.T.: The Extra-Terrestrial, which grossed over $664 million in worldwide box office on initial release."
  265. ^ Block & Wilson 2010, tr. 652. "Production Cost: $12.2 (triệu USD không tính lạm phát)."
  266. ^ Return of the Jedi
    • Total: “Return of the Jedi (1983)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012. $475,106,177
    • Special edition: “Return of the Jedi (Special Edition)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012. North America: $45,470,437; Overseas: $43,790,543
  267. ^ “Indiana Jones and the Temple of Doom (1984)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2013.
  268. ^ a b c d e f Finler 2003, tr. 190–191.
  269. ^ Block & Wilson 2010, tr. 664. "Production Cost: $28.2 (triệu USD không tính lạm phát)."
  270. ^ Back to the Future
    • Original release: “Back to the Future (1985)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2014. Worldwide: $381,109,762; Production Budget: $19 million
    • 2010 reissue: “Back to the Future (2010 re-release)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2014. Foreign Total: $2,315,159
    • 2014 reissue: “Back to the Future (2014 re-issue)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2014. United Kingdom: $5,628,876
  271. ^ Finler 2003, tr. 268. "The studio had a record operating income of $212 million in 1982, the year of Spielberg's E.T. The Extra-Terrestrial (which had cost only slightly over $10 million) and $150 million in 1985, mainly due to another Spielberg production, the $22 million Back to the Future, which became the top box office hit of the year."
  272. ^ “Top Gun”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  273. ^ McAdams, Frank (2010), Top Gun, tr. 678–679, Production Cost: $19.0 (Millions of $s) ... Despite mixed reviews, it played in the top 10 for an extended period and was a huge hit, grossing almost $345 million in worldwide box office. In: Block & Wilson 2010.
  274. ^ Fatal Attraction
    • “Fatal Attraction”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
    • Scott, Vernon (15 tháng 6 năm 1990). “'Three Men and Baby' Sequel Adds Cazenove to Original Cast”. The Daily Gazette. New York. Hollywood (UPI). tr. 9 (TV Plus – The Daily Gazette Supplement). That legacy is the $167,780,960 domestic box-office and $75 million foreign gross achieved by the original...
  275. ^ “Rain Man”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  276. ^ Finler 2003, tr. 244. "Rain Man: 30.0 (cost in million $s)"
  277. ^ “Indiana Jones and the Last Crusade (1989)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2013.
  278. ^ Block & Wilson 2010, tr. 694–695. "Production Cost: $55.4 (triệu USD không tính lạm phát) ... The film went on to haul in over $494 million worldwide."
  279. ^ “Ghost (1990)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2020.
  280. ^ Kẻ hủy diệt 2
    • Lần chiếu đầu: “Terminator 2: Judgment Day (1991)”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2017. $519,843,345
    • Tái chiếu 3D: “Terminator 2: Judgment Day (1991)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2017.
  281. ^ Ansen, David (8 tháng 7 năm 1991). “Conan The Humanitarian”. Newsweek. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2013.
  282. ^ “Aladdin”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  283. ^ Toy Story
    • Total: “Toy Story (1995)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2014. Worldwide: $373,554,033
    • 3D release: “Toy Story in 3D (2009)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2014. Foreign Total: $8,680,257
  284. ^ Block & Wilson 2010, tr. 776. "Production Cost: $30.0 (triệu USD không tính lạm phát)"
  285. ^ “Die Hard: With A Vengeance”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  286. ^ Finler 2003, tr. 123.
  287. ^ “Independence Day (1996)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2009.
  288. ^ “Armageddon”. Boxoffice. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2016.
  289. ^ Block & Wilson 2010, tr. 509. "Production Cost: $140.0 (triệu USD không tính lạm phát)."
  290. ^ “Mission: Impossible II”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
  291. ^ “The Lord of the Rings: The Two Towers”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2020. Worldwide: $947,495,095; Original Release: $936,689,735
  292. ^ “Shrek 2 (2002)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2009.
  293. ^ Harry Potter and the Goblet of Fire
    • Total: “Harry Potter and the Goblet of Fire (2005)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2020.
  294. ^ “Pirates of the Caribbean: At World's End (2007)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2011.
  295. ^ “Avatar (2009)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2021. Original Release: $2,743,577,587
    2010 Special Edition: $44,838,548
    2020 Re-release: $1,263,659
    2021 Re-release: $57,566,409
  296. ^ Rubin, Rebecca (30 tháng 4 năm 2018). “'Avengers: Infinity War' Officially Lands Biggest Box Office Opening of All Time”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2018.
  297. ^ Mendelson, Scott (6 tháng 6 năm 2021). “Box Office: 'F9' Tops $255M Worldwide As 'Quiet Place' Nears $90M Domestic”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2021. Demon Slayer, which has passed $500 million worldwide in exchange-rate-adjusted global grosses and remains by far the biggest global earner of 2020, now has $47.7 million domestic.

§ Nguồn loạt phim và thương hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

  • “Franchise Index”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2015.
  • Avengers
    • “Avengers – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2015.
  • Batman
    • “Batman – Worldwide (Unadjusted) & Batman: Mask of the Phantasm”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2016.
    • Fathom events
      • Batman (UK): “Batman (1989) 30th Anniversary”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2019. UK: $48,482
      • Batman Returns (UK): “Batman Returns (Event)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2019. UK: $10,057
      • Batman Forever: “Batman Forever (Fathom Event)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2019. US: $38,014; UK: $373
      • Batman and Robin: “Batman and Robin (Fathom Event)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2019. US: $28,597; UK: $196
    • Batman: The Movie (1966)  – Silverman, Stephen M. (1988). “Breakeven for Feature Productions: 1966 Releases”. The Fox That Got Away: The Last Days of the Zanuck Dynasty at Twentieth Century-Fox. L. Stuart. tr. 325.
    • “Catwoman (2004)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2012.
    • “Batman: Return of the Caped Crusaders”. The Numbers. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2016.
    • “Batman and Harley Quinn (2017)”. The Numbers. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2017.
    • “Joker (2019)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2019.
  • DC Extended Universe
    • “DC Extended Universe – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2019.
  • Despicable Me
    • “Despicable Me (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2015.
  • The Fast and the Furious
    • “The Fast and the Furious – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2019.
    • “The Fate of the Furious (2017)”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2017.
  • The Hunger Games
    • “The Hunger Games – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2016.
  • Ice Age
    • “Ice Age – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2017.
    • “Ice Age: The Meltdown 3D (2014)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2014. Foreign Total: $6,095,750
  • Iron Man
    • “Iron Man – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  • J.K. Rowling's Wizarding World
    • “J.K. Rowling's Wizarding World – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2016.
  • James Bond
    • “James Bond – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2016. (Brosnan and Craig)
    • Block & Wilson 2010, tr. 428–429. "James Bond Franchise Films: All-Release Worldwide Box Office." (Connery, Lazenby, Moore and Dalton)
    • “Never Say Never Again (1983)”. The Numbers. Nash Information Services, LLC. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2012.
    • “Casino Royale (1967)”. The Numbers. Nash Information Services, LLC. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
    • “Casino Royale (Secret Cinema 2019)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  • Jurassic Park
    • “Jurassic Park – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2018.
    • “Jurassic Park (2011 re-release)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2015. United Kingdom: $786,021
  • Madagascar
    • “Madagascar – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2015.
  • Marvel Cinematic Universe
    • “Marvel Cinematic Universe – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2016.
  • Middle-earth
    • “Middle Earth – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2016.
    • “The Lord of the Rings: The Fellowship of the Ring (2017 re-release)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2017.
    • “The Lord of the Rings: The Two Towers (2017 re-release)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2017.
    • “The Lord of the Rings: The Return of the King (2017 re-release)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2017.
    • “The Lord of the Rings – Worldwide (Unadjusted) & The Lord of the Rings (1978)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2015.
  • Mission: Impossible
    • “Mission: Impossible – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2015.
  • Pirates of the Caribbean
    • “Pirates of the Caribbean – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
  • Shrek
    • “Shrek – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2012.
  • Spider-Man
    • “Spider-Man – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2014.
    • “Spider-Man / Men in Black II”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2018.
  • Star Trek
    • “Box Office History for Star Trek Movies”. The Numbers. Nash Information Services. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2016.
  • Star Wars
    • “Star Wars (1977)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
    • “The Empire Strikes Back”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2015.
    • “Return of the Jedi”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
    • “The Phantom Menace”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2012.
    • “Attack of the Clones”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
    • “Revenge of the Sith”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
    • “The Clone Wars”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
    • Disney releases (2015–present): “Star Wars – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2018.
  • Superman
    • Superman, Superman Returns, Man of Steel and Batman v Superman:
      • “Superman – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
    • Superman II, Superman III and Superman IV:
      • Block & Wilson 2010, tr. 534. "Superman Franchise Films: All-Release Worldwide Box Office Revenues vs. Production Costs – Equivalent 2005 $s."
      • Block & Wilson 2010, tr. xii. "Notes on Adjusting Dollars and Making Estimates – Adjusting Revenues."
      • “Adjusting for Ticket Price Inflation” (Source: MPAA). Box Office Mojo. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2013.
    • “Supergirl (1984)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2013.
    • “Australia Box Office for The Death Of Superman / Reign Of The Supermen (2018)”. The Numbers. Nash Information Services. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2019.
  • Toy Story
    • “Toy Story – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2019.
  • Transformers
    • “Transformers – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2015.
  • The Twilight Saga
    • “Twilight – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
    • “Twilight/New Moon Combo (one-night-only)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2011.
  • X-Men
    • “X-Men – Worldwide (Unadjusted)”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2017.

Sách tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Block, Alex Ben; Wilson, Lucy Autrey biên tập (2010). George Lucas's Blockbusting: A Decade-by-Decade Survey of Timeless Movies Including Untold Secrets of Their Financial and Cultural Success. HarperCollins. ISBN 978-0-06-177889-6.
  • Finler, Joel Waldo (2003). The Hollywood Story. Wallflower Press. ISBN 978-1-903364-66-6.
  • Hall, Sheldon; Neale, Stephen (2010). Epics, Spectacles, and Blockbusters: A Hollywood History. Wayne State University Press. ISBN 978-0-8143-3008-1.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • All Time Worldwide Box Office Grosses tại Box Office Mojo
  • All Time Worldwide Box Office tại The Numbers
  • Box-Office Top 100 Films of All-Time tại Filmsite.org

There’s nothing like a good horror movie at this time of year. Really, there’s nothing like a good horror movie at any time of year. But there’s good, and then there’s the best. And that’s what we’re here to do as we break down the 100 best horror movies of all time!

Some of the movies on this list are more traditional horror fare, while others are just twisted and creepy in a "permanently scarred for life" sorta way. But all of them will scare the living heck out of you, that much is certain.

We judged each movie on the following criteria:

  • Does it want to actively scare viewers, be it via psychological menace, atmosphere, “jump” moments, or other means?
  • Is it grounded in human fears of the “unknown” (monsters, mysterious person next door, imminent threat, creepy clowns, etc.)?
  • Does the film have cultural and historical significance in the genre?
  • Is it innovative in some way?
  • SPOILERS AHEAD

    Released2002 2002

    Directed by Gore Verbinski

    100

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    When American horror movies began to stagnate in the 1990s, Hollywood began looking at Asian cinema for new ways to scare the pants off viewers. 1998's Ringu emerged as one of the best efforts in Japan's growing horror lineup, so it was only natural that DreamWorks chose to remake it as 2002's The Ring.

    The concept for The Ring is simple and effective. An unsuspecting viewer watches a tape full of creepy imagery and a creepier girl. One week later, they're found dead from sinister but mysterious causes. And when our lovely heroine becomes the latest viewer, she has only days to save herself and her family from this deadly curse.

    The Ring is one creepy movie, and that's why it's so effective. Director Gore Verbinski loads his adaptation with plenty of haunting imagery even while the tension seems always just at the boiling point. Even hardcore fans of the original were pleased to see The Ring diverge from the source material in some ways and take full advantage of its larger budget. Hollywood hasn't always found success in mimicking Japan's horror gems, but they certainly hit gold with The Ring.

    Released2000 2000

    Directed by Tarsem Singh

    99

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Lauren Lavin

    Striking a note somewhere between hallucinogenic nightmare and cop vs. serial killer suspense-thriller, The Cell made an instant impression on viewers through Tarsem Singh’s vivid and surreal visual style. The premise, a cop trying to find a serial killer’s next victim before she drowns in his Jigsaw-killer-esque contraption, is decent as is, but most of the film’s action takes place inside the mind of the comatose killer, giving way to the film’s artistic sets and sequences. The story is original, but it’s the delivery that makes this film a standout within the realm of psychological horror.

    Jennifer Lopez as child psychologist Catherine Deane is actually not bad, giving a sensitive and compassionate performance that helps keep the audience anchored throughout the disturbing story, and Vincent D’Onofrio is memorable as multiple facets of the serial killer’s persona, from the pitiful youth to the menacing King. The film’s parallel storylines in the outside world and the killer’s internal self play against each other wonderfully, with the time-limit of the search for the drowning girl lending a sense of urgency to all the indulgent and striking imagery. Those visuals are very effective at driving the already macabre subject matter deeper under the skin of the viewer.

    Released2010 2010

    Directed by Darren Aronofsky

    98

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    One of the great tragedies of art is that the level of introspection necessary to make something beautiful is inversely proportional to the amount of socializing you have to do to get anyone to notice it. That unfortunate contradiction is at the heart of Black Swan, in which Oscar-winner Natalie Portman plays a ballerina whose obsession pushes her to greatness, but away from other human experiences, and eventually into madness.

    Darren Aronofsky films Black Swan like a subtle character piece, eventually letting his horrifying tale bloom into a kaleidoscope of self-destruction. The madness is real, for it is what our protagonist believes, and skillful filmmaking and exceptional performances make us believe it too.

    Released1992 1992

    Directed by Bernard Rose

    97

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Lauren Lavin

    There is almost too much to love about Candyman. Philip Glass’s original score, with its gothic, funhouse-esque organ, helps elevate the story’s mythic nature. The pacing is deliberate, with exactly the right amount of jump-scares and shockingly gory visuals in just the right places, and some of them downright unexpected: Were any of us anticipating that the real Candyman would actually show up in the institution once Helen calls him to prove her sanity? Then there’s the story itself, which achieves an impressive balancing act between classic and inventive. It’s a slasher, but without the token knife-fodder, and Helen as the “final girl” transcends the stereotype to become a monster in her own right. Much of this originality has to be attributed to Clive Barker (producer and writer of the short story “The Forbidden,” which inspired Rose’s screenplay), whose signature is seen in the seductive, supernatural violence of the titular killer as well as the inversion of typical female stereotypes seen in most horror films.

    Một điều mà duy trì sự nổi tiếng của thể loại kinh dị là, giống như, giống như hầu hết các phương tiện văn học (tiểu thuyết tội phạm, truyện tranh siêu anh hùng sớm) được coi là rác rưởi hoặc rẻ tiền bởi dòng chính, ở đó, luôn luôn nói với bản sắc văn hóa của chúng ta được khám phá dưới máu và tình dục. Trường hợp Candyman vượt trội là khả năng giữ chức năng kinh dị này được cập nhật như một câu chuyện ngụ ngôn hiện đại về sự tàn bạo của cuộc sống ở các khu phố được nén, trong khi phù hợp với những bộ phim hay nhất của thể loại. Tony Todd, Candyman, một nhân vật cao chót vót với một quá khứ bi thảm, một cái móc chảy máu cho một bàn tay, và một dải lồng đầy mật ong, hoàn toàn xứng đáng được đứng cạnh Freddy, Jason và Michael Myers trong Pantheon của những kẻ giết người siêu nhiên.

    Released1992 1992

    Đạo diễn Bypeter Jackson Peter Jackson

    96

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Mẹ Lionel sườn đã kiểm soát cuộc sống của anh ấy miễn là anh ấy có thể nhớ. Ngay cả khi cô ấy chết vì cắn một con khỉ chuột Sumatran, cô ấy trở lại như một thây ma kỳ cục, buộc Lionel phải ở nhà và chăm sóc cô ấy - và mọi người cô ấy cắn - cho đến khi tình huống cuối cùng cũng vượt ra khỏi tầm tay. Er, nhiều hơn khỏi tay.

    Peter Jackson đã phát minh ra splatstick nhưng anh ta đã đến gần để hoàn thiện nó với Braindead. Nó là một bộ phim hài hay đẫm máu với những màn trình diễn táo bạo và những tác phẩm thô không thể quên. Chỉ riêng cảnh bàn ăn zombie sẽ biến nó thành một tác phẩm kinh điển, nhưng sau đó Jackson rút hết tất cả các điểm dừng cho một trận chung kết mà Gorier Gorier - và hài hước - hơn bất kỳ vụ thảm sát zombie nào trước đó. Hoặc kể từ đó.

    Released2007 2007

    Đạo diễn Bymichael Dougherty Michael Dougherty

    95

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Arnold T. Blumberg

    Tuyển tập là khó khăn để kéo ra. Không thể tránh khỏi, họ không đồng đều, với một hoặc nhiều câu chuyện bị hụt hẫng. Tồi tệ hơn, họ khó có thể trình bày như bất cứ điều gì khác ngoài một tập hợp các câu chuyện, với trình tự đóng khung chiếu lệ thỉnh thoảng không thống nhất chúng ngoại trừ có lẽ trong chủ đề chung.

    Và sau đó là bộ phim này, không chỉ trình bày tất cả các chương rùng rợn của nó như diễn ra vào một đêm Halloween cụ thể (tín dụng bổ sung cho việc bước vào ngày lễ đó), mà trong một bài thuyết trình phi tuyến tính cuối cùng thưởng cho người xem bằng cách xếp hàng mọi thứ lên theo phong cách liền mạch. Sự hiện diện của SAM giống như linh vật chỉ làm tăng thêm niềm vui, cũng như sự xuất hiện thú vị của các diễn viên như Dylan Baker và Anna Paquin. Nhờ bộ phim này, Halloween không còn chỉ là đêm anh về nhà.

    Released2013 2013

    Chỉ đạo Byjames wan James Wan

    94

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Mẹ Lionel sườn đã kiểm soát cuộc sống của anh ấy miễn là anh ấy có thể nhớ. Ngay cả khi cô ấy chết vì cắn một con khỉ chuột Sumatran, cô ấy trở lại như một thây ma kỳ cục, buộc Lionel phải ở nhà và chăm sóc cô ấy - và mọi người cô ấy cắn - cho đến khi tình huống cuối cùng cũng vượt ra khỏi tầm tay. Er, nhiều hơn khỏi tay.

    Peter Jackson đã phát minh ra splatstick nhưng anh ta đã đến gần để hoàn thiện nó với Braindead. Nó là một bộ phim hài hay đẫm máu với những màn trình diễn táo bạo và những tác phẩm thô không thể quên. Chỉ riêng cảnh bàn ăn zombie sẽ biến nó thành một tác phẩm kinh điển, nhưng sau đó Jackson rút hết tất cả các điểm dừng cho một trận chung kết mà Gorier Gorier - và hài hước - hơn bất kỳ vụ thảm sát zombie nào trước đó. Hoặc kể từ đó.

    Released1958 1958

    Đạo diễn Bymichael Dougherty Terence Fisher

    93

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Mẹ Lionel sườn đã kiểm soát cuộc sống của anh ấy miễn là anh ấy có thể nhớ. Ngay cả khi cô ấy chết vì cắn một con khỉ chuột Sumatran, cô ấy trở lại như một thây ma kỳ cục, buộc Lionel phải ở nhà và chăm sóc cô ấy - và mọi người cô ấy cắn - cho đến khi tình huống cuối cùng cũng vượt ra khỏi tầm tay. Er, nhiều hơn khỏi tay.

