Câu 2 cảm nhận phân tích hai khổ thơ đầu trong bài thơ Tràng giang của nhà thơ Huy Cận

Nói về Thơ mới, ta không thể nào không nhớ tới lời nhận xét của nhà phê bình Hoài Thanh: "Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng, ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận." Đúng vậy, Huy Cận (một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ Mới) trước Cách Mạng Tháng 8 rất buồn, ông luôn có xu hướng "vui chung vũ trụ để nguôi sầu trần gian". Bài thơ "Tràng Giang" - linh hồn của tập thơ "Lửa Thiêng" chính là những gì kết tinh nhất của hồn thơ Huy Cận. Khổ thơ 1 và 2 của bài thơ miêu tả bức tranh con sông buồn ảo não, qua đó bộc lộ tâm trạng của chính tác giả.

Câu 2 cảm nhận phân tích hai khổ thơ đầu trong bài thơ Tràng giang của nhà thơ Huy Cận

Bài thơ "Tràng Giang" gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc ngay từ nhan đề và lời đề từ của tác phẩm. Trong từ điển Hán Việt, "Tràng giang" có nghĩa là sông dài.Nhưng thay vì sử dụng "Trường giang" ( cũng có nghĩa là sông dài) thì Huy Cận đã chọn "Tràng giang" với hai âm "ang" liên tiếp. Vì sao? Bởi âm "ang" là một âm mở, nó mở ra không gian sông nước bao la, rộng lớn, mênh mông bát ngát. Dòng sông không tĩnh tại, mà luôn luôn giãn nở, chảy dài. Đồng thời, có lẽ đây cũng là sự kế thừa của tác giả từ câu thành ngữ "Tràng giang đại hải". Đây không chỉ là một dòng sông, dòng nước thông thường, mà nó còn là dòng chảy của lịch sử, của biết bao kiếp người. Câu đề từ: "Mênh mông trời rộng nhớ sông dài" khắc họa một nét buồn man mác của thiên nhiên cảnh vật. Tựu chung lại, cả lời đề từ và nhan đề đều giúp khái quát và lột tả rõ hơn nội dung chính của cả bài thơ.

Mở đầu bài thơ, tác giả viết: 

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song"

Từ "sóng" được nhà thơ nhân hóa, ẩn dụ để thể hiện tâm trạng của chính ông. Không phải những đợt sóng mạnh vỗ bờ ào ạt, mà chỉ là những "gợn" sóng nhỏ nhẹ nhàng. Từng làn sóng nhẹ xô vào bờ cát thật là buồn biết bao! Đối lập với dòng nước lớn, đối lập với không gian bao la là hình ảnh một con thuyền nhỏ bé. Thế nhưng, trên con thuyền ấy lại không hề có sự xuất hiện của con người. Con thuyền đang "buông xuôi mái chèo". Trong thi ca xưa, con người luôn cô đơn và nhỏ bé trước thiên nhiên rợn ngợp hùng vĩ, nhưng dưới ngòi bút của Huy Cận, bức tranh thiên nhiên mà ông vẽ ra thậm chí còn cô liêu, tĩnh mịch hơn khi không có cả sự xuất hiện của con người. Hình ảnh buông xuôi mái chèo, phải chăng cũng diễn tả nỗi bất lực, buông xuôi của nhà thơ trước không gian, trước thời cuộc!? Hai từ láy "điệp điệp" và "song song" được tác giả khéo léo đặt ở cuối câu thơ nhằm tạo ra những dư ba, dư âm vang vọng. Tuy câu chữ đã dừng lại, nhưng ý thơ, tứ thơ sẽ còn vang vọng mãi.

