Các chính sách kinh tế để kích thích tăng trưởng kinh tế

Tìm kiếm không gian, dư địa mới cho gói kích cầu

Trước diễn biến phức tạp của làn sóng thứ tư đại dịch Covid-19 gây tổn thất nặng nề cho doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung, những gói kích thích kinh tế đã và đang triển khai trong gần hai năm qua vừa chưa đủ lớn, chưa đủ mạnh lại vừa có hạn chế, Nghị quyết kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa XV đầu tháng 11/2021 đã yêu cầu Chính phủ ngay trong năm 2021 phải đề xuất ban hành chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.

Chủ tịch Quốc hội giao nhiệm vụ cho các cơ quan của Quốc hội làm việc với các cơ quan liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học để nghiên cứu cơ sở thực tiễn và khoa học, từ đó đưa ra gói hỗ trợ phù hợp.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, ông Vũ Hồng Thanh cho biết, gói hỗ trợ cần đủ lớn và có trọng tâm, phải khả thi và thực thi nhanh, tập trung cả phía cung và cầu, phối hợp hài hòa hiệu quả các chính sách vĩ mô, tạo sự thay đổi cho nền kinh tế nhưng phải an toàn, tránh lãng phí, hạn chế rủi ro.

Trên cơ sở nhiệm vụ cấp bách nói trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là đơn vị được giao chủ trì soạn thảo gói kích cầu mới. Chia sẻ với báo chí hôm 23/11, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết, cơ quan này đã hoàn thành báo cáo về Chương trình phục hồi kinh tế-xã hội và trình Chính phủ cho ý kiến thông qua với 5 chính sách chính.

Đó là các chính sách về phòng, chống dịch Covid-19, chính sách an sinh xã hội, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, chính sách kích cầu đầu tư công và chính sách quản lý điều hành để bảo đảm cân đối vĩ mô, kiểm soát lạm phát và rủi ro. 

Tổng quy mô chương trình phục hồi phát triển kinh tế-xã hội này có thể lên tới 800.000 tỷ đồng, được thực hiện trong hai năm 2022 và 2023. Trong đó, năm 2022 là để phục hồi kinh tế và năm 2023 để kích thích phát triển.

Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nền kinh tế có thể đạt mức tăng trưởng 6% trong năm 2022 và cao hơn trong năm 2023 nếu các chính sách phục hồi kinh tế-xã hội được thực hiện nhanh.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng cho biết, kỳ họp bất thường của Quốc hội dự kiến sẽ diễn ra vào cuối tháng 12/2021 hoặc đầu tháng 1/2022 để xem xét 5 nội dung quan trọng, trong đó có đề án xây dựng cơ chế, chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ kịp thời triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội này. 

Ngay sau khi dự thảo Chương trình nói trên được công bố, nó đã gây được hiệu ứng mạnh đối với nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán chứng kiến nhiều phiên tăng điểm đầy hứng khởi, một trong những nguyên nhân quan trọng được đánh giá là do tâm lý nhà đầu tư hưng phấn với “sóng” kích cầu. Hầu hết các bộ, ngành, địa phương, chuyên gia kinh tế bày tỏ sự đồng thuận với chủ trương của gói kích cầu này.

Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021 diễn ra ngày 5/12/2021, do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Ban Kinh tế Trung ương, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức, TS Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Thành viên Hội đồng Tư vấn giám sát tài chính quốc gia đã thay mặt nhóm nghiên cứu Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và các chuyên gia trình bày tham luận “Một số gợi ý chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ hỗ trợ phục hồi phát triển kinh tế”.

Theo TS Lực, Việt Nam và nhiều nước trên toàn cầu đang trong tình thế “tiến thoái lưỡng nan” do phải tính toán vừa hỗ trợ phục hồi kinh tế vừa phải thu hẹp một số chính sách hỗ trợ để hạn chế rủi ro lạm phát. Tuy vậy, nền kinh tế Việt Nam đang phục hồi hình chữ U, cảnh báo nguy cơ lỡ nhịp và tụt hậu nếu không kịp thời có chương trình hỗ trợ đặc biệt.

Bao nhiêu là đủ?