    Peter Jackson đã phát minh ra splatstick nhưng anh ta đã đến gần để hoàn thiện nó với Braindead. Nó là một bộ phim hài hay đẫm máu với những màn trình diễn táo bạo và những tác phẩm thô không thể quên. Chỉ riêng cảnh bàn ăn zombie sẽ biến nó thành một tác phẩm kinh điển, nhưng sau đó Jackson rút hết tất cả các điểm dừng cho một trận chung kết mà Gorier Gorier - và hài hước - hơn bất kỳ vụ thảm sát zombie nào trước đó. Hoặc kể từ đó.

    Released1982 1982

    Đạo diễn Bymichael Dougherty Tommy Lee Wallace

    92

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Arnold T. Blumberg

    Tuyển tập là khó khăn để kéo ra. Không thể tránh khỏi, họ không đồng đều, với một hoặc nhiều câu chuyện bị hụt hẫng. Tồi tệ hơn, họ khó có thể trình bày như bất cứ điều gì khác ngoài một tập hợp các câu chuyện, với trình tự đóng khung chiếu lệ thỉnh thoảng không thống nhất chúng ngoại trừ có lẽ trong chủ đề chung.

    Released1973 1973

    Và sau đó là bộ phim này, không chỉ trình bày tất cả các chương rùng rợn của nó như diễn ra vào một đêm Halloween cụ thể (tín dụng bổ sung cho việc bước vào ngày lễ đó), mà trong một bài thuyết trình phi tuyến tính cuối cùng thưởng cho người xem bằng cách xếp hàng mọi thứ lên theo phong cách liền mạch. Sự hiện diện của SAM giống như linh vật chỉ làm tăng thêm niềm vui, cũng như sự xuất hiện thú vị của các diễn viên như Dylan Baker và Anna Paquin. Nhờ bộ phim này, Halloween không còn chỉ là đêm anh về nhà. Robin Hardy

    91

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Mẹ Lionel sườn đã kiểm soát cuộc sống của anh ấy miễn là anh ấy có thể nhớ. Ngay cả khi cô ấy chết vì cắn một con khỉ chuột Sumatran, cô ấy trở lại như một thây ma kỳ cục, buộc Lionel phải ở nhà và chăm sóc cô ấy - và mọi người cô ấy cắn - cho đến khi tình huống cuối cùng cũng vượt ra khỏi tầm tay. Er, nhiều hơn khỏi tay.

    Chúng tôi biết điều gì đó phải sai, nhưng người đàn ông đan lát ném chúng tôi hoàn toàn khỏi đường đua bằng cách làm cong vênh những kỳ vọng của chúng tôi. Chúng tôi xem nhân vật chính là nhân vật phản diện và nhân vật phản diện là nhân vật chính, hay đó là cách khác? Nó là một twist hay là xoắn mà không có xoắn? Daring và độc đáo, The Wicker Man là bộ phim hoàn hảo cho loại khán giả kinh dị phù hợp. Nếu bạn mong đợi sự hồi hộp quen thuộc, hãy tìm nơi khác. Nếu không, hãy đến đây…

    Released1980 1980

    Đạo diễn bởi JOHN MARPENTER John Carpenter

    90

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Lauren Lavin

    Một phần bị đánh giá thấp so với một số bộ phim yêu thích khác của Carpenter, như Halloween (1978) hay The Thing (1982), Fog vẫn chưa giành được vị thế sùng bái và tôn trọng lành mạnh cho phong cách câu chuyện ma trung thành của nó. Việc thiết lập câu chuyện lửa trại và góc độ trả thù có thể chính đáng của những con ma là những đặc điểm nổi bật, để không nói gì về thiết bị làm lạnh, sử dụng một cách chuyên nghiệp của chính sương mù (làm cho tất cả những gì Cướp biển Zombie trốn tránh bên trong). Bộ phim Carpenter, là một cái gật đầu với những câu chuyện kinh dị kinh điển như những câu chuyện được tìm thấy trong Tales From The Crypt Comics, cũng như một con tàu ngoài đời thực bị chìm và cướp bóc ngoài khơi bờ biển Galeta, CA. Đạo diễn đã tự mình tự mình sáng tác điểm số, vì tất nhiên anh ta đã làm, sử dụng các kỹ thuật đơn giản nhưng không liên quan đến những người được nghe trong Halloween.

    Mặc dù sự nghiệp của Carpenter vào thời điểm đó đã thất bại trong việc kiếm được nhiều lời khen ngợi, nhưng kỹ năng làm phim của anh ấy là điều hiển nhiên ở đây. Sự cô lập của thị trấn ven biển nhỏ từ thế giới bên ngoài được thực thi rất nhiều với những bức ảnh rộng của sương mù leo từ biển, và ngay cả việc sử dụng sáng tạo của chương trình phát thanh DJ Stevie, và Point Point của Ngọn hải đăng cũng có thể cứu những người được đánh dấu cho các doanh thu Vengeance. Sương mù đáng sợ hơn là đáng sợ hoàn toàn, nhưng đó là một phần của những gì làm cho nó trở thành một bộ phim đáng nhớ như vậy.

    Released1968 1968

    Chỉ đạo Bymichael Reeves Michael Reeves

    89

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Tại sao lại đưa ra nỗi kinh hoàng đáng khinh khi lịch sử đã đầy chúng. Tướng phù thủy đáng sợ và đáng lo ngại của Michael Reeves là câu chuyện về Matthew Hopkins, một thợ săn phù thủy chuyên nghiệp thế kỷ 17, người biết rất rõ rằng không có thứ gọi là phù thủy, nhưng sử dụng vị trí của mình để tra tấn, giết người, quấy rối và tống tiền từ thị trấn hoang tưởng dù sao.

    Vincent Price luôn là một bậc thầy về sự nhếch nhác nhưng không giống như ngay cả những bộ phim khác của anh ấy, ở đây anh ấy không có lý do gì. Nó rất đáng lo ngại khi xem diễn viên nhân vật đáng yêu này đưa ra sự lạm dụng vô duyên với kiến ​​thức rằng bạo lực này không phục vụ mục đích nào ngoài sự giàu có của chính anh ta. Và mặc dù có một nỗ lực táo bạo trong một cuộc giải cứu, và thậm chí là một anh hùng của các loại, bộ phim là Price trước tiên và quan trọng nhất. Witchfinder General là thẳng thắn về sự xấu xa của nó, và không phù hợp về nỗi kinh hoàng của nó. Nó là một bộ phim bị cháy.

    Released1941 1941

    Đạo diễn BYGORGE WAGGNER George Waggner

    88

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Tại sao lại đưa ra nỗi kinh hoàng đáng khinh khi lịch sử đã đầy chúng. Tướng phù thủy đáng sợ và đáng lo ngại của Michael Reeves là câu chuyện về Matthew Hopkins, một thợ săn phù thủy chuyên nghiệp thế kỷ 17, người biết rất rõ rằng không có thứ gọi là phù thủy, nhưng sử dụng vị trí của mình để tra tấn, giết người, quấy rối và tống tiền từ thị trấn hoang tưởng dù sao.

    Vincent Price luôn là một bậc thầy về sự nhếch nhác nhưng không giống như ngay cả những bộ phim khác của anh ấy, ở đây anh ấy không có lý do gì. Nó rất đáng lo ngại khi xem diễn viên nhân vật đáng yêu này đưa ra sự lạm dụng vô duyên với kiến ​​thức rằng bạo lực này không phục vụ mục đích nào ngoài sự giàu có của chính anh ta. Và mặc dù có một nỗ lực táo bạo trong một cuộc giải cứu, và thậm chí là một anh hùng của các loại, bộ phim là Price trước tiên và quan trọng nhất. Witchfinder General là thẳng thắn về sự xấu xa của nó, và không phù hợp về nỗi kinh hoàng của nó. Nó là một bộ phim bị cháy.

    Released2011 2011

    Đạo diễn BYGORGE WAGGNER Adam Wingard

    87

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Lauren Lavin

    Một phần bị đánh giá thấp so với một số bộ phim yêu thích khác của Carpenter, như Halloween (1978) hay The Thing (1982), Fog vẫn chưa giành được vị thế sùng bái và tôn trọng lành mạnh cho phong cách câu chuyện ma trung thành của nó. Việc thiết lập câu chuyện lửa trại và góc độ trả thù có thể chính đáng của những con ma là những đặc điểm nổi bật, để không nói gì về thiết bị làm lạnh, sử dụng một cách chuyên nghiệp của chính sương mù (làm cho tất cả những gì Cướp biển Zombie trốn tránh bên trong). Bộ phim Carpenter, là một cái gật đầu với những câu chuyện kinh dị kinh điển như những câu chuyện được tìm thấy trong Tales From The Crypt Comics, cũng như một con tàu ngoài đời thực bị chìm và cướp bóc ngoài khơi bờ biển Galeta, CA. Đạo diễn đã tự mình tự mình sáng tác điểm số, vì tất nhiên anh ta đã làm, sử dụng các kỹ thuật đơn giản nhưng không liên quan đến những người được nghe trong Halloween.

    Mặc dù sự nghiệp của Carpenter vào thời điểm đó đã thất bại trong việc kiếm được nhiều lời khen ngợi, nhưng kỹ năng làm phim của anh ấy là điều hiển nhiên ở đây. Sự cô lập của thị trấn ven biển nhỏ từ thế giới bên ngoài được thực thi rất nhiều với những bức ảnh rộng của sương mù leo từ biển, và ngay cả việc sử dụng sáng tạo của chương trình phát thanh DJ Stevie, và Point Point của Ngọn hải đăng cũng có thể cứu những người được đánh dấu cho các doanh thu Vengeance. Sương mù đáng sợ hơn là đáng sợ hoàn toàn, nhưng đó là một phần của những gì làm cho nó trở thành một bộ phim đáng nhớ như vậy.

    Released1960 1960

    Chỉ đạo Bymario Bava Mario Bava

    86

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Mario Bava là một trong những nhà làm phim đầy màu sắc nhất trong lịch sử kinh dị, làm nổ tung những bộ phim của anh ấy với những giai điệu rực rỡ bất cứ khi nào nó làm anh ấy hài lòng. Nhưng trong chuyến đi chơi đầu tiên của anh ấy sau máy ảnh, anh ấy hài lòng khi làm một trong những bộ phim kinh dị đen trắng xa hoa nhất từng được sản xuất: Chủ nhật đen, một câu chuyện về phù thủy và ma cà rồng.

    Bản thân câu chuyện có đầy đủ các lâu đài và lời nguyền, và đó là tất cả tốt và tốt, nhưng nhiếp ảnh ở đây có màu đen đáng kinh ngạc, bạn có thể chìm vào nó và bị mất một cách vô vọng. Nó làm cho tất cả các bộ phim bạo lực kỳ quái - các vụ hành quyết về mặt nạ ma quỷ, sự phục sinh của ổ cắm nhãn cầu - bật lên nhiều hơn một phiên bản màu sắc có thể. Không có gì bình thường trong Chủ nhật Đen để hạ cánh những nỗi kinh hoàng này. Đây chỉ là thế giới bây giờ, và nó đầy tà ác, được chụp ảnh đẹp, hoàn toàn vô cùng xấu xa.

    Released1932 1932

    Đạo diễn Bycarl Theodor Dreyer Carl Theodor Dreyer

    85

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Arnold T. Blumberg

    Khi bắt đầu một thời kỳ hoàng kim trong rạp chiếu phim kinh dị, sản phẩm Pháp-Pháp-Pháp này-được quay bằng ba ngôn ngữ khác nhau vào buổi bình minh của việc làm phim âm thanh, không hơn không kém! - Đại diện cho một sự giao thoa từ sản xuất phim câm cho đến The Talkies, với một câu chuyện quen thuộc với nhiều người hâm mộ kinh dị và ma cà rồng. Có một ngôi làng dưới một lời nguyền và một sinh viên huyền bí trẻ anh hùng phải đối mặt với cơn thịnh nộ của một ma cà rồng.

    Bộ phim không được đón nhận trong thời gian đó nhưng giờ đây có tiếng tăm về hình ảnh tuyệt vời của nó-bao gồm một chuỗi giấc mơ kỳ lạ-và cách tiếp cận chậm chạp, mơ hồ của nó để kể chuyện, đã trở thành một hình thức nổi tiếng của câu chuyện kinh dị ngày nay.

    Released1977 1977

    Chỉ đạo Bynobuhiko ôbayashi Nobuhiko Ôbayashi

    84

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Mario Bava là một trong những nhà làm phim đầy màu sắc nhất trong lịch sử kinh dị, làm nổ tung những bộ phim của anh ấy với những giai điệu rực rỡ bất cứ khi nào nó làm anh ấy hài lòng. Nhưng trong chuyến đi chơi đầu tiên của anh ấy sau máy ảnh, anh ấy hài lòng khi làm một trong những bộ phim kinh dị đen trắng xa hoa nhất từng được sản xuất: Chủ nhật đen, một câu chuyện về phù thủy và ma cà rồng.

    Bản thân câu chuyện có đầy đủ các lâu đài và lời nguyền, và đó là tất cả tốt và tốt, nhưng nhiếp ảnh ở đây có màu đen đáng kinh ngạc, bạn có thể chìm vào nó và bị mất một cách vô vọng. Nó làm cho tất cả các bộ phim bạo lực kỳ quái - các vụ hành quyết về mặt nạ ma quỷ, sự phục sinh của ổ cắm nhãn cầu - bật lên nhiều hơn một phiên bản màu sắc có thể. Không có gì bình thường trong Chủ nhật Đen để hạ cánh những nỗi kinh hoàng này. Đây chỉ là thế giới bây giờ, và nó đầy tà ác, được chụp ảnh đẹp, hoàn toàn vô cùng xấu xa.

    Released1932 1932

    Đạo diễn Bycarl Theodor Dreyer Karl Freund

    83

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Arnold T. Blumberg

    Khi bắt đầu một thời kỳ hoàng kim trong rạp chiếu phim kinh dị, sản phẩm Pháp-Pháp-Pháp này-được quay bằng ba ngôn ngữ khác nhau vào buổi bình minh của việc làm phim âm thanh, không hơn không kém! - Đại diện cho một sự giao thoa từ sản xuất phim câm cho đến The Talkies, với một câu chuyện quen thuộc với nhiều người hâm mộ kinh dị và ma cà rồng. Có một ngôi làng dưới một lời nguyền và một sinh viên huyền bí trẻ anh hùng phải đối mặt với cơn thịnh nộ của một ma cà rồng.

    Released1958 1958

    Bộ phim không được đón nhận trong thời gian đó nhưng giờ đây có tiếng tăm về hình ảnh tuyệt vời của nó-bao gồm một chuỗi giấc mơ kỳ lạ-và cách tiếp cận chậm chạp, mơ hồ của nó để kể chuyện, đã trở thành một hình thức nổi tiếng của câu chuyện kinh dị ngày nay. Kurt Neumann

    82

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Arnold T. Blumberg

    Khi bắt đầu một thời kỳ hoàng kim trong rạp chiếu phim kinh dị, sản phẩm Pháp-Pháp-Pháp này-được quay bằng ba ngôn ngữ khác nhau vào buổi bình minh của việc làm phim âm thanh, không hơn không kém! - Đại diện cho một sự giao thoa từ sản xuất phim câm cho đến The Talkies, với một câu chuyện quen thuộc với nhiều người hâm mộ kinh dị và ma cà rồng. Có một ngôi làng dưới một lời nguyền và một sinh viên huyền bí trẻ anh hùng phải đối mặt với cơn thịnh nộ của một ma cà rồng.

    Released1999 1999

    Bộ phim không được đón nhận trong thời gian đó nhưng giờ đây có tiếng tăm về hình ảnh tuyệt vời của nó-bao gồm một chuỗi giấc mơ kỳ lạ-và cách tiếp cận chậm chạp, mơ hồ của nó để kể chuyện, đã trở thành một hình thức nổi tiếng của câu chuyện kinh dị ngày nay. M. Night Shyamalan

    81

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Arnold T. Blumberg

    Khi bắt đầu một thời kỳ hoàng kim trong rạp chiếu phim kinh dị, sản phẩm Pháp-Pháp-Pháp này-được quay bằng ba ngôn ngữ khác nhau vào buổi bình minh của việc làm phim âm thanh, không hơn không kém! - Đại diện cho một sự giao thoa từ sản xuất phim câm cho đến The Talkies, với một câu chuyện quen thuộc với nhiều người hâm mộ kinh dị và ma cà rồng. Có một ngôi làng dưới một lời nguyền và một sinh viên huyền bí trẻ anh hùng phải đối mặt với cơn thịnh nộ của một ma cà rồng.

    Bộ phim không được đón nhận trong thời gian đó nhưng giờ đây có tiếng tăm về hình ảnh tuyệt vời của nó-bao gồm một chuỗi giấc mơ kỳ lạ-và cách tiếp cận chậm chạp, mơ hồ của nó để kể chuyện, đã trở thành một hình thức nổi tiếng của câu chuyện kinh dị ngày nay.

    Released2006 2006

    Chỉ đạo Bynobuhiko ôbayashi Bong Joon-ho

    80

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Trừ khi bạn nhìn thấy ngôi nhà, bạn đã không bao giờ xem một bộ phim như nhà. Nobuhiko ôbayashi, bối rối nhưng hấp dẫn vô tận Câu chuyện về ngôi nhà bị ma ám là câu chuyện về một nhóm các nữ sinh đi đến một ngôi nhà nông thôn và trở thành con mồi để đi bộ dưa hấu, pianos ăn ngón tay và những bức tranh mèo giết người. Trong khi đó, ai đó biến thành một đống chuối.

    Thật tuyệt khi nói rằng tất cả có ý nghĩa cuối cùng nhưng đó không phải là những gì ngôi nhà nói về. Đó là một bộ phim đưa bạn ra ngoài gần như ngay lập tức, và không cho bạn cơ hội bò ra khỏi sự điên rồ. Bộ phim này, ngớ ngẩn, bệnh hoạn, đẹp đẽ và khó chịu là tù nhân của bạn bây giờ. Bạn sống trong nhà. Không có gì sẽ giống nhau.

    Hơn một thập kỷ sau khi phát hành ban đầu, bộ phim giữ vững đáng kể. Các hiệu ứng đặc biệt, mặc dù được thông qua giữa các hãng phim và hội thảo dưới những hạn chế về ngân sách, vẫn vững chắc và hình ảnh của những người biểu tình trẻ, ngây thơ chảy máu đến chết trong những đám mây của hóa chất màu vàng giả tưởng chỉ là sâu sắc hơn (và, có thể nói là sardonic) sau đó Các phong trào phản kháng khét tiếng như Chiếm Phố Wall và Mùa xuân Ả Rập. Tuy nhiên, đó là sự quyết tâm của gia đình công viên, đặc biệt là người trẻ và can đảm Hyun-seo, làm cho chủ nhà xứng đáng với nhiều quan điểm. Đó và cảnh mà con quái vật đột biến nôn mửa lên một đống xương người, tất nhiên.

    Released1962 1962

    Chỉ đạo Byherk Harvey Herk Harvey

    79

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Mary Henry (Candace Hilligoss) sống sót sau một tai nạn xe hơi khủng khiếp nhưng sau đó, mọi thứ có vẻ sai. Âm nhạc kỳ lạ xuất hiện từ đài phát thanh, một người đàn ông kỳ lạ xuất hiện trong gương của cô, và anh ta dường như đang theo dõi cô bất cứ nơi nào cô đi. Có gì đó là sai lầm khủng khiếp nhưng đây có phải là sự điên rồ? Cái này nhiều hơn?