Đọc hai câu thơ cuối của khổ thơ thứ nhất, ta có thể thấy được sự đan xen giữa lối thơ cổ điển và phong cách thơ hiện đại:

"Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng"

Thuyền và nước là những hình ảnh thơ, những thi liệu vô cùng quen thuộc trong thơ ca cổ. Tưởng chừng như, chúng sẽ luôn gắn bó, luôn đi liền với nhau; nhưng ở những câu từ của Huy Cận, ta lại thấy sự chia lìa, xa cách. Một bên thì "về", một bên thì "lại" chứ chẳng thể chung đường với nhau. Nhưng dù cho có đi ngả nào, có trôi dạt về đâu thì chúng cũng vẫn sẽ mang nỗi buồn sầu đơn côi ấy. Tâm trạng của nhà thơ đã giăng mắc và bao trùm, phủ kín lên khắp mọi cảnh vật. Trong những ngã rẽ sầu ảo, cô đơn, hình ảnh "cành củi khô" chợt xuất hiện và lọt vào trong thi từ của Huy Cận. Đây là một nét hết sức mới mẻ, bởi "củi" không hề mang chất thơ, cũng chưa từng có ai sử dụng nó để đưa vào thơ ca cả. Hình ảnh "cành củi" chính là ẩn dụ cho thân phận, cho những kiếp người nhỏ bé, khô héo, trôi dạt vô định, không bao giờ tìm thấy bến đỗ hay điểm dừng. Qua đây, ta phần nào thấy được tâm tư, tình cảm của tác giả dành cho con người, cho những kiếp đời khốn khổ.

Câu 2 cảm nhận phân tích hai khổ thơ đầu trong bài thơ Tràng giang của nhà thơ Huy Cận

Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, tác giả đang miêu tả Tràng Giang ở tầm gần, vậy thì tới khổ thơ thứ hai, Huy Cận di chuyển tầm nhìn ra xa hơn - thêm cảnh, nhưng cũng thêm buồn:

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu"

Ở đây, nhà thơ nói tới một cồn cát, nhưng chỉ là một cồn cát "nhỏ"; nhà thơ nói tới một ngọn gió, nhưng cũng chỉ là một ngọn gió "đìu hiu". Tuyệt nhiên, trong thế giới của "Tràng giang", chỉ có những hình ảnh nhỏ bé, cô đơn và lạnh lẽo. Hệ thống từ láy được tác giả sử dụng xuyên suốt từ đầu bài thơ, nhưng nó không làm cho câu thơ trở nên vui tươi hơn, mà chỉ càng gợi buồn, gợi sự nhỏ nhoi, côi cút.

Người ta thường nói, muốn tìm hiểu về cuộc sống ở nơi nào đó, hãy đi đến con sông và phiên chợ. Nhưng dòng sông ở đây đã là dòng tràng giang "buồn điệp điệp", còn phiên chợ thì sao…:

"Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều"

Câu thơ có thể được hiểu theo hai nghĩa: một là ở đâu đó, từ phía xa có tiếng chợ chiều vọng lại; hai là không hề có một âm thanh nào của sự sống từ phiên chợ ấy cả. Hiểu theo cách nào thì cũng đều đúng. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật lấy động khắc tĩnh để miêu tả một không gian vô cùng hoang vắng, tĩnh mịch và ảm đạm. Không hề có dấu hiệu nào của sự sống từ nơi đây, chỉ có một mình Huy Cận đang đứng ngẩn ngơ buồn giữa sông nước, giữa đất trời.

Hai câu thơ tiếp theo, những hình ảnh thơ sóng đôi với nhau, mở ra một không gian bao la, đa chiều kích:

"Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu"