Trước đó, trao đổi ý kiến với báo Thời Nay, TS Cấn Văn Lực cho rằng, gói kích thích 800.000 tỷ đồng thoạt nhìn thì thấy rất lớn, nhưng con số thực chi sẽ không đến ngần ấy. Bởi vì phần giãn, hoãn nợ vay, lãi suất là ngân hàng chỉ cho doanh nghiệp chậm trả; phần mà Tổng công ty Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) đầu tư vào doanh nghiệp chỉ là phần tạm ứng để đầu tư, sẽ thu hồi trong tương lai; phần chi cho đầu tư công thì có thể có phần trùng lắp với ngân sách đầu tư công 2,83 triệu tỷ đồng đã được thông qua…

Nhóm chuyên gia cũng bày tỏ đồng tình với gói hỗ trợ lãi suất quy mô 20.000-30.000 tỷ đồng mà Bộ Tài chính đang xây dựng vì cho rằng nó khả thi và hấp thu được trong hai năm tới.

Tổng tài khóa dự kiến là khoảng 678.000 tỷ đồng, trong đó thực chi 383.000 tỷ đồng (chiếm 4,71% GDP 2021), trên cơ sở giả định GDP 2021 là 2%.

Bên cạnh chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có vai trò quan trọng, hỗ trợ chính sách tài khóa. TS Cấn Văn Lực đưa ra dự kiến quy mô gói hỗ trợ tiền tệ là 65.000 tỷ đồng, giá trị thực tế 6.100 tỷ đồng (chiếm 0,08% GDP 2021). 

Về an sinh xã hội, bên cạnh những gói đang triển khai, ông Lực đề xuất hỗ trợ tiền thuê nhà cho lao động ngoại tỉnh quay về phía nam làm việc trong ba tháng, mỗi tháng 1 triệu đồng (ngân sách mất khoảng 6.000 tỷ đồng) và hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động mất 6.800 tỷ đồng. Tổng gói an sinh xã hội là 12.800 tỷ đồng (khoảng 0,16% GDP 2021).

Các gói hỗ trợ khác được đề xuất bao gồm giảm tiền điện, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, SCIC đầu tư vào doanh nghiệp. “Tổng hợp quy mô gói 800.000 tỷ đồng này theo dự kiến phân bổ sử dụng của chúng tôi con số chính thức sẽ là 843.845 tỷ đồng trên danh nghĩa, thực chi là 445.760 tỷ đồng, chiếm khoảng 5,48% GDP năm 2021”, ông Lực kết luận.

Cần kích cầu hiệu quả

Nhấn mạnh tính cấp thiết của chương trình, TS Cấn Văn Lực nêu quan điểm, đặt giả thiết GDP năm 2021 là 2%, nếu thực hiện chương trình này, GDP năm 2022 có thể đạt 6-7,5%, nếu không thực hiện thì GDP có thể chỉ đạt 3,5-4%.

Con số GDP phải đạt 6-6,5% như Nghị quyết Quốc hội đã giao chỉ tiêu, đã có nhiều ý kiến lo ngại rằng khó khả thi, trong bối cảnh GDP năm 2020 chỉ đạt 2,91% và quý III/2021 xuống âm 6,17%. 

Tuy nhiên, theo PGS, TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế, nếu kinh tế năm 2022 không tăng trưởng được đến mức ấy thì đồng nghĩa chúng ta đang tụt hậu, vì gần hai năm qua doanh nghiệp và nền kinh tế đã quá kiệt quệ vì dịch bệnh.

Trao đổi ý kiến với báo chí, TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho rằng, mức GDP 6-6,5% là mức tăng trưởng đột phá, muốn thành công cần có chính sách kích thích kinh tế cũng đột phá tương xứng.

Trước câu hỏi “nguồn lực ở đâu cho kích cầu?”, TS Lực cho hay, hiện nay dư địa chính sách tài khóa vẫn còn tương đối khả quan do mấy năm vừa qua được củng cố tương đối tốt. Nền tài khóa của Việt Nam được quốc tế đánh giá là vững chãi, còn dư địa sử dụng nhưng phải đi kèm với kiểm soát. Chính sách tiền tệ vẫn còn một phần dư địa, tuy nhiên ít hơn vì lãi suất đã giảm tương đối sâu.