    Carnival of Souls là một bộ phim ngân sách cực kỳ thấp, nhưng nó có một sự nghiêm túc mà dễ dàng bị bám lấy. Nó có một câu chuyện về sự sợ hãi đáng sợ, về sự thật quấn quanh bạn cho đến khi nó không thể giải thích được. Không có vấn đề gì nếu bạn biết các mánh khóe của bộ phim, bởi vì đạo diễn Herk Harvey gợi lên một bầu không khí phantom hút bạn vào và đưa bạn đi theo nó, bất cứ nơi nào nó đi. Và nó đi đâu đó đau buồn.

    Released1942 1942

    Đạo diễn Byjacques Tourneur Jacques Tourneur

    78

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Mary Henry (Candace Hilligoss) sống sót sau một tai nạn xe hơi khủng khiếp nhưng sau đó, mọi thứ có vẻ sai. Âm nhạc kỳ lạ xuất hiện từ đài phát thanh, một người đàn ông kỳ lạ xuất hiện trong gương của cô, và anh ta dường như đang theo dõi cô bất cứ nơi nào cô đi. Có gì đó là sai lầm khủng khiếp nhưng đây có phải là sự điên rồ? Cái này nhiều hơn?

    Carnival of Souls là một bộ phim ngân sách cực kỳ thấp, nhưng nó có một sự nghiêm túc mà dễ dàng bị bám lấy. Nó có một câu chuyện về sự sợ hãi đáng sợ, về sự thật quấn quanh bạn cho đến khi nó không thể giải thích được. Không có vấn đề gì nếu bạn biết các mánh khóe của bộ phim, bởi vì đạo diễn Herk Harvey gợi lên một bầu không khí phantom hút bạn vào và đưa bạn đi theo nó, bất cứ nơi nào nó đi. Và nó đi đâu đó đau buồn.

    Released2009 2009

    Đạo diễn Byjacques Tourneur Ti West

    77

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Mary Henry (Candace Hilligoss) sống sót sau một tai nạn xe hơi khủng khiếp nhưng sau đó, mọi thứ có vẻ sai. Âm nhạc kỳ lạ xuất hiện từ đài phát thanh, một người đàn ông kỳ lạ xuất hiện trong gương của cô, và anh ta dường như đang theo dõi cô bất cứ nơi nào cô đi. Có gì đó là sai lầm khủng khiếp nhưng đây có phải là sự điên rồ? Cái này nhiều hơn?

    Carnival of Souls là một bộ phim ngân sách cực kỳ thấp, nhưng nó có một sự nghiêm túc mà dễ dàng bị bám lấy. Nó có một câu chuyện về sự sợ hãi đáng sợ, về sự thật quấn quanh bạn cho đến khi nó không thể giải thích được. Không có vấn đề gì nếu bạn biết các mánh khóe của bộ phim, bởi vì đạo diễn Herk Harvey gợi lên một bầu không khí phantom hút bạn vào và đưa bạn đi theo nó, bất cứ nơi nào nó đi. Và nó đi đâu đó đau buồn.

    Released1992 1992

    Đạo diễn Byjacques Tourneur David Lynch

    76

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Mary Henry (Candace Hilligoss) sống sót sau một tai nạn xe hơi khủng khiếp nhưng sau đó, mọi thứ có vẻ sai. Âm nhạc kỳ lạ xuất hiện từ đài phát thanh, một người đàn ông kỳ lạ xuất hiện trong gương của cô, và anh ta dường như đang theo dõi cô bất cứ nơi nào cô đi. Có gì đó là sai lầm khủng khiếp nhưng đây có phải là sự điên rồ? Cái này nhiều hơn?

    Carnival of Souls là một bộ phim ngân sách cực kỳ thấp, nhưng nó có một sự nghiêm túc mà dễ dàng bị bám lấy. Nó có một câu chuyện về sự sợ hãi đáng sợ, về sự thật quấn quanh bạn cho đến khi nó không thể giải thích được. Không có vấn đề gì nếu bạn biết các mánh khóe của bộ phim, bởi vì đạo diễn Herk Harvey gợi lên một bầu không khí phantom hút bạn vào và đưa bạn đi theo nó, bất cứ nơi nào nó đi. Và nó đi đâu đó đau buồn.

    Đạo diễn Byjacques Tourneur

    Released2017 2017

    Một phụ nữ trẻ bị thuyết phục, cô biến thành một con mèo rừng chết người mỗi khi cô vượt qua được đam mê, hay sự tức giận, trong Jacques Tourneur, ma quái và, trong thời gian, nhìn khá táo bạo về xung đột hôn nhân. Cô kết hôn với một người đàn ông có vẻ tốt bụng nhưng sợ thực sự tiết lộ bản thân, thiết lập một loạt các sự kiện dẫn đến bi kịch và kinh hoàng. Andy Muschietti

    75

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Mary Henry (Candace Hilligoss) sống sót sau một tai nạn xe hơi khủng khiếp nhưng sau đó, mọi thứ có vẻ sai. Âm nhạc kỳ lạ xuất hiện từ đài phát thanh, một người đàn ông kỳ lạ xuất hiện trong gương của cô, và anh ta dường như đang theo dõi cô bất cứ nơi nào cô đi. Có gì đó là sai lầm khủng khiếp nhưng đây có phải là sự điên rồ? Cái này nhiều hơn?

    Những chú hề xấu xa, tất nhiên, là một phát súng rẻ tiền. Về nguyên tắc, rất nhiều người sợ chú hề, cho dù họ có phải là những vị thần siêu nhiên ăn trẻ em hay không. Nhưng Muschietti, nam diễn viên Bill Skarsgård, và nhóm hiệu ứng hình ảnh của bộ phim quản lý để biến thực thể thành một cơn khủng khiếp của những nỗi kinh hoàng khó chịu, và giữ cho những tiếng la hét đến lâu sau khi bất kỳ con quái vật nào khác sẽ làm mất đi sự chào đón của nó. Những màn trình diễn chân thành, một khiếu hài hước kêu lên và sợ hãi rất nhiều. Nó có tất cả.

    Released1956 1956

    Chỉ đạo BYDON SIEGEL Don Siegel

    74

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Arnold T. Blumberg

    Một cuộc kiểm tra thời kỳ chiến tranh lạnh về hoang tưởng người Mỹ không có bằng nhau, phiên bản điện ảnh gốc của câu chuyện này về một cuộc xâm lược ngoài hành tinh của Pod Pod People đã sinh ra một số bản làm lại, sao chép và tôn kính trong 60 năm qua, nhưng Hình ảnh màu đen và trắng của phiên bản năm 1956 vẫn mạnh mẽ và đáng lo ngại. Bạn không bao giờ nhìn vào nhà máy của bạn theo cùng một cách nữa.

    Released1925 1925

    Đạo diễn Byrupert Julian (với Lon Chaney, Ernst Laemmle và Edward Sedgwick, tất cả đều không được công nhận) Rupert Julian (with Lon Chaney, Ernst Laemmle, and Edward Sedgwick, all uncredited)

    73

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Arnold T. Blumberg

    Một cuộc kiểm tra thời kỳ chiến tranh lạnh về hoang tưởng người Mỹ không có bằng nhau, phiên bản điện ảnh gốc của câu chuyện này về một cuộc xâm lược ngoài hành tinh của Pod Pod People đã sinh ra một số bản làm lại, sao chép và tôn kính trong 60 năm qua, nhưng Hình ảnh màu đen và trắng của phiên bản năm 1956 vẫn mạnh mẽ và đáng lo ngại. Bạn không bao giờ nhìn vào nhà máy của bạn theo cùng một cách nữa.

    Released2014 2014

    Đạo diễn Byrupert Julian (với Lon Chaney, Ernst Laemmle và Edward Sedgwick, tất cả đều không được công nhận) Ana Lily Amirpour

    72

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Theo nhiều cách, tất cả đều xuất hiện trong một cảnh duy nhất khi Christine (Mary Philbin) lẻn ra phía sau Phantom tiêu chuẩn, đến mặt nạ của mình, kéo nó đi và tiết lộ tầm nhìn kinh hoàng, kinh hoàng của anh ấy với khán giả. Thiết kế trang điểm của Lon Chaney, vẫn là biểu tượng và hiệu quả, và ngay cả khi xem một bộ phim câm là một thách thức đối với một số người xem hiện đại, khoảnh khắc đó là một bước ngoặt trong lịch sử kinh dị.

    Đạo diễn Byana Lily Amirpour

    Lauren Lavin

    Released2017 2017

    Bộ phim Indie bằng tiếng Ba Tư này là một thành công gần như qua đêm, được quay với giá dưới 60.000 đô la và khởi chiếu để được hoan nghênh tại Liên hoan phim Sundance. Giống như những bộ phim nghệ thuật sắc sảo mà bạn giả vờ thích khi còn là một thiếu niên, nhưng thực sự mát mẻ, thực sự hấp dẫn, và thực sự khá đáng sợ, một cô gái đi bộ về nhà một mình vào ban đêm vượt quá sự chậm trễ, kiên nhẫn và ủ rũ. Nó sử dụng các yếu tố từ truyền thống phương Tây Spaghetti để kể câu chuyện về một cô gái ma cà rồng không tên, người rình rập trên đường phố của thành phố tồi tệ ở thị trấn ma trong một chiếc Chador dài, giống như Cape và một chàng trai trẻ tên Arash, người thu hút sự chú ý của cô. Julia Ducournau

    70

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Bộ phim chứa đầy những nhân vật hạt giống thực tế đang cầu xin được cô gái nuốt chửng và sử dụng bóng tối, tuyệt vời, nhưng nó là Sheila Vand trong vai trò là người chống ma cà rồng, người đã lấy mọi thứ từ tốt Good Good đến. Cô ấy len lỏi xung quanh gần như không thể nhận ra, chậm chạp và cố tình trong các động tác của mình cho dù cô ấy cắn vào ngón tay của ai đó hay áp dụng bút kẻ mắt; Cô ấy là con gái tâm linh của gần như mọi lần lặp ma cà rồng mang tính biểu tượng, từ Max Schreck, Bá tước Orlok đến Tom Cruise, Lestat, chỉ thay thế những người tiền nhiệm về phong cách và độc đáo.

    Đạo diễn Bykim Tae-Yong và Min Kyu-Dong

    Về mặt kỹ thuật, một phần tiếp theo, phần thứ hai này trong loạt phim Whispering Corridors của Hàn Quốc có lẽ là bộ phim nổi tiếng nhất, không ai trong số đó chia sẻ các nhân vật hoặc cốt truyện được kết nối. Memento Mori là một câu chuyện ma siêu thực, sành điệu và đẹp đẽ về truyền thống phim kinh dị phương Đông hiện đại, nổi tiếng hơn vào thời điểm phát hành bởi sự miêu tả về sự lãng mạn của tuổi teen (gần như chưa từng thấy đối với một bộ phim thương mại trong văn hóa quốc gia bảo thủ). Nó kể câu chuyện về cặp đôi bị vượt qua sao Hyo-Shin (Công viên Yeh-Jin) và Shi-Eun (Yeong-Jin Lee), học sinh tại một trường trung học toàn nữ, qua đôi mắt của học sinh Soh Min-ah (Gyu -Ri Kim), người phát hiện ra nhật ký chung của họ. Hyo-Shin tự tử sau khi bắt nạt từ các đồng nghiệp của họ khiến Shi-Eun rời bỏ cô, và chẳng mấy chốc trường học bị khủng bố bằng cách leo thang sự hỗn loạn huyền bí.

    Dù bằng cách nào, những gì kinh dị!

    Released2001 2001

    Chỉ đạo Byalejandro Amenábar Alejandro Amenábar

    69

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Lauren Lavin

    Bộ phim kinh dị Gothic người Mỹ gốc Tây Ban Nha The khác là một tác phẩm kinh điển ngay lập tức khi phát hành. Nó cân bằng phong cách và câu chuyện cũng như thể loại tốt nhất của nó, sử dụng sự hồi hộp và một bản dựng chậm để đưa khán giả vào kết thúc vòng xoắn đơn giản nhưng vẫn còn đáng kính của nó. Rất nhiều câu chuyện về các yếu tố của câu chuyện cho vay một cảm giác báo trước, mất phương hướng cho bộ phim, giống như những người nội trợ bí ẩn, những người chỉ đơn giản xuất hiện một ngày và dường như đang che giấu điều gì đó. Sau đó, những đứa trẻ bị dị ứng với ánh sáng mặt trời đòi hỏi phải có một trạng thái bóng tối gần như liên tục trong nhà của chúng, hay những ám chỉ thì thầm với những gì đã xảy ra vào ngày hôm đó khi Nicole Kidman, Grace được cho là phát điên. Và, tất nhiên, có một hoạt động huyền bí và những nhân vật kỳ lạ xuất hiện từ hư không.

    Một lượng lớn các cuộc chiến nhảy khiến mọi thứ thú vị (cảnh cô con gái nhỏ đang chơi với một con rối và đột nhiên quay lại với khuôn mặt của một người phụ nữ lớn tuổi là đáng nhớ, để nói rằng ít nhất) trong khi câu chuyện dành thời gian cho chúng ta Kết luận của nó. Đây là một trong những kết thúc xoắn tốt nhất mọi thời đại chỉ đơn giản là vì nó hoàn toàn xác định được, bản lề như một tiền đề cực kỳ đơn giản: chúng ta đã thấy vô số câu chuyện về cuộc sống bị ám ảnh bởi người chết, nhưng những gì xảy ra khi Chúng tôi xem xét những điều từ quan điểm của ma?

    Released1961 1961

    Đạo diễn Byjack Clayton Jack Clayton

    68

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Lauren Lavin

    Bộ phim kinh dị Gothic người Mỹ gốc Tây Ban Nha The khác là một tác phẩm kinh điển ngay lập tức khi phát hành. Nó cân bằng phong cách và câu chuyện cũng như thể loại tốt nhất của nó, sử dụng sự hồi hộp và một bản dựng chậm để đưa khán giả vào kết thúc vòng xoắn đơn giản nhưng vẫn còn đáng kính của nó. Rất nhiều câu chuyện về các yếu tố của câu chuyện cho vay một cảm giác báo trước, mất phương hướng cho bộ phim, giống như những người nội trợ bí ẩn, những người chỉ đơn giản xuất hiện một ngày và dường như đang che giấu điều gì đó. Sau đó, những đứa trẻ bị dị ứng với ánh sáng mặt trời đòi hỏi phải có một trạng thái bóng tối gần như liên tục trong nhà của chúng, hay những ám chỉ thì thầm với những gì đã xảy ra vào ngày hôm đó khi Nicole Kidman, Grace được cho là phát điên. Và, tất nhiên, có một hoạt động huyền bí và những nhân vật kỳ lạ xuất hiện từ hư không.

    Một lượng lớn các cuộc chiến nhảy khiến mọi thứ thú vị (cảnh cô con gái nhỏ đang chơi với một con rối và đột nhiên quay lại với khuôn mặt của một người phụ nữ lớn tuổi là đáng nhớ, để nói rằng ít nhất) trong khi câu chuyện dành thời gian cho chúng ta Kết luận của nó. Đây là một trong những kết thúc xoắn tốt nhất mọi thời đại chỉ đơn giản là vì nó hoàn toàn xác định được, bản lề như một tiền đề cực kỳ đơn giản: chúng ta đã thấy vô số câu chuyện về cuộc sống bị ám ảnh bởi người chết, nhưng những gì xảy ra khi Chúng tôi xem xét những điều từ quan điểm của ma?

    Released2012 2012

    Đạo diễn Byjack Clayton Ben Wheatley

    67

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Một bộ phim kinh dị thực sự tiên phong, Clayton, The Innocents là một ví dụ về sự sắp xếp của chuyên gia, với toàn bộ sự bất ổn nào đó bằng cách nào đó quản lý nhiều hơn so với tổng số các phần đã ấn tượng của nó. Dựa trên một câu chuyện của chủ nghĩa hiện đại văn học Henry James, với một kịch bản được viết một phần bởi một bậc thầy văn học khác, capote truman, và với nhiều nỗi sợ hãi và tuyệt vọng được đưa ra trong một màn trình diễn hàng đầu của Deborah Kerr, những người vô tội vẫn là một điều kỳ diệu hôm nay. Một sự pha trộn của kinh dị tâm lý và siêu nhiên với một liều nặng của miền nam Gothic, bộ phim này là phong cách đơn lẻ cũng như lạnh.

    Tất nhiên, nếu có những đứa trẻ trong một câu chuyện về nhà ma ám Gothic, thì đó là một điều mà chúng sẽ trở nên đáng sợ, và những đứa trẻ bí mật, cười khúc khích do Martin Stephens và Pamela Franklin chơi cũng không ngoại lệ. Đạo diễn Jack Clayton, giống như các đạo diễn kinh dị khác, những người đã làm việc với các diễn viên nhí, đã che giấu một số câu chuyện đáng lo ngại hơn, các yếu tố tình dục từ các ngôi sao trẻ của anh ấy, điều này làm cho những màn trình diễn ngây thơ nghiêm túc của họ là hệ thực vật và dặm nhiều hơn. Giữa sự xuất hiện song song của họ với những con ma Sinister of the House và các chủ đề âm nhạc giống nhau của bộ phim trong bản nhạc, chưa kể đến việc sử dụng bóng tối và ánh nến nhấp nháy, những người vô tội cuối cùng là một thử nghiệm cực kỳ thành công trong kỹ thuật khí quyển, được giúp đỡ bởi Một câu chuyện vừa hấp dẫn vừa phản cảm.

    Released1981 1981

    Chỉ đạo Byben Wheatley David Cronenberg

    66

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Lauren Lavin

    Bộ phim kinh dị Gothic người Mỹ gốc Tây Ban Nha The khác là một tác phẩm kinh điển ngay lập tức khi phát hành. Nó cân bằng phong cách và câu chuyện cũng như thể loại tốt nhất của nó, sử dụng sự hồi hộp và một bản dựng chậm để đưa khán giả vào kết thúc vòng xoắn đơn giản nhưng vẫn còn đáng kính của nó. Rất nhiều câu chuyện về các yếu tố của câu chuyện cho vay một cảm giác báo trước, mất phương hướng cho bộ phim, giống như những người nội trợ bí ẩn, những người chỉ đơn giản xuất hiện một ngày và dường như đang che giấu điều gì đó. Sau đó, những đứa trẻ bị dị ứng với ánh sáng mặt trời đòi hỏi phải có một trạng thái bóng tối gần như liên tục trong nhà của chúng, hay những ám chỉ thì thầm với những gì đã xảy ra vào ngày hôm đó khi Nicole Kidman, Grace được cho là phát điên. Và, tất nhiên, có một hoạt động huyền bí và những nhân vật kỳ lạ xuất hiện từ hư không.

    Một lượng lớn các cuộc chiến nhảy khiến mọi thứ thú vị (cảnh cô con gái nhỏ đang chơi với một con rối và đột nhiên quay lại với khuôn mặt của một người phụ nữ lớn tuổi là đáng nhớ, để nói rằng ít nhất) trong khi câu chuyện dành thời gian cho chúng ta Kết luận của nó. Đây là một trong những kết thúc xoắn tốt nhất mọi thời đại chỉ đơn giản là vì nó hoàn toàn xác định được, bản lề như một tiền đề cực kỳ đơn giản: chúng ta đã thấy vô số câu chuyện về cuộc sống bị ám ảnh bởi người chết, nhưng những gì xảy ra khi Chúng tôi xem xét những điều từ quan điểm của ma?

    Released2013 2013

    Đạo diễn Byjim Mickle Jim Mickle

    65

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Khi mẹ của Iris và Rose, chết, họ sẽ nhận được nhiệm vụ của cô ấy. Bạn càng ít biết rằng Jim Mickle, chúng ta là những gì chúng ta, một cơn ác mộng rùng rợn và gothic về trải nghiệm giống như giáo phái của một gia đình, trong nhiều thế hệ, đã phải làm những điều khủng khiếp nhân danh truyền thống.