Nắng chiếu xuống làm cho dòng sông vốn đã dài lại càng dài ra. Trời lên cao làm cho bầu trời vốn đã rộng lại càng trở nên rộng hơn. Không gian đang dần dần giãn nở, ý thơ cũng vì thế mà trở nên to lớn hơn. Thông thường, người ta hay nói rằng "cao chót vót", nhưng thay vào đó, tác giả của chúng ta lại sử dụng từ "sâu chót vót". Ông muốn xoáy sâu vào độ lớn của vũ trụ, không gian mở ra bốn chiều: cao chót vót, sâu thăm thẳm rộng mênh mông và dài dằng dặc. Cũng nhờ có nghệ thuật tạo hình của điện ảnh độc đáo ấy, Huy Cận được mệnh danh là một nhà thơ mang nỗi sầu của vũ trụ. Không gian càng bao la, càng rộng lớn bao nhiêu, thì lòng người lại càng trống trải, thiếu vắng bấy nhiêu. Hình ảnh "bến cô liêu" gợi tả một nơi vốn dĩ phải đông đúc kẻ qua người lại, nay lại không có cả một cái bóng hay một tiếng thì thầm. Thật là đáng buồn làm sao!

Tóm lại, hai khổ thơ đầu của bài thơ "Tràng giang" là hình ảnh thiên nhiên buồn cùng với lòng tác giả.Hồn thơ Huy Cận trước Cách Mạng Tháng 8 luôn mang nỗi sầu vô cùng ảo não và luôn luôn bị ám ảnh bởi không gian rộng lớn, rợn ngợp. Tràng giang mà tác giả viết về, không chỉ đơn thuần là dòng sông, mà nó là dòng chảy não nề của tâm trạng con người trước thời cuộc, là dòng chảy của những kiếp người lênh đênh, là dòng chảy của lịch sử thăng trầm… Ngòi bút của Huy Cận tuy buồn nhưng lại rất lôi cuốn người đọc, người nghe, để lại cho độc giả những dư vị sâu sắc, khó phai nhòa.

Viết bởi Bùi Ngọc

Để tìm hiểu sâu hơn về giá trị tác phẩm Tràng Giang, mời các em tham khảo một số bài văn mẫu Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang sau đây. Hi vọng với các bài văn mẫu đặc sắc này các em sẽ có thêm tài liệu, cách triển khai để hoàn thiện bài viết một cách tốt nhất!

Thơ là cây đàn muôn diệu của tâm hồn của nhịp thở con tim, thơ diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của con người, niềm vui, nỗi buồn sự cô đơn tuyệt vọng. Có những tâm trạng của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ, vì vậy thơ không chỉ nói hộ lòng mình mà thơ còn thể hiện những băn khoăn suy nghĩ về sự biến đổi của thế sự với cảm xúc dạt dào khi thấy cái tôi nhỏ bé trước vũ trụ bao la Huy Cận đã viết nên tác phẩm “Tràng giang”, đặc biệt qua hai khổ thơ đầu của đoạn thơ ta cảm nhận rõ được điều đó.

Câu 2 cảm nhận phân tích hai khổ thơ đầu trong bài thơ Tràng giang của nhà thơ Huy Cận

Quả không sai khi nói rằng với người làm thơ, thơ là phương tiện biểu đạt cho cảm xúc, cảm xúc chân thành, mãnh liệt mới là cơ sở tạo nên một tác phẩm nghệ thuật chân chính, cảm xúc càng mãnh liệt, thăng hoa thơ càng có sức ám ảnh trái tim bạn đọc.

Mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà thơ khi sáng tạo nghệ thuật cùng với nỗi buồn thế sự đầy sâu sắc Huy Cận đã xây dựng được một phong cách hoàn toàn mới mẻ, khác với những nhà thơ cùng thời. Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông có thể kể đến “Tràng giang”, theo lời kể của Huy Cận bài thơ được gợi cảm xúc từ một buổi chiều thu năm 1939 khi tác giả đứng ở bờ Nam Bến Chèm. Trước cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, những cảm xúc thời đại đã dồn về khi thi sĩ thấy cái tôi của mình quá nhỏ bé so với vũ trụ nên ông đã gửi gắm vào trong tác phẩm.

Và cảm xúc của nhà thơ có lẽ thể hiện rõ nhất qua hai khổ thơ đầu:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót,

Sông dài trời rộng bến cô liêu”.