Đánh giá về tác động đến vĩ mô, TS Cấn Văn Lực cho rằng khả thi. “Chúng ta có thể phải chấp nhận mức thâm hụt ngân sách 5,1% GDP trong năm 2022 và đến năm 2023 là gần 6% GDP. Nợ công và ngưỡng trả nợ của Chính phủ không có vấn đề gì cả, vẫn trong ngưỡng an toàn. Lạm phát và tỷ giá sẽ bị tác động không nhiều, nếu dòng tiền đổ vào các lĩnh vực hợp lý được sử dụng hiệu quả”.

Ông Trương Văn Phước, nguyên Quyền Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia khẳng định, hiện tại dư địa điều hành chính sách  tài khóa còn lớn do thu ngân sách tăng, bội chi ngân sách và trần nợ công trong ngưỡng cho phép. Dư địa chính sách tiền tệ vẫn còn. Với mức lạm phát đến cuối tháng 11/2021 thấp (CPI tăng dưới 2%, lạm phát cơ bản dưới 1%) và có khả năng dưới 3% cuối năm 2021, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể giảm lãi suất điều hành ít nhất 1%, mở rộng và nới lỏng điều kiện cho vay tái chiết khấu, tái cấp vốn,… qua đó đưa lãi suất cho vay thương mại bình quân giảm xuống. 

Để hỗ trợ cho chính sách tiền tệ, ông Phước kiến nghị Quốc hội xem xét việc đặt ra mức lạm phát mục tiêu bình quân trong khoảng thời gian 3-5 năm. Không nhất thiết chính sách tiền tệ phải điều hành sao cho lạm phát hằng năm dưới mục tiêu 4% mà có thể trong khoảng 3-5 năm, bình quân 4%/năm.

Vấn đề còn lại chỉ là thực thi gói kích cầu sao cho hiệu quả. PGS, TS Đinh Trọng Thịnh, chuyên gia kinh tế cho rằng, cần thiết kế gói kích cầu đơn giản nhất dù là kích cầu doanh nghiệp hay là an sinh xã hội. Thực tế các gói 16.000 tỷ đồng, gói 62.000 tỷ đồng hay gói 38.000 tỷ đồng mới đây dù đã được cải thiện dần nhưng vẫn thiếu tính cụ thể ở cả điều kiện lẫn đối tượng thụ hưởng, vẫn còn nhiều vướng mắc ở khâu thực thi, khiến cho nhiều người không thể tiếp cận. 

Trong khi đó, TS Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính tiền tệ quốc gia lại tiếp cận vấn đề dưới một lo ngại khác. Ông Nghĩa cho rằng, bây giờ là lúc nên nghiên cứu “rút củi đáy nồi” cho chính sách tiền tệ. Bởi vì từ khi có quy định giãn, hoãn nhóm nợ, nợ xấu bỗng trở thành không xấu, ngân hàng bỗng tăng trưởng lợi nhuận trong khi dòng tiền khó khăn, chứng tỏ tồn đọng nợ xấu rất lớn.

“Phát triển không phải bằng mọi giá mà là phát triển để phục hồi kinh tế, nhưng vẫn phải bám vào mục tiêu dài hạn, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững, cả về kinh tế, môi trường, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát”.

(Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021 ngày 5/12/2021)

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.

Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: sự tích lũy tài sản (như vốn, lao động và đất đai) và đầu tư những tài sản này có năng suất hơn. Tiết kiệm và đầu tư là trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính sách chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.[1]

Tăng trưởng và phát triển

Quy mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người (Per Capita Income, PCI).

Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính).

Tổng sản phẩm quốc dân (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng.

Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số. Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số.

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.

Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn.

Đo lường tăng trưởng kinh tế

Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn.

Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.

Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:

y = dY/Y × 100(%),

trong đó Y là quy mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế

Để giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế học dùng các mô hình kinh tế.