    Chúng tôi là những gì chúng tôi là những màn trình diễn ấn tượng và sắc thái của các diễn viên, những người bị buộc phải làm những việc mà các bộ phim kinh dị khác sẽ khai thác cho giá trị sốc. Tuy nhiên, ở đây họ cảm thấy có động lực, hoàn toàn đáng tin, bất kể sự cực đoan của họ. Chủ nghĩa hiện thực đó làm cho các hành vi tự mình trở nên đáng sợ hơn, bởi vì có lẽ điều này có thể xảy ra.

    Có lẽ nó xảy ra ngay bây giờ. Cho ai đó trong khu phố của bạn. Cho một người mà bạn biết.

    Released1986 1986

    Đạo diễn Byjohn McNaughton John McNaughton

    64

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Lauren Lavin

    Phần lớn sự nổi tiếng của Henry, trong số các bộ phim kinh dị xuất phát từ cuộc tranh cãi xung quanh sự kiểm duyệt và phân phối của nó: mặc dù được quay năm 1985, nhưng nó chỉ được phát hành hạn chế vào năm 1990 trong một phiên bản chưa được đánh giá. Điều này phần lớn là do sự tấn công của các vụ giết người đồ họa tạo nên hầu hết các cốt truyện. Tuy nhiên, có rất nhiều thứ để ăn mừng về bộ phim sùng bái lâu dài này, được quay trong vòng chưa đầy một tháng với giá 110.000 đô la. Màn trình diễn đột phá của Michael Rooker, với tư cách là kẻ giết người hàng loạt, Henry đã mang lại cho anh ta rất nhiều sự hoan nghênh từ các nhà phê bình, và đã được ca ngợi vì chủ nghĩa hiện thực nghiệt ngã của nó (đặc biệt là khi so sánh với những nhân vật phản diện siêu nhiên, tuyệt vời hơn của hầu hết các bộ phim slasher). Những người dài, không bị gián đoạn và tổng thể của hầu hết các cảnh chỉ làm cho các vụ giết người tàn bạo gây sốc hơn. Cụ thể, bộ phim gần như hoàn toàn thiếu sự hiện diện của cảnh sát củng cố sự dễ dàng mà Henry có thể tiếp tục thoát khỏi vụ giết người, và mang đến cho người xem cảm giác khủng khiếp rằng không ai đến để cứu ngày.

    Sự hợp tác giữa Henry và đồng bào của anh ta, dường như không đáng kể, Otis giết người giết người của mọi người đã đến một kết thúc có thể dự đoán được, với thái độ cáu kỉnh của Henry đối với Otis quá háo hức về những gì sắp tới, nhưng người cố vấn/sinh viên của họ cũng giúp Phim đứng ngoài các dấu gạch chéo khác. Với nguồn gốc của nó trong một câu chuyện ngoài đời thực và kết thúc độc đáo của nó cho nhân vật tiêu đề, Henry: Chân dung của một kẻ giết người hàng loạt vẫn là một phần tinh túy của kinh dị kinh dị.

    Released1979 1979

    Đạo diễn Bywerner Herzog Werner Herzog

    63

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Lauren Lavin

    Phần lớn sự nổi tiếng của Henry, trong số các bộ phim kinh dị xuất phát từ cuộc tranh cãi xung quanh sự kiểm duyệt và phân phối của nó: mặc dù được quay năm 1985, nhưng nó chỉ được phát hành hạn chế vào năm 1990 trong một phiên bản chưa được đánh giá. Điều này phần lớn là do sự tấn công của các vụ giết người đồ họa tạo nên hầu hết các cốt truyện. Tuy nhiên, có rất nhiều thứ để ăn mừng về bộ phim sùng bái lâu dài này, được quay trong vòng chưa đầy một tháng với giá 110.000 đô la. Màn trình diễn đột phá của Michael Rooker, với tư cách là kẻ giết người hàng loạt, Henry đã mang lại cho anh ta rất nhiều sự hoan nghênh từ các nhà phê bình, và đã được ca ngợi vì chủ nghĩa hiện thực nghiệt ngã của nó (đặc biệt là khi so sánh với những nhân vật phản diện siêu nhiên, tuyệt vời hơn của hầu hết các bộ phim slasher). Những người dài, không bị gián đoạn và tổng thể của hầu hết các cảnh chỉ làm cho các vụ giết người tàn bạo gây sốc hơn. Cụ thể, bộ phim gần như hoàn toàn thiếu sự hiện diện của cảnh sát củng cố sự dễ dàng mà Henry có thể tiếp tục thoát khỏi vụ giết người, và mang đến cho người xem cảm giác khủng khiếp rằng không ai đến để cứu ngày.

    Sự hợp tác giữa Henry và đồng bào của anh ta, dường như không đáng kể, Otis giết người giết người của mọi người đã đến một kết thúc có thể dự đoán được, với thái độ cáu kỉnh của Henry đối với Otis quá háo hức về những gì sắp tới, nhưng người cố vấn/sinh viên của họ cũng giúp Phim đứng ngoài các dấu gạch chéo khác. Với nguồn gốc của nó trong một câu chuyện ngoài đời thực và kết thúc độc đáo của nó cho nhân vật tiêu đề, Henry: Chân dung của một kẻ giết người hàng loạt vẫn là một phần tinh túy của kinh dị kinh dị.

    Released1985 1985

    Đạo diễn Bywerner Herzog Stuart Gordon

    62

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Lauren Lavin

    Phần lớn sự nổi tiếng của Henry, trong số các bộ phim kinh dị xuất phát từ cuộc tranh cãi xung quanh sự kiểm duyệt và phân phối của nó: mặc dù được quay năm 1985, nhưng nó chỉ được phát hành hạn chế vào năm 1990 trong một phiên bản chưa được đánh giá. Điều này phần lớn là do sự tấn công của các vụ giết người đồ họa tạo nên hầu hết các cốt truyện. Tuy nhiên, có rất nhiều thứ để ăn mừng về bộ phim sùng bái lâu dài này, được quay trong vòng chưa đầy một tháng với giá 110.000 đô la. Màn trình diễn đột phá của Michael Rooker, với tư cách là kẻ giết người hàng loạt, Henry đã mang lại cho anh ta rất nhiều sự hoan nghênh từ các nhà phê bình, và đã được ca ngợi vì chủ nghĩa hiện thực nghiệt ngã của nó (đặc biệt là khi so sánh với những nhân vật phản diện siêu nhiên, tuyệt vời hơn của hầu hết các bộ phim slasher). Những người dài, không bị gián đoạn và tổng thể của hầu hết các cảnh chỉ làm cho các vụ giết người tàn bạo gây sốc hơn. Cụ thể, bộ phim gần như hoàn toàn thiếu sự hiện diện của cảnh sát củng cố sự dễ dàng mà Henry có thể tiếp tục thoát khỏi vụ giết người, và mang đến cho người xem cảm giác khủng khiếp rằng không ai đến để cứu ngày.

    Những câu chuyện cười mà Pepper Re-Animator chỉ làm nổi bật sự ghê tởm thô thiển của những cảnh mà con ruồi chết đầu tiên ở người sống, rên rỉ điên cuồng và chảy máu khắp người. Số lượng tuyệt đối và sự sáng tạo của Gore được trưng bày trong bộ phim này chỉ có thể được mô tả là vui vẻ. Những cái chết là sáng tạo (một cánh cửa kim loại rơi và một cái cưa xương xuất hiện trong tâm trí), trong khi tiền đề là trường học cũ, và thành tích của sự cân bằng này đã giúp tái định cư vẫn là một người hâm mộ kinh dị.

    Released1973 1973

    Chỉ đạo Bynicolas Roeg Nicolas Roeg

    61

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Cuộc hôn nhân của Donald Sutherland và Julie Christie, đã bị lung lay bởi cái chết bất ngờ của đứa con của họ, và một chuyến đi đến Venice có thể không phải là điều họ cần. Nhưng họ bắt gặp một cặp chị em tâm linh khẳng định đứa con đã chết của họ đang nói chuyện với họ, và khả năng bắt đầu vặn vẹo và biến tâm trí của họ.

    Bây giờ, don lồng trông giống như nhiều bộ phim kinh dị hay nhất, dày đặc với bầu không khí. Nhưng thực sự, các phòng chứa đầy đau buồn, một nỗi buồn hữu hình được bán bởi các diễn viên ở đỉnh cao của nghề thủ công của họ, điều này áp đảo họ rằng niềm tin vào siêu nhiên là có thể, nó trở thành một điều cần thiết. Và nơi nó dẫn đến sau đó là hoàn toàn bất ngờ, và hoàn toàn gây sốc.

    Released1963 1963

    Chỉ đạo Byalfred Hitchcock Alfred Hitchcock

    60

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Arnold T. Blumberg

    Bậc thầy của sự hồi hộp lao vào kinh dị và (được cho là) ​​khoa học viễn tưởng với câu chuyện khủng bố sinh thái chậm chạp này về dân số gia cầm quay lại với hàng xóm của họ. Sử dụng những gì vào thời điểm đó là các hiệu ứng tiên tiến, và tạo ra những nỗi sợ hãi ngột ngạt mà một ngày nào đó sẽ trở thành bánh mì và bơ của thể loại zombie, bộ phim mô tả sự sụp đổ của thế giới mà chúng ta biết với phong cách đặc biệt của Hitchcock. Bộ phim sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho nhiều câu chuyện thay đổi cân bằng khác về một thế giới đã phát điên, như M. Night Shyamalan, thật đáng cười.

    Released1976 1976

    Đạo diễn Bybrian de Palma Brian De Palma

    59

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Cuộc hôn nhân của Donald Sutherland và Julie Christie, đã bị lung lay bởi cái chết bất ngờ của đứa con của họ, và một chuyến đi đến Venice có thể không phải là điều họ cần. Nhưng họ bắt gặp một cặp chị em tâm linh khẳng định đứa con đã chết của họ đang nói chuyện với họ, và khả năng bắt đầu vặn vẹo và biến tâm trí của họ.

    Bây giờ, don lồng trông giống như nhiều bộ phim kinh dị hay nhất, dày đặc với bầu không khí. Nhưng thực sự, các phòng chứa đầy đau buồn, một nỗi buồn hữu hình được bán bởi các diễn viên ở đỉnh cao của nghề thủ công của họ, điều này áp đảo họ rằng niềm tin vào siêu nhiên là có thể, nó trở thành một điều cần thiết. Và nơi nó dẫn đến sau đó là hoàn toàn bất ngờ, và hoàn toàn gây sốc.

    Released1981 1981

    Chỉ đạo Byalfred Hitchcock Sam Raimi

    58

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Cuộc hôn nhân của Donald Sutherland và Julie Christie, đã bị lung lay bởi cái chết bất ngờ của đứa con của họ, và một chuyến đi đến Venice có thể không phải là điều họ cần. Nhưng họ bắt gặp một cặp chị em tâm linh khẳng định đứa con đã chết của họ đang nói chuyện với họ, và khả năng bắt đầu vặn vẹo và biến tâm trí của họ.

    Bây giờ, don lồng trông giống như nhiều bộ phim kinh dị hay nhất, dày đặc với bầu không khí. Nhưng thực sự, các phòng chứa đầy đau buồn, một nỗi buồn hữu hình được bán bởi các diễn viên ở đỉnh cao của nghề thủ công của họ, điều này áp đảo họ rằng niềm tin vào siêu nhiên là có thể, nó trở thành một điều cần thiết. Và nơi nó dẫn đến sau đó là hoàn toàn bất ngờ, và hoàn toàn gây sốc.

    Released1939 1939

    Chỉ đạo Byalfred Hitchcock Rowland V. Lee

    57

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Arnold T. Blumberg

    Bậc thầy của sự hồi hộp lao vào kinh dị và (được cho là) ​​khoa học viễn tưởng với câu chuyện khủng bố sinh thái chậm chạp này về dân số gia cầm quay lại với hàng xóm của họ. Sử dụng những gì vào thời điểm đó là các hiệu ứng tiên tiến, và tạo ra những nỗi sợ hãi ngột ngạt mà một ngày nào đó sẽ trở thành bánh mì và bơ của thể loại zombie, bộ phim mô tả sự sụp đổ của thế giới mà chúng ta biết với phong cách đặc biệt của Hitchcock. Bộ phim sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho nhiều câu chuyện thay đổi cân bằng khác về một thế giới đã phát điên, như M. Night Shyamalan, thật đáng cười.

    Bộ phim nghiêm túc hơn một chút so với người tiền nhiệm trực tiếp của nó, Bride, với đạo diễn Lee nỗ lực để tránh trại trong khi tăng cường bộ phim về cốt truyện với tất cả sự trả thù và chuộc tội của nó. Thiết bị phòng thí nghiệm của Kitschy và bóng tối ấn tượng làm cho lâu đài Frankenstein thêm ma quái, sân khấu hoàn hảo để Lugosi leo xung quanh phía sau quái vật cao chót vót của Karloff.

    Released1978 1978

    Đạo diễn Byphilip Kaufman Philip Kaufman

    56

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Philip Kaufman, phiên bản làm lại cuộc xâm lược của The Body Snatchers rất thông minh, mở rộng và đầy những hiệu ứng yếu đuối đến nỗi một số người có thể lập luận rằng nó thậm chí còn hay hơn bản gốc (cũng là một trong những bộ phim kinh dị hay nhất mọi thời đại).

    Nhưng bất kể sở thích của bạn là gì, thật khó để tranh luận rằng bản cập nhật của Kaufman, không phải là một phim kinh dị xấu xa. Donald Sutherland bắt đầu nghi ngờ rằng những người xung quanh anh ta đã được thay thế bằng các hình thức cuộc sống ngoài hành tinh, và khi anh ta phát hiện ra sự thật, anh ta cũng phát hiện ra rằng anh ta có thể đã quá muộn, và thế giới có thể đã bị chinh phục.

    Cuộc xâm lược của The Body Snatchers xây dựng đến một trận chung kết làm cho mọi lời hứa không thể tưởng tượng được, bộ phim gốc được thực hiện, từ hình ảnh lạnh lùng bất ngờ (con chó đó, rùng mình) đến một chuỗi không chắc chắn tuyệt đối lạnh lẽo. Bộ phim tuyệt vọng này là tàn nhẫn và không thể chối cãi.

    Released2014 2014

    Đạo diễn BYDAVID ROBERT MITCHELL David Robert Mitchell

    55

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Philip Kaufman, phiên bản làm lại cuộc xâm lược của The Body Snatchers rất thông minh, mở rộng và đầy những hiệu ứng yếu đuối đến nỗi một số người có thể lập luận rằng nó thậm chí còn hay hơn bản gốc (cũng là một trong những bộ phim kinh dị hay nhất mọi thời đại).

    Nhưng bất kể sở thích của bạn là gì, thật khó để tranh luận rằng bản cập nhật của Kaufman, không phải là một phim kinh dị xấu xa. Donald Sutherland bắt đầu nghi ngờ rằng những người xung quanh anh ta đã được thay thế bằng các hình thức cuộc sống ngoài hành tinh, và khi anh ta phát hiện ra sự thật, anh ta cũng phát hiện ra rằng anh ta có thể đã quá muộn, và thế giới có thể đã bị chinh phục.

    Cuộc xâm lược của The Body Snatchers xây dựng đến một trận chung kết làm cho mọi lời hứa không thể tưởng tượng được, bộ phim gốc được thực hiện, từ hình ảnh lạnh lùng bất ngờ (con chó đó, rùng mình) đến một chuỗi không chắc chắn tuyệt đối lạnh lẽo. Bộ phim tuyệt vọng này là tàn nhẫn và không thể chối cãi.

    Released1988 1988

    Đạo diễn BYDAVID ROBERT MITCHELL Tom Holland

    54

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Philip Kaufman, phiên bản làm lại cuộc xâm lược của The Body Snatchers rất thông minh, mở rộng và đầy những hiệu ứng yếu đuối đến nỗi một số người có thể lập luận rằng nó thậm chí còn hay hơn bản gốc (cũng là một trong những bộ phim kinh dị hay nhất mọi thời đại).

    Nhưng bất kể sở thích của bạn là gì, thật khó để tranh luận rằng bản cập nhật của Kaufman, không phải là một phim kinh dị xấu xa. Donald Sutherland bắt đầu nghi ngờ rằng những người xung quanh anh ta đã được thay thế bằng các hình thức cuộc sống ngoài hành tinh, và khi anh ta phát hiện ra sự thật, anh ta cũng phát hiện ra rằng anh ta có thể đã quá muộn, và thế giới có thể đã bị chinh phục.

    Cuộc xâm lược của The Body Snatchers xây dựng đến một trận chung kết làm cho mọi lời hứa không thể tưởng tượng được, bộ phim gốc được thực hiện, từ hình ảnh lạnh lùng bất ngờ (con chó đó, rùng mình) đến một chuỗi không chắc chắn tuyệt đối lạnh lẽo. Bộ phim tuyệt vọng này là tàn nhẫn và không thể chối cãi.

    Released1920 1920

    Đạo diễn BYDAVID ROBERT MITCHELL Robert Wiene

    53

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Philip Kaufman, phiên bản làm lại cuộc xâm lược của The Body Snatchers rất thông minh, mở rộng và đầy những hiệu ứng yếu đuối đến nỗi một số người có thể lập luận rằng nó thậm chí còn hay hơn bản gốc (cũng là một trong những bộ phim kinh dị hay nhất mọi thời đại).

    Nhưng bất kể sở thích của bạn là gì, thật khó để tranh luận rằng bản cập nhật của Kaufman, không phải là một phim kinh dị xấu xa. Donald Sutherland bắt đầu nghi ngờ rằng những người xung quanh anh ta đã được thay thế bằng các hình thức cuộc sống ngoài hành tinh, và khi anh ta phát hiện ra sự thật, anh ta cũng phát hiện ra rằng anh ta có thể đã quá muộn, và thế giới có thể đã bị chinh phục.

    Released2004 2004

    Cuộc xâm lược của The Body Snatchers xây dựng đến một trận chung kết làm cho mọi lời hứa không thể tưởng tượng được, bộ phim gốc được thực hiện, từ hình ảnh lạnh lùng bất ngờ (con chó đó, rùng mình) đến một chuỗi không chắc chắn tuyệt đối lạnh lẽo. Bộ phim tuyệt vọng này là tàn nhẫn và không thể chối cãi. Zack Snyder

    52

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Đạo diễn BYDAVID ROBERT MITCHELL

    Một con quỷ đang theo bạn, đi chậm về phía bạn, và nếu nó bắt bạn, bạn sẽ chết một số phận kinh hoàng. Cách duy nhất để loại bỏ nó là quan hệ tình dục, truyền lời nguyền cho đối tác của bạn.

    Released2007 2007

    Đạo diễn Byjaume Balagueró và Paco Plaza Jaume Balagueró and Paco Plaza

    51

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Arnold T. Blumberg

    Bộ phim này tiến triển theo ba cách khác biệt, song song: Thứ nhất, hành động tiếp tục tăng từ tầng trệt của một tòa nhà chung cư kín đến gác mái nhỏ bé của nó. Hai, các nhân vật thấy mình trong những không gian nhỏ hơn và ngột ngạt hơn. Ba, ánh sáng tiếp tục đi xuống cho đến khi mọi thứ không chỉ tối mà chỉ được thắp sáng bởi tầm nhìn ban đêm. Ồ, và tôi đã đề cập đến có những thây ma quỷ? Một kiệt tác hiện đại của cách kể chuyện kinh dị với một cấu trúc không ngừng đòi hỏi sự chú ý trong suốt, sản xuất Tây Ban Nha này cũng pha trộn tuyệt vời hai quan niệm về zombie thành một sinh vật có phần khoa học viễn tưởng và siêu nhiên. Xem cái này. Trong bóng tối. Một mình. Với tai nghe trên.