Hai khổ thơ là bức tranh thiên nhiên sông nước hùng vĩ đồng thời ẩn chứa trong đó là một trái tim đa sầu, đa cảm với biết bao cảm xúc chan chứa không nói nên lời.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ Huy Cận đã sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường “thuyền, sóng”. Đây là một bức tranh đẹp nhưng lại buồn đến tê tái, nói về điều này nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét thiên nhiên trong thơ mới đẹp nhưng lại buồn đến da diết bâng khuâng. Nỗi buồn đó được lý giải trong câu nói của Huy Cận lúc đó chúng tôi mang một nỗi buồn đó là nỗi buồn thế hệ, chưa làm được gì cho đất nước trước cảnh nước mất nhà tan.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song”.

Từ “điệp điệp”, đã diễn tả tinh tế hình tượng của sóng nước. Những con sóng ấy sao hết lớp này đến lớp khác triền miên, vô tận. Ở đây nhà thơ miêu tả cái buồn của thiên nhiên hay cái buồn của con người, có lẽ là cả hai bởi Nguyễn Du từng viết.

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Dường như nỗi buồn của tâm cảnh đã nhuộm vào ngoài cảnh để rồi những nỗi buồn ấy gợi lên theo từng đợt trong lòng thi nhân.

Thuyền và nước là hai sự vật luôn đi cùng với nhau vậy mà ở trong tác phẩm này nó lại trở nên bơ vơ, lạc lõng. Thuyền là hiện diện của sự sống con người, nhưng đó chỉ là sự xuất hiện thoáng qua trong giây lát, “con thuyền xuôi mái” là hình ảnh thực nhưng cũng đầy chất suy tưởng nó gợi cho ta nhớ tới hình ảnh của những kiếp người trôi nổi, lạc lõng không biết đi đâu. Phải chăng chính Huy Cận cũng đã bắt gặp bóng dáng đó trong cuộc đời mình khi “Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, / Chọn một dòng hay để nước trôi đi”.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,

Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

Con thuyền và cành củi khô là hai hình ảnh được sử dụng hết sức táo bạo, chúng đang cùng xuôi trên dòng tràng giang. Trong thơ của mình Huy Cận đã nhiều lần nhắc đến nỗi sầu buồn thiên thu, đến đây ta lại bắt gặp thêm một nỗi sầu nữa đó là sầu trăm ngả, chỉ với 3 từ cùng một cành củi khô đã nói lên được hình ảnh của những kiếp người nhỏ bé trong xã hội cũ, nếu trong thơ trung đại mỗi hình ảnh chất liệu đưa vào thơ đều phải được gọt giũa, chọn lọc như tùng, cúc, trúc, mai thì trong Tràng giang, Huy Cận đã đưa vào một hình ảnh rất đời thường: củi khô.

Phải chăng cành củi khô ấy cũng chính là nỗi cô đơn lạc lõng trong lòng tác giả, chính lúc bắt gặp cành củi khô ấy tác giả đã đối diện với những cái hữu hạn lớn lao của đất trời từ đó nỗi sầu nhân thế ấy đã được nêu lên trở thành nỗi buồn chung của một thế hệ thanh niên yêu nước. Vẫn là bức tranh thủy mặc sông nước ấy nhưng nó đã được vẽ thêm đất, thêm làng vậy mà nỗi buồn tái tê ấy vẫn hiện diện, nó được gợi lên qua sự tiêu điều của những cồn cỏ, sự hiu hắt của gió và sự vắng vẻ của cảnh vật.

“Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”,

Trong Chinh phụ ngâm ta đã từng bắt gặp:

“Non kỳ quạnh quẽ trăng treo,

Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”.