  • Mô hình David Ricardo (1772-1823) với luận điểm cơ bản là đất đai sản xuất nông nghiệp (R, Resources) là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Nhưng đất sản xuất lại có giới hạn do đó người sản xuất phải mở rộng diện tích trên đất xấu hơn để sản xuất, lợi nhuận của chủ đất thu được ngày càng giảm dẫn đến chí phí sản xuất lương thực, thực phẩm cao, giá bán hàng hóa nông phẩm tăng, tiền lương danh nghĩa tăng và lợi nhuận của nhà tư bản công nghiệp giảm. Mà lợi nhuận là nguồn tích lũy để mở rộng đầu tư dẫn đến tăng trưởng. Như vậy, do giới hạn đất nông nghiệp dẫn đến xu hướng giảm lợi nhuận của cả người sản xuất nông nghiệp và công nghiệp và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nhưng thực tế mức tăng trưởng ngày càng tăng cho thấy mô hình này không giải thích được nguồn gốc của tăng trưởng.
  • Mô hình hai khu vực tăng trưởng kinh tế dựa vào sự tăng trưởng hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp trong đó chú trọng yếu tố chính là lao động (L labor), yếu tố tăng năng suất do đầu tư và khoa học kỹ thuật tác động lên hai khu vực kinh tế. Tiêu biểu cho mô hình hai khu vực là mô hình Lewis, Tân cổ điển và Harry T. Oshima.
  • Mô hình Harrod-Domar nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên.
  • Mô hình Robert Solow (1956) với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng. Một nền kinh tế có mức tiết kiệm cao hơn sẽ có mức sản lượng cao hơn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (tăng trưởng kinh tế bằng không (0)).
  • Mô hình Kaldor tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phát triển kỹ thuật hoặc trình độ công nghệ.
  • Mô hình Sung Sang Parknguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư quốc gia cho đầu tư con người.
  • Mô hình Tân cổ điển nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức kết hợp hai yếu tố đầu vào vốn(K) và lao động (L).

Trước Keynes, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phân biệt rành mạch tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế. Hơn nữa, ngoại trừ Schumpeter, các trường phái trên đều không coi trọng vai trò của tiến bộ kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế.

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mô Keynes tiêu biểu là mô hình Harrod-Domar. Mô hình này dựa trên hai giả thiết căn bản: (1) giá cả cứng nhắc, và (2) nền kinh tế không nhất thiết ở tình trạng toàn dụng lao động. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên. Từ đó, họ suy luận ra được rằng một khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì sẽ càng ngày càng không cân bằng (mất ổn định kinh tế).

Trong khi đó, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển xây dựng mô hình của mình dựa trên hệ giả thiết mà hai giả thiết căn bản là: (1) giá cả linh hoạt, và (2) nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng lao động. Mô hình tăng trưởng kinh tế của họ cho thấy, khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì đó chỉ là nhất thời, và nó sẽ mau chóng trở về trạng thái cân bằng.

Các nhân tố của tăng trưởng doanh thu

Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng.

  • Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức, "một lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu không có số vốn nhân lực này thì sẽ không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến."[2]
  • Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô.
  • Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi....
  • Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không phải là sự sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên cứu; công nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng được là nhờ "phần thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế cho phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng.

Hạch toán tăng trưởng kinh tế

Hạn chế của các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế

Các chỉ tiêu đo lường mức tăng trưởng kinh tế được sử dụng làm thước đo trình độ phát triển nền kinh tế một cách cụ thể, dễ hiểu và nó trở thành mục tiêu phấn đấu của một chính phủ vì nó là tiêu chí để người dân đánh giá hiệu quả điều hành đất nước của chính phủ.

Nhưng tăng trưởng kinh tế không phản ảnh được chính xác phúc lợi của các nhóm dân cư khác nhau trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo có thể tăng lên, chênh lệch giữa nông thôn và thành thị có thể tăng cao và bất bình đẳng xã hội cũng có thể tăng. Tăng trưởng có thể cao nhưng chất lượng cuộc sống có thể không tăng, môi trường có thể bị hủy hoại, tài nguyên bị khai thác quá mức, cạn kiệt, nguồn lực có thể sử dụng không hiệu quả, lãng phí.

Xem thêm

  • Tổng sản phẩm quốc nội
  • Tổng thu nhập quốc dân
  • Mô hình tăng trưởng Solow Handiven
  • Phát triển kinh tế

Tham khảo

  • Samuelson Paul A., Nordhalls William D, Kinh tế học, Nhà xuất bản Tài chính (2007).
  • Begg David, Fischer Stanley, Dornbusch Rudiger, Kinh tế học, Nhà xuất bản Thống kê (2007).

Chú thích

  1. ^ Các lý thuyết Tăng trưởng kinh tế Lưu trữ 2016-10-02 tại Wayback Machine, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
  2. ^ Begg, Tr.559.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tăng_trưởng_kinh_tế&oldid=69352513”