    Released2006 2006

    Đạo diễn Byneil Marshall Neil Marshall

    50

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    The Descent là một trong những bộ phim đáng sợ nhất từng được thực hiện, rất lâu trước khi quái vật xuất hiện. Bộ phim kinh dị của Neil Marshall, kể câu chuyện về sáu người phụ nữ mạo hiểm vào một hang động chưa được khám phá và bị mắc kẹt. Không có lối thoát, họ phải mạo hiểm ngày càng sâu sắc hơn, hy vọng cơ hội trên một lối thoát, và bóng tối vô cùng và chứng sợ ngột ngạt ngột ngạt là đủ để mang đến cho bất cứ ai một cuộc tấn công hoảng loạn.

    Nhưng tất nhiên, có nhiều hơn về người gốc. Có sự tuyệt vọng và sự phản bội và một lực lượng bên ngoài đẩy tất cả các spelunker này đến bờ vực. Và nhờ một dàn diễn viên đáng chú ý và một kịch bản đối xử với tất cả họ giống như những người thực sự, bất kể hoàn cảnh kỳ quái của họ, đó là một câu chuyện sống sót như bất kỳ câu chuyện nào.

    Released2009 2009

    Chỉ đạo Byoren Peli Oren Peli

    49

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    The Descent là một trong những bộ phim đáng sợ nhất từng được thực hiện, rất lâu trước khi quái vật xuất hiện. Bộ phim kinh dị của Neil Marshall, kể câu chuyện về sáu người phụ nữ mạo hiểm vào một hang động chưa được khám phá và bị mắc kẹt. Không có lối thoát, họ phải mạo hiểm ngày càng sâu sắc hơn, hy vọng cơ hội trên một lối thoát, và bóng tối vô cùng và chứng sợ ngột ngạt ngột ngạt là đủ để mang đến cho bất cứ ai một cuộc tấn công hoảng loạn.

    Nhưng tất nhiên, có nhiều hơn về người gốc. Có sự tuyệt vọng và sự phản bội và một lực lượng bên ngoài đẩy tất cả các spelunker này đến bờ vực. Và nhờ một dàn diễn viên đáng chú ý và một kịch bản đối xử với tất cả họ giống như những người thực sự, bất kể hoàn cảnh kỳ quái của họ, đó là một câu chuyện sống sót như bất kỳ câu chuyện nào.

    Chỉ đạo Byoren Peli

    Released1993 1993

    Hoạt động huyền bí, sự nhỏ bé làm cho mọi sự sợ hãi nhỏ có vẻ rất lớn. Đó là câu chuyện nhỏ thân mật của Katie và Micah, một cặp vợ chồng trẻ bị ám ảnh bởi một con quỷ đã theo Katie từ khi còn nhỏ và làm thế nào điều ác đó trở nên mạnh mẽ hơn khi Micah không coi trọng chấn thương của mình. Guillermo del Toro

    48

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    The Descent là một trong những bộ phim đáng sợ nhất từng được thực hiện, rất lâu trước khi quái vật xuất hiện. Bộ phim kinh dị của Neil Marshall, kể câu chuyện về sáu người phụ nữ mạo hiểm vào một hang động chưa được khám phá và bị mắc kẹt. Không có lối thoát, họ phải mạo hiểm ngày càng sâu sắc hơn, hy vọng cơ hội trên một lối thoát, và bóng tối vô cùng và chứng sợ ngột ngạt ngột ngạt là đủ để mang đến cho bất cứ ai một cuộc tấn công hoảng loạn.

    Nhưng tất nhiên, có nhiều hơn về người gốc. Có sự tuyệt vọng và sự phản bội và một lực lượng bên ngoài đẩy tất cả các spelunker này đến bờ vực. Và nhờ một dàn diễn viên đáng chú ý và một kịch bản đối xử với tất cả họ giống như những người thực sự, bất kể hoàn cảnh kỳ quái của họ, đó là một câu chuyện sống sót như bất kỳ câu chuyện nào.

    Chỉ đạo Byoren Peli

    Released1990 1990

    Hoạt động huyền bí, sự nhỏ bé làm cho mọi sự sợ hãi nhỏ có vẻ rất lớn. Đó là câu chuyện nhỏ thân mật của Katie và Micah, một cặp vợ chồng trẻ bị ám ảnh bởi một con quỷ đã theo Katie từ khi còn nhỏ và làm thế nào điều ác đó trở nên mạnh mẽ hơn khi Micah không coi trọng chấn thương của mình. Rob Reiner

    47

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    The Descent là một trong những bộ phim đáng sợ nhất từng được thực hiện, rất lâu trước khi quái vật xuất hiện. Bộ phim kinh dị của Neil Marshall, kể câu chuyện về sáu người phụ nữ mạo hiểm vào một hang động chưa được khám phá và bị mắc kẹt. Không có lối thoát, họ phải mạo hiểm ngày càng sâu sắc hơn, hy vọng cơ hội trên một lối thoát, và bóng tối vô cùng và chứng sợ ngột ngạt ngột ngạt là đủ để mang đến cho bất cứ ai một cuộc tấn công hoảng loạn.

    Nhưng tất nhiên, có nhiều hơn về người gốc. Có sự tuyệt vọng và sự phản bội và một lực lượng bên ngoài đẩy tất cả các spelunker này đến bờ vực. Và nhờ một dàn diễn viên đáng chú ý và một kịch bản đối xử với tất cả họ giống như những người thực sự, bất kể hoàn cảnh kỳ quái của họ, đó là một câu chuyện sống sót như bất kỳ câu chuyện nào.

    Released1983 1983

    Chỉ đạo Byoren Peli David Cronenberg

    46

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Hoạt động huyền bí, sự nhỏ bé làm cho mọi sự sợ hãi nhỏ có vẻ rất lớn. Đó là câu chuyện nhỏ thân mật của Katie và Micah, một cặp vợ chồng trẻ bị ám ảnh bởi một con quỷ đã theo Katie từ khi còn nhỏ và làm thế nào điều ác đó trở nên mạnh mẽ hơn khi Micah không coi trọng chấn thương của mình.

    Câu chuyện đơn giản và đáng tin cậy đó về một mối quan hệ được hoàn tác bởi sự nhẫn tâm đơn giản được minh họa với nỗi kinh hoàng tinh tế đến nỗi nó thực tế là ẩn ý. Hình ảnh kéo dài làm cho khán giả vặn vẹo, chờ đợi điều không thể xảy ra, và những thay đổi nhỏ trong hành vi có ý nghĩa đáng ngại khi bạn biết rằng cái ác chân chính đang diễn ra.

    Có rất nhiều yếu tố khác mà chỉ kết hợp với nhau để biến đây thành một bộ phim tuyệt vời. Giống như chuỗi hồi tưởng trên vọng lâu. Hoặc câu hỏi mà bộ phim đặt ra cho người xem về việc giết Hitler khi còn nhỏ. Và, tất nhiên, câu chuyện tình yêu ở trung tâm của tất cả. Buồn và lạnh.

    Released1998 1998

    Chỉ đạo Byideeo Nakata Hideo Nakata

    45

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Khán giả Mỹ quen thuộc hơn với bản làm lại, Gore Verbinski, The Ring, nhưng phiên bản Hideo Nakata, có một sự quyến rũ quang phổ của riêng mình. Một phóng viên phát hiện ra một băng video với hình ảnh gây sốc và một lời nguyền lên nó, làm cho người xem chết một tuần sau khi xem nó. Để cứu mạng cô ấy, và cuối cùng là cuộc sống của đứa con, cô ấy phải khám phá nguồn gốc của nhiếp ảnh tinh thần và - hy vọng - đặt một tinh thần báo thù để nghỉ ngơi.

    Hình ảnh kỳ quái mà chúng ta liên kết với chiếc nhẫn xuất hiện bất ngờ hơn từ Ringu, nơi quản lý để gợi lên một bầu không khí rùng rợn mà không liên tục kêu gọi sự chú ý đến chính nó. Đó là một bí ẩn xảy ra thật kinh khủng, một câu chuyện về lạm dụng và giết người xuất hiện theo những cách bất ngờ, kiếm được những khoảnh khắc gây sốc hơn hầu hết các bộ phim thuộc loại này.

    Released2007 2007

    Chỉ đạo BYJ. A. Bayona J. A. Bayona

    44

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Lauren Lavin

    Bộ phim này là một tác phẩm kinh điển gần như ngay lập tức khi được phát hành, được hỗ trợ bởi Fanboy kinh dị và Auteur Guillermo del Toro, người từng là nhà sản xuất điều hành. Nó tránh những nỗi sợ giá rẻ với những cái gật đầu với Gothic, ngay cả khi không gửi đầy đủ cho vùng nhiệt đới của nó. Câu chuyện khiến bạn đoán, khi Aurelia làm sáng tỏ lịch sử bi thảm của ngôi nhà của cô ấy (từng là trại trẻ mồ côi nơi cô ấy sống như một cô gái) trong khi tìm kiếm con trai nuôi của cô ấy Simón, và những mô típ của bệnh thời thơ ấu, sự biến dạng và cái chết cho bộ phim một chút Nhiều sức mạnh hơn so với câu chuyện nhà ma ám trung bình của bạn. Thêm vào đó, trò chơi ẩn nấp sáng tạo, được dạy cho Simón bởi những đứa trẻ ma mồ côi đáng sợ (rùng mình), mang đến cho người xem một số lượng phù hợp của tôi. Tôi biết những gì sắp xảy ra nhưng tôi vẫn có thể nhìn xa sự sợ hãi.

    Những khoảnh khắc sốc và bạo lực dự phòng, được triển khai cẩn thận giúp giữ cho bộ phim thú vị về mặt văn bản, và sự thay đổi về nơi ở của Simón, vừa thỏa mãn và tàn bạo.

    Released2001 2001

    Đạo diễn Bytakashi Miike Takashi Miike

    43

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Khán giả Mỹ quen thuộc hơn với bản làm lại, Gore Verbinski, The Ring, nhưng phiên bản Hideo Nakata, có một sự quyến rũ quang phổ của riêng mình. Một phóng viên phát hiện ra một băng video với hình ảnh gây sốc và một lời nguyền lên nó, làm cho người xem chết một tuần sau khi xem nó. Để cứu mạng cô ấy, và cuối cùng là cuộc sống của đứa con, cô ấy phải khám phá nguồn gốc của nhiếp ảnh tinh thần và - hy vọng - đặt một tinh thần báo thù để nghỉ ngơi.

    Hình ảnh kỳ quái mà chúng ta liên kết với chiếc nhẫn xuất hiện bất ngờ hơn từ Ringu, nơi quản lý để gợi lên một bầu không khí rùng rợn mà không liên tục kêu gọi sự chú ý đến chính nó. Đó là một bí ẩn xảy ra thật kinh khủng, một câu chuyện về lạm dụng và giết người xuất hiện theo những cách bất ngờ, kiếm được những khoảnh khắc gây sốc hơn hầu hết các bộ phim thuộc loại này.

    Released1976 1976

    Chỉ đạo BYJ. A. Bayona Richard Donner

    42

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Khán giả Mỹ quen thuộc hơn với bản làm lại, Gore Verbinski, The Ring, nhưng phiên bản Hideo Nakata, có một sự quyến rũ quang phổ của riêng mình. Một phóng viên phát hiện ra một băng video với hình ảnh gây sốc và một lời nguyền lên nó, làm cho người xem chết một tuần sau khi xem nó. Để cứu mạng cô ấy, và cuối cùng là cuộc sống của đứa con, cô ấy phải khám phá nguồn gốc của nhiếp ảnh tinh thần và - hy vọng - đặt một tinh thần báo thù để nghỉ ngơi.

    Hình ảnh kỳ quái mà chúng ta liên kết với chiếc nhẫn xuất hiện bất ngờ hơn từ Ringu, nơi quản lý để gợi lên một bầu không khí rùng rợn mà không liên tục kêu gọi sự chú ý đến chính nó. Đó là một bí ẩn xảy ra thật kinh khủng, một câu chuyện về lạm dụng và giết người xuất hiện theo những cách bất ngờ, kiếm được những khoảnh khắc gây sốc hơn hầu hết các bộ phim thuộc loại này.

    Chỉ đạo BYJ. A. Bayona

    Released1983 1983

    Lauren Lavin David Cronenberg

    41

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Khán giả Mỹ quen thuộc hơn với bản làm lại, Gore Verbinski, The Ring, nhưng phiên bản Hideo Nakata, có một sự quyến rũ quang phổ của riêng mình. Một phóng viên phát hiện ra một băng video với hình ảnh gây sốc và một lời nguyền lên nó, làm cho người xem chết một tuần sau khi xem nó. Để cứu mạng cô ấy, và cuối cùng là cuộc sống của đứa con, cô ấy phải khám phá nguồn gốc của nhiếp ảnh tinh thần và - hy vọng - đặt một tinh thần báo thù để nghỉ ngơi.

    Hình ảnh kỳ quái mà chúng ta liên kết với chiếc nhẫn xuất hiện bất ngờ hơn từ Ringu, nơi quản lý để gợi lên một bầu không khí rùng rợn mà không liên tục kêu gọi sự chú ý đến chính nó. Đó là một bí ẩn xảy ra thật kinh khủng, một câu chuyện về lạm dụng và giết người xuất hiện theo những cách bất ngờ, kiếm được những khoảnh khắc gây sốc hơn hầu hết các bộ phim thuộc loại này.

    Released1945 1945

    Đạo diễn Byalberto Cavalcanti, Charles Crichton, Basil Dearden và Robert Hamer Alberto Cavalcanti, Charles Crichton, Basil Dearden and Robert Hamer

    40

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Có rất nhiều tuyển tập kinh dị trên thế giới (những bộ phim phục vụ như một cơ chế phân phối cho nhiều bộ phim ngắn hơn, đáng sợ). Rất ít người tốt, hoặc có ảnh hưởng, như đã chết của đêm.

    Việc thiết lập rất đơn giản: một người đàn ông đến một ngôi nhà nước và tin rằng anh ta đã nhìn thấy mọi người ở đó trước đây, trong một giấc mơ. Vì vậy, họ cố gắng làm dịu thần kinh rầm rộ của anh ta bằng cách kể cho họ những câu chuyện ma quái đã truyền cảm hứng cho tất cả họ tin vào siêu nhiên. Một số người trong số họ là ngớ ngẩn, nhưng hầu hết đều chân thành và thanh tao, và phân khúc có sự tham gia của Michael Redgrave trong vai một người nói tiếng bụng tin rằng búp bê của anh ta là có thật - một trope sẽ trở nên phổ biến hơn sau này - có một trong những diễn viên huyền thoại hay nhất.

    Tuy nhiên, kết luận của Dead of Night (mà tôi không thể hủy hoại ở đây) có thể là thành tích của bộ phim, mang đến mọi câu chuyện khác nhau xảy ra trong một tầm nhìn kinh dị.

    Released2006 2006

    Đạo diễn By Guillermo del Toro Guillermo del Toro

    39

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Có rất nhiều tuyển tập kinh dị trên thế giới (những bộ phim phục vụ như một cơ chế phân phối cho nhiều bộ phim ngắn hơn, đáng sợ). Rất ít người tốt, hoặc có ảnh hưởng, như đã chết của đêm.

    Việc thiết lập rất đơn giản: một người đàn ông đến một ngôi nhà nước và tin rằng anh ta đã nhìn thấy mọi người ở đó trước đây, trong một giấc mơ. Vì vậy, họ cố gắng làm dịu thần kinh rầm rộ của anh ta bằng cách kể cho họ những câu chuyện ma quái đã truyền cảm hứng cho tất cả họ tin vào siêu nhiên. Một số người trong số họ là ngớ ngẩn, nhưng hầu hết đều chân thành và thanh tao, và phân khúc có sự tham gia của Michael Redgrave trong vai một người nói tiếng bụng tin rằng búp bê của anh ta là có thật - một trope sẽ trở nên phổ biến hơn sau này - có một trong những diễn viên huyền thoại hay nhất.

    Tuy nhiên, kết luận của Dead of Night (mà tôi không thể hủy hoại ở đây) có thể là thành tích của bộ phim, mang đến mọi câu chuyện khác nhau xảy ra trong một tầm nhìn kinh dị.

    Released2010 2010

    Đạo diễn By Guillermo del Toro Matt Reeves

    38

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Guillermo del Toro được coi là một nhà làm phim kinh dị, và điều đó có ý nghĩa. Anh ấy đã làm rất nhiều bộ phim kinh dị. Nhưng một bộ phim như Pan Lab Labyrinth đưa ra một viễn cảnh khác, dường như tiết lộ rằng anh ấy dệt những câu chuyện cổ tích trước hết, và họ chỉ tình cờ trở nên kinh hoàng.

    Một cô gái trẻ tên Ofelia chuyển đến cùng với cha dượng mới của mình, một kẻ phát xít lạm dụng có sự dằn vặt khiến cô trốn thoát đến những cõi giả tưởng, điều này thậm chí còn kinh khủng hơn cả thực tế mới của cô. Cô gặp những con cóc khổng lồ, những con quái vật vô danh bảo vệ bàn thức ăn phong phú, và một faun Eldritch, người cung cấp cho cô sự bất tử, nhưng với giá nào?

    Demonic Slant Guillermo del Toro mang đến cho những người khao khát thời thơ ấu như một câu chuyện cổ tích của Grimm, và anh em Grimm đã bị vênh váo để bắt đầu. Điều đó mang lại cho Pan Labyrinth một chất lượng vượt thời gian, phổ biến vượt ra ngoài khái niệm về một thể loại và vào các phần nguyên thủy của tâm trí con người.

    Released2001 2001

    Đạo diễn By Guillermo del Toro Guillermo del Toro

    37

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Guillermo del Toro được coi là một nhà làm phim kinh dị, và điều đó có ý nghĩa. Anh ấy đã làm rất nhiều bộ phim kinh dị. Nhưng một bộ phim như Pan Lab Labyrinth đưa ra một viễn cảnh khác, dường như tiết lộ rằng anh ấy dệt những câu chuyện cổ tích trước hết, và họ chỉ tình cờ trở nên kinh hoàng.

    Một cô gái trẻ tên Ofelia chuyển đến cùng với cha dượng mới của mình, một kẻ phát xít lạm dụng có sự dằn vặt khiến cô trốn thoát đến những cõi giả tưởng, điều này thậm chí còn kinh khủng hơn cả thực tế mới của cô. Cô gặp những con cóc khổng lồ, những con quái vật vô danh bảo vệ bàn thức ăn phong phú, và một faun Eldritch, người cung cấp cho cô sự bất tử, nhưng với giá nào?

    Released1931 1931

    Demonic Slant Guillermo del Toro mang đến cho những người khao khát thời thơ ấu như một câu chuyện cổ tích của Grimm, và anh em Grimm đã bị vênh váo để bắt đầu. Điều đó mang lại cho Pan Labyrinth một chất lượng vượt thời gian, phổ biến vượt ra ngoài khái niệm về một thể loại và vào các phần nguyên thủy của tâm trí con người. James Whale

    36

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Chỉ đạo Bymatt Reeves

    Arnold T. Blumberg

    Released1955 1955

    Mặc dù có một số người vẫn khăng khăng rằng bộ phim Thụy Điển năm 2008 gốc-bản thân nó là bản chuyển thể của cuốn tiểu thuyết của John Ajvide Lindqvist-là vượt trội, bản làm lại của Mỹ-Anh trong khí Cảm xúc và kinh dị đen tối của bản gốc trong khi thêm những điểm nhấn đặc biệt của riêng mình vào một trong những câu chuyện tình yêu không rõ ràng nhất trong điện ảnh. Charles Laughton

    35

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Sự u sầu lấp đầy mọi khung hình khi chúng tôi đi theo con đường kỳ lạ mà Owen thường xuyên và người bảo vệ mới của anh ấy đi sau khi gặp nhau trong tuyết, ngay cả khi bộ phim thích nghi với thần thoại ma cà rồng cổ điển với một khung cảnh hiện đại hơn.