Dường như ngọn gió đìu hiu ấy đã vượt thời gian, xuyên không gian và trôi vào thơ Huy Cận. Từ láy “lơ thơ”, đã diễn tả được sự thưa thớt, rời rạc của những hòn đất nhỏ mọc trên dòng “Tràng giang”. Trên những cồn đất ấy là hình ảnh của những cây lau, cây sậy mỗi khi gió thoáng qua nó trở nên hắt hiu tiêu điều.

Câu thơ như chùng xuống càng xoáy sâu vào tâm hồn của nhà thơ, khiến ông càng trở nên bất lực và muốn tìm đến hơi ấm của con người. “Đâu tiếng làng xa”, là ở đâu không xác định, âm thanh ấy nghe thật mơ hồ, vậy mà đó lại là âm thanh của chợ đã vãn nghe càng buồn hơn, cũng viết về chợ nhưng trong thơ của Nguyễn Trãi hình ảnh ấy lại hiện lên thật náo nhiệt đông đúc.

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ”

Vui nhất là âm thanh của chợ vui, buồn nhất là âm thanh của chợ vãn. Ở câu câu thơ này cái tinh tế của Huy Cận là ở chỗ ông lấy động để nói tĩnh, lấy tiếng chợ vãn để gợi nên không khí vắng lặng của không gian đồng thời thể hiện mong muốn được giao hòa, giao cảm của con người dù đó chỉ là thính giác.

Đã có ý kiến cho rằng, dòng tràng giang là một dải buồn mênh mang. Thật đúng như vậy và hai câu thơ tiếp theo cái buồn của thiên nhiên của con người đã được tác giả đặt đến cái khôn cùng của nó.

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót,

Sông dài trời rộng bến cô liêu”.

Đến đây nhà thơ đã vẽ nên một không gian ba chiều rộng lớn là chiều cao, chiều dài, chiều rộng, còn nhà thơ thì đứng ở bến cô liêu nơi giao thoa của vũ trụ đối lập giữa không gian lớn lao với cái tôi nhỏ bé của con người, từng vạt nắng chiếu xuống mặt nước phản chiếu lên bầu trời không gian như được đẩy lên cao hơn đến sự khốn cùng của nó “sâu chót vót”, là từ ngữ không chỉ để nói về độ sâu, mà còn dùng để nói về độ cao, tạo cho người đọc cảm giác về sự rợn ngợp của không gian và đứng trước không gian đó con người càng trở nên nhỏ bé đáng thương hơn.

Cuộc sống là điểm xuất phát là, đối tượng khám phá, là cái đích cuối cùng của thơ ca. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn bắt rễ từ đời sống hiện thực và có sức lan tỏa mãi trong trái tim bạn đọc. Đến với Tràng giang của Huy Cận ta như khám phá được những nỗi niềm nhà thơ ký thác, nghe được tiếng thở dài bất lực của thi nhân trước cảnh nước nhà đang chìm trong khói lửa và tan tốc của chiến tranh, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị giàu hình ảnh, tất cả đã được làm nên thành công cho Tràng giang của Huy Cận.

Tác phẩm đã khép lại nhưng mỗi lần đọc bài thơ nói chung và hai khổ thơ đầu nói riêng ta như thấy được nỗi sầu nhân thế của tác giả trong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Phân tích hai khổ đầu bài thơ Tràng giang nhưng có lẽ đó chính là lý do tại sao dù ra đời đã lâu nhưng Tràng giang vẫn không bị bụi thời gian phủ mờ nó vẫn còn sáng mãi trong lòng bạn đọc yêu thơ nhiều thế hệ.

Huy Cận tưởng như đã đem hồn thơ với nỗi buồn thiên cổ đầy sầu mộng của mình để lượm lặt những nỗi buồn nhân thế mà đem vào trang thơ. Tràng Giang có thể nói là bài thơ thể hiện rõ nhất điệu hồn ấy của phong cách thơ Huy Cận. Đặc biệt hai khổ đầu bài thơ, là những nét vẽ vừa đẹp vừa thấm đẫm chút buồn man mác phủ lên toàn bộ cảnh vật.