    Đêm của The Hunter diễn ra như một cuốn sách ảnh quỷ, đầy những hình ảnh lớn và những ý tưởng phóng đại. Nó đã nói từ quan điểm của những đứa trẻ đang sống hết nỗi sợ hãi lớn nhất của chúng, những người không thể tưởng tượng được thức dậy, nhưng dù sao cũng chiến đấu. Và mặc dù sự quý phái của tinh thần trẻ con được tôn vinh, nhưng người ta có thể giúp đỡ nhưng bỏ vào túi của bạn là thế giới thực sự lớn và đáng sợ như họ nói. Harry Powell là một trong những nhân vật phản diện vĩ đại nhất của rạp chiếu phim, một kẻ đạo đức giả đáng khinh với những lời nói mượt mà và bàn tay đẫm máu. Bộ phim khiến anh ta bị cầm tù là đáng sợ khi ghé thăm. Và một trong những bộ phim kinh dị hay nhất từ ​​trước đến nay.

    Released2014 2014

    Đạo diễn Byjennifer Kent Jennifer Kent

    34

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Tính năng đầu tay của Jennifer Kent là một bộ phim kinh dị thanh lịch, dày đặc về mặt tâm lý, tham gia vào các truyền thống khác nhau mà không bao giờ cảm thấy một chút phái sinh nhỏ nhất. Đó là một tác phẩm kinh điển ngay lập tức.

    Giống như tất cả kinh dị tâm lý lớn, nó bắt đầu với một bi kịch. Chồng của Amelia đã chết khi lái xe đến bệnh viện để sinh Sam, đứa con duy nhất của họ. Kể từ ngày đó, Amelia đã nuôi dạy Sam một mình và không bao giờ tổ chức sinh nhật. Bộ phim dành thời gian để thiết lập tình huống trong nước phức tạp này và mối quan hệ rạn nứt giữa mẹ và con. Thậm chí bảy năm sau, rõ ràng là Amelia đã không đau buồn thành công và tiếp tục cuộc sống của mình. Nhưng điều đáng lo ngại hơn là mối quan hệ của cô với Sam. Trong khi cô ấy đưa anh ấy đến trường, đọc cho anh ấy những câu chuyện trước khi đi ngủ và nấu cho anh ấy những bữa tối bổ dưỡng, cô ấy bí mật không thể chịu đựng được anh ấy. Cô kéo đi, khi cô nên kéo anh lại gần. Và đó là ngôi nhà rắc rối này mà Babadook giun theo cách của mình.

    Những gì tiếp theo không phải là một bộ phim quái vật cũng không phải là một bộ phim slasher; Mọi thứ không thường xuyên nhảy ra khỏi bóng tối. Mối đe dọa ít hữu hình hơn nhiều - đó là tham vọng, có sức lan tỏa và trong phân tích cuối cùng, đáng sợ hơn nhiều. Mọi thứ đi vào tâm trí. Đây là một bộ phim kinh dị thanh lịch, xuất sắc, với chiều sâu tâm lý thực sự. Đó cũng là một lễ kỷ niệm của một trường kinh dị đã không hoạt động quá lâu. Đây là kinh dị tâm lý hiện đại tại phong phú nhất, rùng rợn và di chuyển.

    Released2016 2016

    Đạo diễn Byyeon Sang-ho Yeon Sang-ho

    33

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Arnold T. Blumberg

    Dạy cho máy làm phim Mỹ một hoặc hai điều về cách tạo ra một tác phẩm hành động bom tấn với trái tim, chứa đầy các nhân vật lôi cuốn và hấp dẫn, sự căng thẳng cắn móng tay, và các tác phẩm tuyệt đẹp, chuyến đi zombie khải huyền này đã tái tạo lại thể loại với người cha trung tâm của nó -Câu chuyện về con gái và sáng tạo đảm nhận các quy tắc zombie quen thuộc của Now. Thiết lập hầu hết các hành động trên chiếc xe chính thống tạo ra một chuyến đi có chứa chặt chẽ và giống như tàu lượn siêu tốc của một câu chuyện mở ra trong hơn hai giờ với rất ít cơ hội để bạn hít thở.

    Released2008 2008

    Đạo diễn bằng cách sử dụng Laugier Pascal Laugier

    32

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Marty Sliva

    Rất ít bộ phim kinh dị gợi ra là một phản ứng vật lý cực đoan giống như các vị tử đạo 2008. Bộ phim tiếng Pháp có ngân sách thấp này là thông minh, ảm đạm và hoàn toàn không thể nào quên đối với những người sẵn sàng làm cho hình ảnh tàn bạo của nó. Được chia thành hai phần riêng biệt, nửa đầu là một phim kinh dị Poltergeist ngoại ô đi sâu vào tiềm thức và chấn thương trong quá khứ của nữ anh hùng của chúng ta. Cách cô ấy rình rập quanh nhà là hoàn toàn lạnh lùng. Nhưng các vị tử đạo thực hiện, bộ phim biến thành một lễ hội tôn giáo kỳ quái, tạo ra mối liên hệ giữa Khai sáng tâm linh và sự tra tấn hoàn toàn tàn bạo và cảm xúc tàn bạo. Nó khó khăn để giữ cho đôi mắt của bạn đặt vào những hình ảnh kinh hoàng mở ra trên màn hình, nhưng đối với những người sẵn sàng đi sâu vào các chủ đề bá đạo của nó, nó thậm chí còn khó nhìn đi chỗ khác.

    Released1965 1965

    Chỉ đạo Byroman Polanski Roman Polanski

    31

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Carol là một bức tranh hoa tường trong Roman Polanski, một cô gái lặng lẽ, dường như bị đẩy lùi (nếu bạn muốn) bởi bất kỳ ai khác ngoài em gái của cô. Vì vậy, khi chị gái rời đi trong kỳ nghỉ, và Carol bị bỏ lại một mình, cô rút lui. Và rút lui hơn nữa. Và hơn nữa, cho đến khi căn hộ của cô là tâm trí của riêng cô, đầy những lo lắng và chấn thương và nắm chặt tay.

    Rất ít bộ phim ghi lại sự điên rồ một cách sống động như lực đẩy. Catherine Deneuve là một người biểu diễn thông cảm vốn có, vì vậy cho dù sự hướng nội của cô ấy trở nên cực đoan đến đâu, chúng tôi không bao giờ mất kết nối với hoàn cảnh của cô ấy. Cách thế giới của cô dần dần phù hợp với những nhận thức ám ảnh của cô cảm thấy tự nhiên một cách đáng lo ngại, như thể bộ phim đang nuôi dưỡng kinh dị tâm lý trong nhà kính, và mời khán giả xem nó phát triển.

    Released1990 1990

    Đạo diễn Byadrian Lyne Adrian Lyne

    30

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Carol là một bức tranh hoa tường trong Roman Polanski, một cô gái lặng lẽ, dường như bị đẩy lùi (nếu bạn muốn) bởi bất kỳ ai khác ngoài em gái của cô. Vì vậy, khi chị gái rời đi trong kỳ nghỉ, và Carol bị bỏ lại một mình, cô rút lui. Và rút lui hơn nữa. Và hơn nữa, cho đến khi căn hộ của cô là tâm trí của riêng cô, đầy những lo lắng và chấn thương và nắm chặt tay.

    Dù câu trả lời là gì, thang Jacob Jacob, mô tả một cách trực quan một người đàn ông bị xé toạc. Sự tỉnh táo của anh ta bị phá vỡ, mối liên hệ của anh ta với những người khác không thể khắc phục được. Lyne, người thường chuyên về những hình ảnh của niềm vui khiêu dâm trơn tru, chứng tỏ rằng anh ấy rất xuất sắc trong việc mang lại sự đối nghịch hoàn toàn với cuộc sống: những con đường nhếch nhác, những đường hầm bị bỏ hoang, những kẻ gay gắt của cuộc sống Jacob Jacob rất đáng ghét, nhưng không có người. Bạn có thể thoát khỏi thang Jacob Jacob. Cách duy nhất ra là đi lên.

    Released1987 1987

    Chỉ đạo Byclive Barker Clive Barker

    29

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Hellraiser của Clive Barker là một trong những bộ phim kinh dị đáng nhớ nhất trong nhiều thập kỷ qua - không chỉ đơn giản là vì nhân vật phản diện không tên, năng động về mặt thẩm mỹ (sau này được đặt tên là người hâm mộ) của tình trạng con người. Bộ phim, giống như tên văn học của nó là trái tim Hellbound, nói về ham muốn - vì quyền lực, vì niềm vui, cho cuộc sống và tình yêu - và giá cả khủng khiếp, ướt đẫm máu mà trái tim con người sẽ trả để thực hiện mong muốn của nó.

    Việc thiết lập là xà phòng-opera đơn giản: Julia đã kết hôn với Larry, nhưng đã từng có một cuộc thử thách với anh trai Frank. Kirsty là con gái của Larry và Frank từng khao khát Kirsty. Frank, người mà chúng tôi đã theo dõi việc mua Puzzlebox tại buổi khai mạc của bộ phim, giải quyết câu đố và được gửi vào công ty địa ngục của Pinhead và các cenobites ma quỷ của anh ta. Bây giờ, Frank trở lại (chỉ không có xác thịt của anh ấy) trong một âm mưu với Julia để cướp làn da của Larry. Và tùy thuộc vào Kirsty để giữ cho tất cả địa ngục không bị phá vỡ.

    Đối với những gì về cơ bản - tại Roots Roots của nó - một bộ phim về ngôi nhà bị ma ám, có một triết lý cho Hellraiser không phổ biến trong các bộ phim kinh dị nhỏ hơn. Nó khao khát được nhiều hơn một người đàn ông trong mặt nạ và một vài thanh thiếu niên la hét. Đó là một bộ phim về những thú vui và chúng ta tìm kiếm chúng một cách ám ảnh như thế nào; Về cách thẻ giá cho những gì chúng ta muốn - công khai hoặc bí mật - quá thường xuyên nói đơn giản, "Địa ngục."

    Released2017 2017

    Đạo diễn Byjordan Peele Jordan Peele

    28

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Scott Collura

    Bộ phim của nhà văn-đạo diễn Jordan Peele kết hợp các thể loại cổ điển với các vấn đề phân biệt chủng tộc để tạo ra một cái gì đó mới mẻ và năng động, và vô cùng đáng lo ngại. Khi Chris người Mỹ gốc Phi (Daniel Kaluuya) đi đến vùng nông thôn để gặp gia đình bạn gái da trắng Rose (Allison Williams), anh nhanh chóng nhận ra rằng có điều gì đó không ổn trong gia đình quá vô hiệu hóa này. Vâng, bố (một Bradley Whitford đáng sợ) sẽ bỏ phiếu cho Obama lần thứ ba nếu ông có thể, nhưng mẹ (Catherine Keener, cũng rùng rợn) chắc chắn không tốt với liệu pháp thôi miên. Và tại sao hộ gia đình giúp đỡ - cả hai người da màu - có vẻ như họ đã thoát ra khỏi cuộc xâm lược của những kẻ giật cơ thể?

    Những gì tiếp theo là một câu chuyện thường xuyên, đôi khi hài hước, nhưng cuối cùng hấp dẫn đặt ra một số câu hỏi không thoải mái trong khi giữ cho khán giả đứng trên ghế của họ. Buổi biểu diễn chính của Peele có thể là một diễn viên hài, nhưng chúng tôi cần nhiều phim như thế này từ anh ấy.

    Released1996 1996

    Đạo diễn Bywes Craven Wes Craven

    27

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Hellraiser của Clive Barker là một trong những bộ phim kinh dị đáng nhớ nhất trong nhiều thập kỷ qua - không chỉ đơn giản là vì nhân vật phản diện không tên, năng động về mặt thẩm mỹ (sau này được đặt tên là người hâm mộ) của tình trạng con người. Bộ phim, giống như tên văn học của nó là trái tim Hellbound, nói về ham muốn - vì quyền lực, vì niềm vui, cho cuộc sống và tình yêu - và giá cả khủng khiếp, ướt đẫm máu mà trái tim con người sẽ trả để thực hiện mong muốn của nó.

    Việc thiết lập là xà phòng-opera đơn giản: Julia đã kết hôn với Larry, nhưng đã từng có một cuộc thử thách với anh trai Frank. Kirsty là con gái của Larry và Frank từng khao khát Kirsty. Frank, người mà chúng tôi đã theo dõi việc mua Puzzlebox tại buổi khai mạc của bộ phim, giải quyết câu đố và được gửi vào công ty địa ngục của Pinhead và các cenobites ma quỷ của anh ta. Bây giờ, Frank trở lại (chỉ không có xác thịt của anh ấy) trong một âm mưu với Julia để cướp làn da của Larry. Và tùy thuộc vào Kirsty để giữ cho tất cả địa ngục không bị phá vỡ.

    Đối với những gì về cơ bản - tại Roots Roots của nó - một bộ phim về ngôi nhà bị ma ám, có một triết lý cho Hellraiser không phổ biến trong các bộ phim kinh dị nhỏ hơn. Nó khao khát được nhiều hơn một người đàn ông trong mặt nạ và một vài thanh thiếu niên la hét. Đó là một bộ phim về những thú vui và chúng ta tìm kiếm chúng một cách ám ảnh như thế nào; Về cách thẻ giá cho những gì chúng ta muốn - công khai hoặc bí mật - quá thường xuyên nói đơn giản, "Địa ngục."

    Released1922 1922

    Đạo diễn Byjordan Peele F.W. Murnau

    26

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Scott Collura

    Bộ phim của nhà văn-đạo diễn Jordan Peele kết hợp các thể loại cổ điển với các vấn đề phân biệt chủng tộc để tạo ra một cái gì đó mới mẻ và năng động, và vô cùng đáng lo ngại. Khi Chris người Mỹ gốc Phi (Daniel Kaluuya) đi đến vùng nông thôn để gặp gia đình bạn gái da trắng Rose (Allison Williams), anh nhanh chóng nhận ra rằng có điều gì đó không ổn trong gia đình quá vô hiệu hóa này. Vâng, bố (một Bradley Whitford đáng sợ) sẽ bỏ phiếu cho Obama lần thứ ba nếu ông có thể, nhưng mẹ (Catherine Keener, cũng rùng rợn) chắc chắn không tốt với liệu pháp thôi miên. Và tại sao hộ gia đình giúp đỡ - cả hai người da màu - có vẻ như họ đã thoát ra khỏi cuộc xâm lược của những kẻ giật cơ thể?

    Những gì tiếp theo là một câu chuyện thường xuyên, đôi khi hài hước, nhưng cuối cùng hấp dẫn đặt ra một số câu hỏi không thoải mái trong khi giữ cho khán giả đứng trên ghế của họ. Buổi biểu diễn chính của Peele có thể là một diễn viên hài, nhưng chúng tôi cần nhiều phim như thế này từ anh ấy.

    Released2012 2012

    Đạo diễn Bydrew Goddard Drew Goddard

    25

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Một số khái niệm cao tháp trên tất cả những người khác. Cabin trong rừng của Drew Goddard, được đồng sáng tác bởi Joss Whedon, là câu chuyện về một nhóm những đứa trẻ đại học đi đến A, vâng, cabin trong rừng và bị bao vây bởi những gì bạn có thể gọi là một gia đình tra tấn đỏ của Zombie. " Nhưng đó cũng là câu chuyện về hai máy bay không người lái văn phòng cổ áo trắng theo dõi sự tàn sát trong thời gian thực, và làm cho chắc chắn rằng nó đánh vào mọi người sáo rỗng có thể tưởng tượng được. Và bằng cách nào đó tất cả đều có ý nghĩa.

    Cabin in the Woods hoạt động như một bộ phim kinh dị công thức - dàn diễn viên rất hay, những trò đùa thật dí dỏm và bạo lực thật ngoạn mục - nhưng bộ phim Goddard, cũng hack và chém vào thể loại kinh dị. Cỗ máy Hollywood đã tạo ra những vùng nhiệt đới quen thuộc và khán giả, mỗi người bị buộc phải bị buộc tội cắn và những khúc quanh lật đổ trên những ý tưởng quen thuộc. Những bộ phim hài kinh dị don lồng nhận được thông minh hơn nhiều. Hoặc hài hước hơn. Hoặc phá hoại một cách vui vẻ hơn.

    Released1999 1999

    Đạo diễn Byeduardo Sánchez và Daniel Myrick Eduardo Sánchez and Daniel Myrick

    24

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Bộ phim đã sinh ra toàn bộ "bộ phim kinh dị với tên gọi giả mạo" - hay còn gọi là những cảnh quay được tìm thấy - và đã truyền cảm hứng cho những bộ phim như hoạt động huyền bí và ilk của nó, Dự án Blair Witch là một lễ hội sợ hãi khá hiệu quả khi nhìn lại.

    Một số lựa chọn lấy cảm hứng từ đó trong lĩnh vực "IT hoặc không có thật" có vẻ ngày và rõ ràng bây giờ đưa ra thực tế là ngày nay, Internet dường như đặt ra để tiết lộ những kẻ phá hoại xung quanh các dự án như thế này. . Đi săn bắn tỉa cho những gì hóa ra là cái ác thuần túy trên thực tế là có thật.

    Đổ lỗi cho món quà/lời nguyền của bộ phim run rẩy trên bộ phim này, nhưng hãy cho nó tín dụng cho việc mang lại sự sợ hãi theo cách thay đổi cách chúng ta muốn sợ chúng ta.

    Released2016 2016

    Chỉ đạo Byrobert Eggers Robert Eggers

    23

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Một số khái niệm cao tháp trên tất cả những người khác. Cabin trong rừng của Drew Goddard, được đồng sáng tác bởi Joss Whedon, là câu chuyện về một nhóm những đứa trẻ đại học đi đến A, vâng, cabin trong rừng và bị bao vây bởi những gì bạn có thể gọi là một gia đình tra tấn đỏ của Zombie. " Nhưng đó cũng là câu chuyện về hai máy bay không người lái văn phòng cổ áo trắng theo dõi sự tàn sát trong thời gian thực, và làm cho chắc chắn rằng nó đánh vào mọi người sáo rỗng có thể tưởng tượng được. Và bằng cách nào đó tất cả đều có ý nghĩa.

    Cabin in the Woods hoạt động như một bộ phim kinh dị công thức - dàn diễn viên rất hay, những trò đùa thật dí dỏm và bạo lực thật ngoạn mục - nhưng bộ phim Goddard, cũng hack và chém vào thể loại kinh dị. Cỗ máy Hollywood đã tạo ra những vùng nhiệt đới quen thuộc và khán giả, mỗi người bị buộc phải bị buộc tội cắn và những khúc quanh lật đổ trên những ý tưởng quen thuộc. Những bộ phim hài kinh dị don lồng nhận được thông minh hơn nhiều. Hoặc hài hước hơn. Hoặc phá hoại một cách vui vẻ hơn.

    Released1931 1931

    Đạo diễn Byeduardo Sánchez và Daniel Myrick Tod Browning

    22

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Bộ phim đã sinh ra toàn bộ "bộ phim kinh dị với tên gọi giả mạo" - hay còn gọi là những cảnh quay được tìm thấy - và đã truyền cảm hứng cho những bộ phim như hoạt động huyền bí và ilk của nó, Dự án Blair Witch là một lễ hội sợ hãi khá hiệu quả khi nhìn lại.