 “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Nỗi ám ảnh thời gian luôn vận động theo quy luật tuyến tính, một đi không trở lại đã khiến Xuân Diệu luôn vội vàng, cuống quýt trong từng nhịp điệu sống. Còn nỗi ám ảnh không gian đã mang vào trong thơ Huy Cận những thế giới rộng lớn, mênh mông sầu mộng của thi sĩ. Ở Tràng Giang cũng không phải là ngoại lệ, mở đầu bài thơ là hình ảnh sông dài với những đợt sóng buồn điệp điệp nối đuôi nhau. Cái hay ở đây, là cách nhà thơ dùng từ “tràng giang” để gọi nó, nó gợi màu sắc cổ điển, vì thế con sông trong thơ Huy Cận dường như gọi về bao nhiêu nỗi niềm xưa, bao nhiêu dấu rêu phong, bao nhiêu những con sông hoàng hà cổ đại, từ đó chảy trên dòng thời gian bất tận để đưa người đọc xuôi dòng về hiện thực. Thuyền và nước, nỗi niềm của sự chia rẽ được thể hiện rất rõ trong nỗi sầu ở câu thơ thứ ba. Nỗi sầu của dòng sông, nỗi buồn man mác của dòng chảy bất tận về muôn ngã rẽ, mang theo nỗi lòng của mình để hướng về muôn nơi, sự chia cắt của thuyền và nước, tưởng như là sự chia cắt của lòng người khiến cho sự vật cũng như tan tác, chia li. Câu thơ thứ tư, mới thực là sự đắc địa và cẩn trọng trong cách chọn từ của Huy Cận. Củi, đã là sự vật gợi sự khô héo, tàn lụi, thậm chí là mất dần sự sống. Tiếp đến, lượng từ “một’ gợi sự đơn lẻ đơn độc và lạnh lẽo trên dòng sông bất tật, thế nhưng không chỉ một mình, đơn độc mà cành củi ấy còn vô phương vô định lưu lạc về chân trời nào. Ở đây có thể thấy, Huy Cận đã đưa vào trong thơ những chất liệu từ đời thực, những chất liệu sống để diễn tả một cách chân thực, mộc mạc nhất sự cô đơn, mất phương hướng thậm chí là bế tắc của chính tác giả, hay của những cái tôi thơ Mới lúc bấy giờ. Nếu trong Tràng Giang, Huy Cận mượn cành củi khô để diễn tả tình cảnh lưu lạc, hoang hoải trong tâm hồn của những cái tôi thơ mới, thì Xuân Diệu cũng từng viết:

“Tôi là con nai bị chiều đánh lưới

Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”.

Rõ ràng, Huy Cận đã đưa vào thơ một cách trần trụi rất riêng những chất liệu của đời sống.

 “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Thiên nhiên một lần nữa xuất hiện trong thơ nhưng chỉ là những cảnh vật gợi sự khô héo, đìu hiu tàn lụi. Những cồn nhỏ như đang nương vào cơn gió để khe khẽ kể về nỗi buồn của mình. Và ngọn gió, dường như cũng mang trong nó nỗi buồn man mác của cảnh vật mà hồn thơ âu sầu ảo não của Huy Cận đã họa thành. Tiếp đến, chợ vốn là là hình ảnh của không gian sống, là biểu tượng của cuộc sống nhộn nhịp, đông đúc. Nhưng chợ ở đây, cũng là chợ chiều đã vãn. Cảnh vật héo buồn, sinh hoạt và cuộc sống của con người cũng đi dần vào thế nghỉ ngơi, vào sự buồn bã hiu quạnh. Hai câu thơ cuối có thể nói là tuyệt bút nên thơ của Huy Cận, cách dùng từ độc đáo của thi nhân đã lột tả một cách chính xác cảm giác của nhân vật trữ tình khi đứng trước thiên nhiên rộng lớn. Những chuyển động đối lập nhau : lên-xuống cùng với cách tạo vế đối nắng xuống, trời lên tạo cảm giác như  một chiếc tù giam lỏng dồn nén con người ở giữa cảm thấy ngột ngạt, bí bách và chán chường trong sự vận động xoay guồng của tạo hóa. Sâu chót vót là cụm từ độc đáo, vừa diễn tả độ sâu, vừa diễn tả độ cao, vừa tạo cảm giác mở về sự cảm nhận của người đọc. Và rồi tiếp nối mạch cảm xúc ấy, là cảm giác cô liêu, cô đơn đến cùng cực của con người giữa sông dài trời rộng, giữa sự vô tận.