    Một số lựa chọn lấy cảm hứng từ đó trong lĩnh vực "IT hoặc không có thật" có vẻ ngày và rõ ràng bây giờ đưa ra thực tế là ngày nay, Internet dường như đặt ra để tiết lộ những kẻ phá hoại xung quanh các dự án như thế này. . Đi săn bắn tỉa cho những gì hóa ra là cái ác thuần túy trên thực tế là có thật.

    Đổ lỗi cho món quà/lời nguyền của bộ phim run rẩy trên bộ phim này, nhưng hãy cho nó tín dụng cho việc mang lại sự sợ hãi theo cách thay đổi cách chúng ta muốn sợ chúng ta.

    Released2002 2002

    Chỉ đạo Byrobert Eggers Danny Boyle

    21

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    William Bibbiani

    Một gia đình mà quá tôn giáo ngay cả đối với Thanh giáo, thuộc địa của Mỹ đã tự mình đi ra ngoài khi bắt đầu câu chuyện kinh dị lịch sử của Robert Eggers. Vì vậy, khi bi kịch xảy ra, không có nơi nào để quay đầu nhưng hướng nội, và cảm giác tội lỗi, đạo đức giả và hoang tưởng tích tụ bên trong một người cha, một người mẹ, con cái của họ và - vâng - ngay cả con dê của họ.

    Điều quan trọng nhất là 28 ngày sau đó không chỉ là một trải nghiệm kinh dị nội tạng. Một dàn diễn viên tuyệt vời và một kịch bản thông minh đã đối xử với khái niệm này với sự chân thành và mức độ nghiêm trọng, và điện ảnh kỹ thuật số của Boyle, đã mang đến cho bộ phim một sự trực tiếp mà đã được kết hợp vào thời điểm đó. Nếu zombie - thở dài, bị nhiễm bệnh - đã chiếm lấy trái đất, thì đây chắc chắn là những gì nó sẽ trông và cảm thấy như thế nào. Và nó sẽ là đáng sợ.

    Released1986 1986

    Chỉ đạo BYDAVID Cronenberg David Cronenberg

    20

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Bản làm lại rất rõ ràng của David Cronenberg, rất mãnh liệt và rất xuất sắc của Fly đưa Jeff Goldblum vào vai Seth Brundle, một nhà khoa học phát minh ra các dịch vụ viễn thông có nghĩa là thay đổi thế giới. Thay vào đó, họ thay đổi anh ta thành một con quái vật bay khi một con ruồi vô tình bị mắc kẹt trong một trong những cỗ máy khi Seth dịch chuyển từ cái này sang cái khác.

    Kịch bản, buổi biểu diễn và điểm số to lớn của Howard Shore phối hợp với nhau để tạo ra một vở opera kinh dị, một bản đầy đủ các xoắn đen và hiệu ứng sinh vật thực tế sợ hãi. Một khi tất cả các khu nhà khoa học và nôn mửa, chúng tôi nhận ra rằng chúng tôi đã chứng kiến ​​một bi kịch về một nhà khoa học, người chiếm tất cả mọi thứ cứu tự nhiên tìm cách nhắc nhở con người không chơi Chúa. (Loại phù hợp mà Goldblum đã học được bài học này ở đây và một lần nữa trong Công viên kỷ Jura, phải không?)

    Released1981 1981

    Đạo diễn Byjohn Landis John Landis

    19

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Bản làm lại rất rõ ràng của David Cronenberg, rất mãnh liệt và rất xuất sắc của Fly đưa Jeff Goldblum vào vai Seth Brundle, một nhà khoa học phát minh ra các dịch vụ viễn thông có nghĩa là thay đổi thế giới. Thay vào đó, họ thay đổi anh ta thành một con quái vật bay khi một con ruồi vô tình bị mắc kẹt trong một trong những cỗ máy khi Seth dịch chuyển từ cái này sang cái khác.

    Kịch bản, buổi biểu diễn và điểm số to lớn của Howard Shore phối hợp với nhau để tạo ra một vở opera kinh dị, một bản đầy đủ các xoắn đen và hiệu ứng sinh vật thực tế sợ hãi. Một khi tất cả các khu nhà khoa học và nôn mửa, chúng tôi nhận ra rằng chúng tôi đã chứng kiến ​​một bi kịch về một nhà khoa học, người chiếm tất cả mọi thứ cứu tự nhiên tìm cách nhắc nhở con người không chơi Chúa. (Loại phù hợp mà Goldblum đã học được bài học này ở đây và một lần nữa trong Công viên kỷ Jura, phải không?)

    Đạo diễn Byjohn Landis

    Released2008 2008

    Hiếm khi rất đau khi hợp nhất nỗi kinh hoàng với một loạt phim hài, và một người sói Mỹ ở London là một trong những ví dụ tốt đẹp hơn về sự kết hợp đó. Đây cũng là một trong một số bộ phim người sói mang tính biểu tượng ra rạp vào năm 1981. của bộ ba, người sói Mỹ vẫn là người nổi tiếng và được yêu thích nhất. Tomas Alfredson

    18

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Bản làm lại rất rõ ràng của David Cronenberg, rất mãnh liệt và rất xuất sắc của Fly đưa Jeff Goldblum vào vai Seth Brundle, một nhà khoa học phát minh ra các dịch vụ viễn thông có nghĩa là thay đổi thế giới. Thay vào đó, họ thay đổi anh ta thành một con quái vật bay khi một con ruồi vô tình bị mắc kẹt trong một trong những cỗ máy khi Seth dịch chuyển từ cái này sang cái khác.

    Kịch bản, buổi biểu diễn và điểm số to lớn của Howard Shore phối hợp với nhau để tạo ra một vở opera kinh dị, một bản đầy đủ các xoắn đen và hiệu ứng sinh vật thực tế sợ hãi. Một khi tất cả các khu nhà khoa học và nôn mửa, chúng tôi nhận ra rằng chúng tôi đã chứng kiến ​​một bi kịch về một nhà khoa học, người chiếm tất cả mọi thứ cứu tự nhiên tìm cách nhắc nhở con người không chơi Chúa. (Loại phù hợp mà Goldblum đã học được bài học này ở đây và một lần nữa trong Công viên kỷ Jura, phải không?)

    Đạo diễn Byjohn Landis

    Released1977 1977

    Hiếm khi rất đau khi hợp nhất nỗi kinh hoàng với một loạt phim hài, và một người sói Mỹ ở London là một trong những ví dụ tốt đẹp hơn về sự kết hợp đó. Đây cũng là một trong một số bộ phim người sói mang tính biểu tượng ra rạp vào năm 1981. của bộ ba, người sói Mỹ vẫn là người nổi tiếng và được yêu thích nhất. Dario Argento

    17

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Bộ phim theo sau hai du khách ba lô đi du lịch vùng nông thôn Anh. Khi chỉ có một người sống sót sau một cuộc tấn công bởi một con sói tàn độc, anh ta bị thuyết phục rằng anh ta bị nhiễm trùng bởi lời nguyền của người sói. Và nó sẽ không phải là một bộ phim người sói nếu anh ta trở nên sai.

    Một người sói Mỹ ở London nổi bật vào thời điểm đó nhờ trang điểm tuyệt vời và công việc hiệu ứng đặc biệt của nó; Chưa bao giờ, sự biến đổi của người sói dường như rất thuyết phục. Sự hài hước cũng không bị tổn thương, đặc biệt là với những chuỗi cơn ác mộng bị mất trí nhớ rực rỡ. Nhưng người sói Mỹ cuối cùng là một bộ phim kinh dị bi thảm, và một người chắc chắn xứng đáng được tưởng nhớ ngày hôm nay.

    Released1978 1978

    Chỉ đạo Bytomas Alfredson George A. Romero

    16

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Bản làm lại rất rõ ràng của David Cronenberg, rất mãnh liệt và rất xuất sắc của Fly đưa Jeff Goldblum vào vai Seth Brundle, một nhà khoa học phát minh ra các dịch vụ viễn thông có nghĩa là thay đổi thế giới. Thay vào đó, họ thay đổi anh ta thành một con quái vật bay khi một con ruồi vô tình bị mắc kẹt trong một trong những cỗ máy khi Seth dịch chuyển từ cái này sang cái khác.

    Kịch bản, buổi biểu diễn và điểm số to lớn của Howard Shore phối hợp với nhau để tạo ra một vở opera kinh dị, một bản đầy đủ các xoắn đen và hiệu ứng sinh vật thực tế sợ hãi. Một khi tất cả các khu nhà khoa học và nôn mửa, chúng tôi nhận ra rằng chúng tôi đã chứng kiến ​​một bi kịch về một nhà khoa học, người chiếm tất cả mọi thứ cứu tự nhiên tìm cách nhắc nhở con người không chơi Chúa. (Loại phù hợp mà Goldblum đã học được bài học này ở đây và một lần nữa trong Công viên kỷ Jura, phải không?)

    Sự sáng chói thực sự của Dawn là cách nó kết hợp cuộc tàn sát zombie thẳng thắn với một liều thuốc châm biếm và bình luận xã hội lành mạnh. Vào cuối ngày, người Mỹ hiện đại có thực sự rất khác so với xác sống không? Họ khao khát xác thịt ấm áp; Chúng tôi thèm iPhone.

    Released1984 1984

    Đạo diễn Bywes Craven Wes Craven

    15

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Đến năm 1984, bộ phim Slasher đã được thực hiện đến chết (xin lỗi chơi chữ). Bạn có thể nhìn thấy bao nhiêu kẻ giết người đeo mặt nạ trước khi mệt mỏi xảy ra? Nhưng Wes Craven đã có một sự thay đổi tuyệt vời trên các loại phim này. Đầu tiên, anh ta tạo ra một kẻ giết người, Freddy Krueger, người ngay lập tức nổi bật so với phần còn lại của gói. Khuôn mặt anh ta bị đốt cháy ngoài sự công nhận, nhưng Freddy không đeo mặt nạ và không im lặng.

    Trên thực tế, anh ta có rất nhiều lời chế nhạo tàn nhẫn cho các nạn nhân của mình. Quan trọng hơn, miền của anh ta là thế giới mơ ước, nơi anh ta có thể rình rập và khủng bố mà không có bất kỳ quy tắc nào để ràng buộc anh ta - nếu bạn chạy trốn khỏi anh ta, anh ta có thể dễ dàng chờ đợi bạn khi bạn đến gần. Không có nơi nào để trốn tránh Freddy vì đôi khi tất cả chúng ta phải ngủ, phải không?

    Với một nhóm các nhân vật trẻ đáng tin cậy hơn hầu hết các bộ phim Slasher, A Nightmare on Elm Street đã tạo ra một tác động rất lớn khi phát hành, nhờ sự tự phụ xuất sắc và nhân vật phản diện tuyệt vời của nó, và tài năng của Craven trong việc xây dựng căng thẳng và đưa hàng hóa trong cảnh giết người. Và với Freddy, Craven đã cho chúng tôi một trong những nhân vật phim phổ biến, bền bỉ và dễ nhận biết nhất mọi thời đại.

    Released1982 1982

    Chỉ đạo bytobe hooper Tobe Hooper

    14

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Đến năm 1984, bộ phim Slasher đã được thực hiện đến chết (xin lỗi chơi chữ). Bạn có thể nhìn thấy bao nhiêu kẻ giết người đeo mặt nạ trước khi mệt mỏi xảy ra? Nhưng Wes Craven đã có một sự thay đổi tuyệt vời trên các loại phim này. Đầu tiên, anh ta tạo ra một kẻ giết người, Freddy Krueger, người ngay lập tức nổi bật so với phần còn lại của gói. Khuôn mặt anh ta bị đốt cháy ngoài sự công nhận, nhưng Freddy không đeo mặt nạ và không im lặng.

    Trên thực tế, anh ta có rất nhiều lời chế nhạo tàn nhẫn cho các nạn nhân của mình. Quan trọng hơn, miền của anh ta là thế giới mơ ước, nơi anh ta có thể rình rập và khủng bố mà không có bất kỳ quy tắc nào để ràng buộc anh ta - nếu bạn chạy trốn khỏi anh ta, anh ta có thể dễ dàng chờ đợi bạn khi bạn đến gần. Không có nơi nào để trốn tránh Freddy vì đôi khi tất cả chúng ta phải ngủ, phải không?

    Với một nhóm các nhân vật trẻ đáng tin cậy hơn hầu hết các bộ phim Slasher, A Nightmare on Elm Street đã tạo ra một tác động rất lớn khi phát hành, nhờ sự tự phụ xuất sắc và nhân vật phản diện tuyệt vời của nó, và tài năng của Craven trong việc xây dựng căng thẳng và đưa hàng hóa trong cảnh giết người. Và với Freddy, Craven đã cho chúng tôi một trong những nhân vật phim phổ biến, bền bỉ và dễ nhận biết nhất mọi thời đại.

    Released1982 1982

    Chỉ đạo bytobe hooper John Carpenter

    13

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Đến năm 1984, bộ phim Slasher đã được thực hiện đến chết (xin lỗi chơi chữ). Bạn có thể nhìn thấy bao nhiêu kẻ giết người đeo mặt nạ trước khi mệt mỏi xảy ra? Nhưng Wes Craven đã có một sự thay đổi tuyệt vời trên các loại phim này. Đầu tiên, anh ta tạo ra một kẻ giết người, Freddy Krueger, người ngay lập tức nổi bật so với phần còn lại của gói. Khuôn mặt anh ta bị đốt cháy ngoài sự công nhận, nhưng Freddy không đeo mặt nạ và không im lặng.

    Trên thực tế, anh ta có rất nhiều lời chế nhạo tàn nhẫn cho các nạn nhân của mình. Quan trọng hơn, miền của anh ta là thế giới mơ ước, nơi anh ta có thể rình rập và khủng bố mà không có bất kỳ quy tắc nào để ràng buộc anh ta - nếu bạn chạy trốn khỏi anh ta, anh ta có thể dễ dàng chờ đợi bạn khi bạn đến gần. Không có nơi nào để trốn tránh Freddy vì đôi khi tất cả chúng ta phải ngủ, phải không?

    Với một nhóm các nhân vật trẻ đáng tin cậy hơn hầu hết các bộ phim Slasher, A Nightmare on Elm Street đã tạo ra một tác động rất lớn khi phát hành, nhờ sự tự phụ xuất sắc và nhân vật phản diện tuyệt vời của nó, và tài năng của Craven trong việc xây dựng căng thẳng và đưa hàng hóa trong cảnh giết người. Và với Freddy, Craven đã cho chúng tôi một trong những nhân vật phim phổ biến, bền bỉ và dễ nhận biết nhất mọi thời đại.

    Released1974 1974

    Chỉ đạo bytobe hooper Tobe Hooper

    12

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Đến năm 1984, bộ phim Slasher đã được thực hiện đến chết (xin lỗi chơi chữ). Bạn có thể nhìn thấy bao nhiêu kẻ giết người đeo mặt nạ trước khi mệt mỏi xảy ra? Nhưng Wes Craven đã có một sự thay đổi tuyệt vời trên các loại phim này. Đầu tiên, anh ta tạo ra một kẻ giết người, Freddy Krueger, người ngay lập tức nổi bật so với phần còn lại của gói. Khuôn mặt anh ta bị đốt cháy ngoài sự công nhận, nhưng Freddy không đeo mặt nạ và không im lặng.

    Trên thực tế, anh ta có rất nhiều lời chế nhạo tàn nhẫn cho các nạn nhân của mình. Quan trọng hơn, miền của anh ta là thế giới mơ ước, nơi anh ta có thể rình rập và khủng bố mà không có bất kỳ quy tắc nào để ràng buộc anh ta - nếu bạn chạy trốn khỏi anh ta, anh ta có thể dễ dàng chờ đợi bạn khi bạn đến gần. Không có nơi nào để trốn tránh Freddy vì đôi khi tất cả chúng ta phải ngủ, phải không?

    Released1968 1968

    Với một nhóm các nhân vật trẻ đáng tin cậy hơn hầu hết các bộ phim Slasher, A Nightmare on Elm Street đã tạo ra một tác động rất lớn khi phát hành, nhờ sự tự phụ xuất sắc và nhân vật phản diện tuyệt vời của nó, và tài năng của Craven trong việc xây dựng căng thẳng và đưa hàng hóa trong cảnh giết người. Và với Freddy, Craven đã cho chúng tôi một trong những nhân vật phim phổ biến, bền bỉ và dễ nhận biết nhất mọi thời đại. Roman Polanski

    11

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Đến năm 1984, bộ phim Slasher đã được thực hiện đến chết (xin lỗi chơi chữ). Bạn có thể nhìn thấy bao nhiêu kẻ giết người đeo mặt nạ trước khi mệt mỏi xảy ra? Nhưng Wes Craven đã có một sự thay đổi tuyệt vời trên các loại phim này. Đầu tiên, anh ta tạo ra một kẻ giết người, Freddy Krueger, người ngay lập tức nổi bật so với phần còn lại của gói. Khuôn mặt anh ta bị đốt cháy ngoài sự công nhận, nhưng Freddy không đeo mặt nạ và không im lặng.

    Farrow là hoàn hảo trong vai trò của Rosemary; Khi cô từ từ làm sáng tỏ, cô càng phát hiện ra những gì mà các giao dịch sùng bái mờ ám đang xảy ra xung quanh mình. Toàn bộ thế giới dường như đang âm mưu chống lại những người vô tội nhất ở đây, khi Quỷ nhìn từ cánh và hương thảo bị phá vỡ.

    Cách tiếp cận "ít hơn là nhiều hơn" của Polanski để cung cấp những cơn ớn lạnh hỗ trợ thêm quy tắc kể chuyện mà càng có nhiều màn hình, khán giả càng phải tưởng tượng, và do đó, càng đáng sợ.

    Released1968 1968

    Đạo diễn BYGORGE A. ROMERO George A. Romero

    10

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Năm 1968, đạo diễn George Romero đã đưa ra ý tưởng đáng sợ về "zombization", cho đến thời điểm đó đã bị xuống hạng với những câu chuyện voodoo đáng sợ và truyền thuyết Lovecraft-ana ngoài chiều, và tạo ra một thể loại kinh dị mới đáng sợ: The Zombie Apocalypse Film. "Họ đến để đưa bạn Barbara" trở thành chính thức đầu tiên "Tôi sẽ trở lại" kinh hoàng, vì Judith O'Dea tội nghiệp phải chạy trốn một nghĩa trang vì người chết đã trở lại không thể giải thích được và bắt đầu bước đi trên trái đất vào Tìm kiếm xác thịt của con người.

    Hitchcock đã phát hiện ra, với The Birds năm 1963, rằng nỗi kinh hoàng tuyệt đối của "không biết" những lý do đằng sau sự bùng nổ toàn cầu càn quét của cái ác có thể là phần khủng khiếp nhất trong toàn bộ câu chuyện. Thể loại "Zombocalypse" rất bền bỉ đến nỗi ngày hôm nay vẫn còn mạnh mẽ (xin chào, người hâm mộ Walking Dead ...). Chắc chắn, một số bộ phim đã làm cho zombie của họ chạy nhanh và cố gắng giải thích toàn bộ thỏa thuận sống chết với virus, và đó là tất cả. Nhưng sẽ không có gì để đánh bại những điều cơ bản.

    Với một bộ phim này, Romero đã có thể khai thác mọi thứ chúng ta sợ: cái chết, mạo phạm xác thịt, ăn thịt người, tẩy não, bệnh tật và vô vọng. Ngoài ra còn có một thông điệp xã hội tiềm ẩn về phân biệt chủng tộc, phương tiện truyền thông và hoang tưởng nơi người xem phải học rằng họ có thể nguy hiểm và tàn nhẫn như những nhóm bất tử mà họ đang trốn.