Chỉ với 8 câu thơ, Huy Cận đã yểm vào đó linh hồn cho từng câu chữ, để bắt cảnh vật sống dậy với chất buồn thấm đẫm trong từng thớ vỏ, đồng thời tạo nên cảm giác âu sầu ảo não vốn rất đặc trưng trong thế giới thơ Huy Cận.

Là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, Huy Cận để lại cho kho tàng văn học Việt Nam rất nhiều tác phẩm đặc sắc. Bài thơ “Tràng Giang” được ông viết trong thời kỳ trước cách mạng với một nỗi u buồn, sự bế tắc của một kiếp người, trôi nổi lênh đênh không bến đỗ. Nỗi buồn ấy được thể hiện rõ nét ngay trong 2 khổ thơ đầu.

Mở đầu bài thơ, Huy Cận cho người đọc thấy được những hình ảnh rất đỗi quen thuộc: sóng, con thuyền, dòng sông để gợi nên cảm xúc:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song”

Tác giả khéo léo sử dụng âm Hán Việt “ang” cho danh từ “tràng giang” gợi một không gian rộng lớn, rờn ngợp. Đây cũng là một trong những phong cách làm thơ rất nổi bật của Huy Cận. Lúc này, tâm trạng của nhà thơ trở nên “buồn điệp điệp” – nỗi buồn được cụ thể hóa, được ví như từng đợt sóng dâng trào gối vào nhau, liên tiếp vào bờ. Nỗi u buồn ấy dường như tồn tại vĩnh cửu, cứ âm ỉ và dai dẳng mãi trong lòng tác giả. Từ láy “song song” như muốn nói đến hai thế giới, dù luôn gần gũi ở bên nhau nhưng chẳng bao giờ được gặp nhau.

Thông qua 2 câu thơ, tác giả đã cho chúng ta thấy được sự cô độc, đơn lẻ của con thuyền trên dòng sông, ẩn dụ cho hình ảnh cô độc của con người trên dòng đời. Huy Cận đã thành công sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập để tạo nên nét cổ kính cho câu thơ. Con thuyền và dòng nước luôn gắn bó mật thiết với nhau, nhưng qua cách thể hiện của nhà thơ chúng lại có hành động trái chiều, lạc nhịp gọi cảm giác cách xa, cô đơn,

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Có lẽ Huy Cận là người đầu tiên sử dụng hình ảnh cành củi khô trong lời thơ của mình, một hình ảnh độc đáo và táo bạo. Tác giả muốn cho mọi người thấy những nét phá cách trong phong trào thơ mới, khi mà trước đây những vật tầm thường rất ít được cho vào. Hình ảnh củi khô đời thường với một vẻ đẹp giản dị lại có một giá trị biểu đạt ghê gớm. Huy Cận khéo léo sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ và chọn lọc những từ đơn để miêu tả sự cô đơn của cảnh củi khô lênh đênh trong sự vô tận của dòng nước.