    Released1987 1987

    Đạo diễn Bysam Raimi Sam Raimi

    09

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Lucy O'Brien

    Mặc dù có nhiều "bản phối lại" hơn phần tiếp theo, Evil Dead II cải thiện người tiền nhiệm của nó trong hầu hết mọi cách. Gore, nhiều hài hơn, nhiều hơn, nhiều hơn, nhiều hơn ... Sam Raimi và Bruce Campbell (và Ash!) Đã trở lại rừng sau sáu năm cho Evil Dead II, dựa vào sự dư thừa khủng khiếp của người đầu tiên Một mức độ lố bịch (đây là một cấp độ mà một nhãn cầu bay vào miệng mở của một người). Mặc dù Evil Dead II không phát minh ra splat-stick, nhưng chắc chắn nó đã hoàn thiện nó và tiếp tục ảnh hưởng đến vô số bộ phim hài khác. Groovy.

    Released1991 1991

    Đạo diễn Byjonathan Demme Jonathan Demme

    08

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Năm 1968, đạo diễn George Romero đã đưa ra ý tưởng đáng sợ về "zombization", cho đến thời điểm đó đã bị xuống hạng với những câu chuyện voodoo đáng sợ và truyền thuyết Lovecraft-ana ngoài chiều, và tạo ra một thể loại kinh dị mới đáng sợ: The Zombie Apocalypse Film. "Họ đến để đưa bạn Barbara" trở thành chính thức đầu tiên "Tôi sẽ trở lại" kinh hoàng, vì Judith O'Dea tội nghiệp phải chạy trốn một nghĩa trang vì người chết đã trở lại không thể giải thích được và bắt đầu bước đi trên trái đất vào Tìm kiếm xác thịt của con người.

    Hitchcock đã phát hiện ra, với The Birds năm 1963, rằng nỗi kinh hoàng tuyệt đối của "không biết" những lý do đằng sau sự bùng nổ toàn cầu càn quét của cái ác có thể là phần khủng khiếp nhất trong toàn bộ câu chuyện. Thể loại "Zombocalypse" rất bền bỉ đến nỗi ngày hôm nay vẫn còn mạnh mẽ (xin chào, người hâm mộ Walking Dead ...). Chắc chắn, một số bộ phim đã làm cho zombie của họ chạy nhanh và cố gắng giải thích toàn bộ thỏa thuận sống chết với virus, và đó là tất cả. Nhưng sẽ không có gì để đánh bại những điều cơ bản.

    Với một bộ phim này, Romero đã có thể khai thác mọi thứ chúng ta sợ: cái chết, mạo phạm xác thịt, ăn thịt người, tẩy não, bệnh tật và vô vọng. Ngoài ra còn có một thông điệp xã hội tiềm ẩn về phân biệt chủng tộc, phương tiện truyền thông và hoang tưởng nơi người xem phải học rằng họ có thể nguy hiểm và tàn nhẫn như những nhóm bất tử mà họ đang trốn.

    Released1975 1975

    Đạo diễn Bysam Raimi Stephen Spielberg

    07

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Năm 1968, đạo diễn George Romero đã đưa ra ý tưởng đáng sợ về "zombization", cho đến thời điểm đó đã bị xuống hạng với những câu chuyện voodoo đáng sợ và truyền thuyết Lovecraft-ana ngoài chiều, và tạo ra một thể loại kinh dị mới đáng sợ: The Zombie Apocalypse Film. "Họ đến để đưa bạn Barbara" trở thành chính thức đầu tiên "Tôi sẽ trở lại" kinh hoàng, vì Judith O'Dea tội nghiệp phải chạy trốn một nghĩa trang vì người chết đã trở lại không thể giải thích được và bắt đầu bước đi trên trái đất vào Tìm kiếm xác thịt của con người.

    Hitchcock đã phát hiện ra, với The Birds năm 1963, rằng nỗi kinh hoàng tuyệt đối của "không biết" những lý do đằng sau sự bùng nổ toàn cầu càn quét của cái ác có thể là phần khủng khiếp nhất trong toàn bộ câu chuyện. Thể loại "Zombocalypse" rất bền bỉ đến nỗi ngày hôm nay vẫn còn mạnh mẽ (xin chào, người hâm mộ Walking Dead ...). Chắc chắn, một số bộ phim đã làm cho zombie của họ chạy nhanh và cố gắng giải thích toàn bộ thỏa thuận sống chết với virus, và đó là tất cả. Nhưng sẽ không có gì để đánh bại những điều cơ bản.

    Với một bộ phim này, Romero đã có thể khai thác mọi thứ chúng ta sợ: cái chết, mạo phạm xác thịt, ăn thịt người, tẩy não, bệnh tật và vô vọng. Ngoài ra còn có một thông điệp xã hội tiềm ẩn về phân biệt chủng tộc, phương tiện truyền thông và hoang tưởng nơi người xem phải học rằng họ có thể nguy hiểm và tàn nhẫn như những nhóm bất tử mà họ đang trốn.

    Released1979 1979

    Đạo diễn Byridley Scott Ridley Scott

    06

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Phim người ngoài hành tinh thường được coi là được trồng trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng. Tuy nhiên, với bản gốc ít nhất, Alien cũng là một bộ phim kinh dị như một bộ phim khoa học viễn tưởng. Với một dàn diễn viên nhỏ bị một sinh vật đáng sợ, đơn độc, người ngoài hành tinh đã bị loại khỏi Star Wars và Star Treks of Hollywood.

    Người ngoài hành tinh được thiết lập vài thế kỷ trong tương lai khi loài người đã mạo hiểm vào các vì sao. Phi hành đoàn của Nostromo tàu khai thác trở thành những vật chủ vô tình cho một cuộc sống ngoài hành tinh khát máu, và từng người một người đó rơi vào kẻ thù ẩn trong bóng tối và suối từ trên cao. Chỉ có Ripley (Sigourney Weaver) đủ hiểu biết để sống sót sau cuộc tấn công dữ dội của người ngoài hành tinh. Quá tệ cho cô ấy chỉ là vòng đầu tiên.

    Người ngoài hành tinh không giống với nhiều bộ phim khoa học viễn tưởng thời đó. Nghệ sĩ H.R. Giger đã thiết kế một thế giới đầy các ống xoắn, hành lang lạnh và bóng tối lan tỏa. Trước người ngoài hành tinh, văn hóa nhạc pop không bao giờ cảnh báo chúng ta rằng độ sâu không gian lạnh lẽo, bẩn thỉu và đáng sợ như thế nào. Đạo diễn Ridley Scott đã áp dụng một cách tiếp cận "ít hơn là" mà sau đó phần tiếp theo bị bỏ rơi đáng buồn; Các đạo diễn hiện đại có thể nhồi nhét tất cả người ngoài hành tinh và kỹ sư mà họ muốn vào phim của họ, nhưng không ai có thể phù hợp với khủng bố ngột ngạt tuyệt đối được tạo ra trong bộ phim gốc.

    Released1935 1935

    Chỉ đạo Byjames Whale James Whale

    05

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Phim người ngoài hành tinh thường được coi là được trồng trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng. Tuy nhiên, với bản gốc ít nhất, Alien cũng là một bộ phim kinh dị như một bộ phim khoa học viễn tưởng. Với một dàn diễn viên nhỏ bị một sinh vật đáng sợ, đơn độc, người ngoài hành tinh đã bị loại khỏi Star Wars và Star Treks of Hollywood.

    Người ngoài hành tinh được thiết lập vài thế kỷ trong tương lai khi loài người đã mạo hiểm vào các vì sao. Phi hành đoàn của Nostromo tàu khai thác trở thành những vật chủ vô tình cho một cuộc sống ngoài hành tinh khát máu, và từng người một người đó rơi vào kẻ thù ẩn trong bóng tối và suối từ trên cao. Chỉ có Ripley (Sigourney Weaver) đủ hiểu biết để sống sót sau cuộc tấn công dữ dội của người ngoài hành tinh. Quá tệ cho cô ấy chỉ là vòng đầu tiên.

    Người ngoài hành tinh không giống với nhiều bộ phim khoa học viễn tưởng thời đó. Nghệ sĩ H.R. Giger đã thiết kế một thế giới đầy các ống xoắn, hành lang lạnh và bóng tối lan tỏa. Trước người ngoài hành tinh, văn hóa nhạc pop không bao giờ cảnh báo chúng ta rằng độ sâu không gian lạnh lẽo, bẩn thỉu và đáng sợ như thế nào. Đạo diễn Ridley Scott đã áp dụng một cách tiếp cận "ít hơn là" mà sau đó phần tiếp theo bị bỏ rơi đáng buồn; Các đạo diễn hiện đại có thể nhồi nhét tất cả người ngoài hành tinh và kỹ sư mà họ muốn vào phim của họ, nhưng không ai có thể phù hợp với khủng bố ngột ngạt tuyệt đối được tạo ra trong bộ phim gốc.

    Released1978 1978

    Chỉ đạo Byjames Whale John Carpenter

    04

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Phim người ngoài hành tinh thường được coi là được trồng trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng. Tuy nhiên, với bản gốc ít nhất, Alien cũng là một bộ phim kinh dị như một bộ phim khoa học viễn tưởng. Với một dàn diễn viên nhỏ bị một sinh vật đáng sợ, đơn độc, người ngoài hành tinh đã bị loại khỏi Star Wars và Star Treks of Hollywood.

    Người ngoài hành tinh được thiết lập vài thế kỷ trong tương lai khi loài người đã mạo hiểm vào các vì sao. Phi hành đoàn của Nostromo tàu khai thác trở thành những vật chủ vô tình cho một cuộc sống ngoài hành tinh khát máu, và từng người một người đó rơi vào kẻ thù ẩn trong bóng tối và suối từ trên cao. Chỉ có Ripley (Sigourney Weaver) đủ hiểu biết để sống sót sau cuộc tấn công dữ dội của người ngoài hành tinh. Quá tệ cho cô ấy chỉ là vòng đầu tiên.

    Người ngoài hành tinh không giống với nhiều bộ phim khoa học viễn tưởng thời đó. Nghệ sĩ H.R. Giger đã thiết kế một thế giới đầy các ống xoắn, hành lang lạnh và bóng tối lan tỏa. Trước người ngoài hành tinh, văn hóa nhạc pop không bao giờ cảnh báo chúng ta rằng độ sâu không gian lạnh lẽo, bẩn thỉu và đáng sợ như thế nào. Đạo diễn Ridley Scott đã áp dụng một cách tiếp cận "ít hơn là" mà sau đó phần tiếp theo bị bỏ rơi đáng buồn; Các đạo diễn hiện đại có thể nhồi nhét tất cả người ngoài hành tinh và kỹ sư mà họ muốn vào phim của họ, nhưng không ai có thể phù hợp với khủng bố ngột ngạt tuyệt đối được tạo ra trong bộ phim gốc.

    Released1960 1960

    Chỉ đạo Byjames Whale Alfred Hitchcock

    03

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    Chắc chắn có những người trong chúng ta trong các nhân viên của IGN đã lập luận rằng James Whale Classic này nên cao hơn trong danh sách của chúng tôi - thậm chí có thể là số một. Nhưng thỏa hiệp là những gì nó là, Whale, Colin Clive, Boris Karloff và phần còn lại đã phải giải quyết cho vị trí thứ năm.

    Bộ phim là đỉnh cao của chu kỳ phổ quát của các hình ảnh quái vật cổ điển về chất lượng. Thay vì chỉ đơn giản là lấy lại một biến thể giá rẻ trên Frankenstein đầu tiên (về cơ bản là những gì nhiều phần tiếp theo của Universal sẽ làm), cá voi đã chọn, ahem, xác định câu chuyện và các nhân vật của bản gốc (mà anh ta cũng chỉ đạo). Karloff, trong lượt thứ hai của mình với tư cách là quái vật, đã trao cho sáng tạo nổi tiếng nhất của mình món quà của bài phát biểu ở đây, và về tình bạn, và thậm chí là tình yêu. Ngoài ra, về sự hài hước - Bride of Frankenstein là một bộ phim hài nhiều như nó là một bộ phim kinh dị.

    Đung lại với các nhân vật phụ tuyệt vời (oh, bác sĩ Pretorius, chúng ta nhớ bạn như thế nào) và thường xuyên hình ảnh đáng lo ngại (Chúa Giêsu H. Christ, họ đã đóng đinh con quái vật?), Bộ phim đã hơn 80 tuổi và chúng ta vẫn đang nói về nó - và yêu nó. Để diễn giải bác sĩ Pretorius, "Đó là điểm yếu duy nhất của chúng tôi."

    Psycho là một tác phẩm kinh điển của thể loại đến nỗi nó đã truyền cảm hứng cho một bản làm lại bắn súng vào năm 1998. Nó cũng có phần tiếp theo và một chương trình truyền hình dựa trên câu chuyện.

    Released1973 1973

    Đạo diễn Bywilliam Friedkin William Friedkin

    02

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    "Bells Tubular" là sự sắp xếp âm nhạc đáng sợ nhất từng được thực hiện. Chúng tôi nghe thấy nó và chúng tôi là con mèo sợ hãi tương đương với con chó của Pavlov - tiếng chuông Satan, và chúng tôi căng thẳng, hét lên và nhận tất cả không tự nhiên. Nhiều hơn một lần. Và sau đó khóc để ngủ với một mắt mở.

    Tiền đề của bộ phim - một cô bé bị quỷ ám - đủ đáng sợ như những lời trên giấy. Nhưng những gì Giám đốc William Friedkin làm với nó, ngoài việc chứng minh rằng anh ta có một hiến pháp mạnh mẽ (hoặc đáng sợ) nghiêm trọng) cho loại công cụ này, là đối xử với sự phi thường của tất cả như thể nó thực sự xảy ra bên cạnh chúng ta.

    Những nỗi sợ hãi đến từ một nơi dựa trên đức tin, nơi thiên đường và địa ngục cũng có thật như niềm tin của bạn vào họ quan tâm. Niềm tin, đối với tất cả các tài liệu về chủ đề này, được buộc vào sự vô hình; Đó không phải là thứ khoa học có thể xác định hoặc chiến lược. Con quỷ xuất phát từ cách giải thích của Exorcist về ý tưởng đó là một thứ gì đó mạnh mẽ hơn một Freddy hoặc Jason. Một cái gì đó không thể bị bắn hoặc đâm hoặc phát nổ.

    Trước khi nó có thể bị tấn công, chứ đừng nói đến việc đánh bại, trước tiên nó phải được tin vào - khủng khiếp và đe dọa đến linh hồn vì điều này có thể là cho linh mục trẻ và linh mục già bị buộc tội cung cấp sự trừ tà khí hậu. Cha Karras và Merrin dành hành động thứ ba của bộ phim để chống lại quỷ dữ để kiểm soát linh hồn của Regan. Và khi làm như vậy, Karras, một người đàn ông có niềm tin dao động trong hầu hết các bộ phim, cuối cùng đã tin vào điều tốt thực sự duy nhất mà anh ta biết bằng cách hy sinh bản thân để cứu cô bé đó.

    Trường học phân tích bộ phim này nhiều hơn nếu bạn muốn. Điểm mấu chốt: Đây là bộ phim kinh dị hay nhất về hậu quả của niềm tin từng được thực hiện. Đó là lý do tại sao rất nhiều bộ phim trừ tà vẫn tràn vào thị trường.

    Released1980 1980

    Đạo diễn Bystanley Kubrick Stanley Kubrick

    01

    100 phim kinh dị hàng đầu kể từ năm 2000 năm 2022

    Nhân viên IGN

    "Bells Tubular" là sự sắp xếp âm nhạc đáng sợ nhất từng được thực hiện. Chúng tôi nghe thấy nó và chúng tôi là con mèo sợ hãi tương đương với con chó của Pavlov - tiếng chuông Satan, và chúng tôi căng thẳng, hét lên và nhận tất cả không tự nhiên. Nhiều hơn một lần. Và sau đó khóc để ngủ với một mắt mở.

    Tiền đề của bộ phim - một cô bé bị quỷ ám - đủ đáng sợ như những lời trên giấy. Nhưng những gì Giám đốc William Friedkin làm với nó, ngoài việc chứng minh rằng anh ta có một hiến pháp mạnh mẽ (hoặc đáng sợ) nghiêm trọng) cho loại công cụ này, là đối xử với sự phi thường của tất cả như thể nó thực sự xảy ra bên cạnh chúng ta.

    Những nỗi sợ hãi đến từ một nơi dựa trên đức tin, nơi thiên đường và địa ngục cũng có thật như niềm tin của bạn vào họ quan tâm. Niềm tin, đối với tất cả các tài liệu về chủ đề này, được buộc vào sự vô hình; Đó không phải là thứ khoa học có thể xác định hoặc chiến lược. Con quỷ xuất phát từ cách giải thích của Exorcist về ý tưởng đó là một thứ gì đó mạnh mẽ hơn một Freddy hoặc Jason. Một cái gì đó không thể bị bắn hoặc đâm hoặc phát nổ.

    Trước khi nó có thể bị tấn công, chứ đừng nói đến việc đánh bại, trước tiên nó phải được tin vào - khủng khiếp và đe dọa đến linh hồn vì điều này có thể là cho linh mục trẻ và linh mục già bị buộc tội cung cấp sự trừ tà khí hậu. Cha Karras và Merrin dành hành động thứ ba của bộ phim để chống lại quỷ dữ để kiểm soát linh hồn của Regan. Và khi làm như vậy, Karras, một người đàn ông có niềm tin dao động trong hầu hết các bộ phim, cuối cùng đã tin vào điều tốt thực sự duy nhất mà anh ta biết bằng cách hy sinh bản thân để cứu cô bé đó.

    Bộ phim nào đáng sợ nhất thế giới?

    10 bộ phim kinh dị đáng sợ nhất từ ​​trước đến nay..
    The Exorcist (1973).
    Di truyền (2018).
    Sự kết hợp (2013).
    The Shining (1980).
    Vụ thảm sát Chainsaw Texas (1974).
    Chiếc nhẫn (2002).
    Halloween (1978).
    Sinister (2012).

    Bộ phim cũ đáng sợ nhất là gì?

    53 bộ phim kinh dị kinh điển hay nhất mọi thời đại..
    của 53. Amityville Horror (1979) ....
    của 53. Những con chim (1963) ....
    của 53. Ganja & Hess (1973) ....
    của 53. Cat People (1942) ....
    của 53. Psycho (1960) ....
    của 53. The Shining (1980) ....
    của 53. Dead of Night (1945) ....
    của 53. Gaslight (1944).

    Bộ phim hiện đại đáng sợ nhất là gì?

    31 bộ phim kinh dị hiện đại hay nhất..
    Những người lạ.....
    Chiếc nhẫn.....
    Candyman (2021) ....
    Một vết cắt của người chết.....
    Rec.....
    Quỷ từ chối.....
    Ác tính.Chúng ta hãy tránh xa điều này trước tiên: ác tính, thực sự, kỳ lạ như địa ngục.....

    Bộ phim kinh dị kinh dị hay nhất là gì?

    Cho dù bạn là một người hâm mộ phim kinh dị hay vẫn nhận được đôi cánh phim đáng sợ của bạn, đây là những điều không thể bỏ qua ...
    The Exorcist (1973) ....
    Babadook (2014) ....
    Một cơn ác mộng trên phố Elm (1984) ....
    Dưới cái bóng (2016) ....
    Halloween (1978) ....
    Nó theo sau (2014) ....
    Những ngọn đồi có mắt (2005).