Trong khổ thơ thứ 2, tác giả miêu tả cảnh vật cô quạnh, vắng vẻ với không gian mở rộng:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Các từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi nên sự nhỏ bé, ít ỏi giữa một không gian mênh mông vô tận – đây chính là sự cảm nhận bằng thị giác. Ngoài thị giác thì tác giả còn có những cảm nhận bằng thính giác với những âm thanh của cuộc sống với tiếng làng xa vãn chợ chiều. Màu nắng chiều cùng với cảnh vật sông dài, trời rộng, bến thuyền cô liêu càng khắc họa nỗi cô đơn, nỗi buồn của con người trước cuộc đời. Người đọc có thể dễ dàng cảm nhận thấy sợ vô vọng của tác giả khi không thể tìm thấy sợi dây liên hệ nào với cuộc đời.

Hai khổ thơ đầu bài “Tràng Giang” của tác giả Huy Cận mang đến một không gian rợn ngợp với nỗi buồn và sự cô đơn trải dài vô tận. Một sự lẻ loi, đơn côi của con người trước dòng đời, không tìm thấy sự kết nối với thế giới ngoài kia. Cũng có lẽ vì vậy mà tác phẩm luôn được nhiều độc giả yêu thích, không bị bụi của thời gian phủ mờ.

Huy Cận là 1 trong những tác giả tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Thơ Huy Cận vừa có chất cổ điển vừa giàu chất suy tưởng của triết lý. “Tràng giang” thể hiện nỗi sầu của cái tôi trước” thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh trong đó thấm đượm tấm lòng đối vs quê hương đất nước của thi sĩ.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Khổ thơ trên là khổ thứ nhất trong bài “Tràng giang”. Nghệ thuật đối có nhiều đổi mới, khiến cho một mặt nó vẫn phát huy được thế mạnh của loại thơ cổ, tạo được vẻ đẹp cân xứng, không khí trang trọng, mặt khác, nó làm cho giọng điệu của bài thơ uyển chuyển, linh hoạt, tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy đối với một số bài thơ Đường luật hồi đầu thế kỉ. Hình ảnh bèo trôi dạt trên sông nối tiếp ý nghĩa của cành củi khổ trong khổ thơ đầu, đó là sự trôi dạt ko biết về đâu của những kiếp người nhỏ nhoi, lạc loài trong chính cuộc đời mình. Từ “không” xuất hiện 2 lần để khẳng định sự vô vọng từng khát khao gắn tìm chút liên kết của 1 con người: ko 1 con đò ngang dọc trên sông, ko 1 cây cầu nối liền 2 bờ bến. Tất cả chỉ làm tăng thêm cái mênh mông lặng lẽ của công việc và cả sự trống trải lặng lẽ của cảnh vật. Đặt trong toàn bộ bài thơ, khổ 1,2,3 với sự xuất hiện lần lượt của hệ thống hình ảnh nhưng ko làm cho ko gian thêm ấm áp mà chỉ làm nổi bật 1 nỗi sầu buồn đơn côi hiu quạnh của hồn người và cảnh vật.

Vào những năm 30 của thế kỷ trước, đây là những câu thơ mới mẻ, bởi trong đó xuất hiện hình ảnh giản dị, “tầm thường” là “củi một cành khô”. Thơ xưa thường nói đến những hình ảnh cao sang mà giới “tao nhân, mặc khách” thường ưa thích như trăng hoa, tuyết nguyệt… Đến thời kì Thơ mới, những hình ảnh “bình dân” như “củi một cành khô”, “con nai vàng ngơ ngác”, con hổ “gặm một mối căm hờn trong cũi sắt” v.v… mới ào ạt xuất hiện, như là chỉ dấu về một “cuộc cách mạng trong thơ” (Hoài Thanh). Họ đang không biết đi đâu về đâu, giống như cành củi khô giữa ngã ba dòng nước.

Khổ thơ thứ hai, cũng là khổ thơ cuối cùng của bài thơ, hài hoà về nét cổ điển và hiện đại, được đánh giá là đặc sắc nhất trong kết cấu của bài thơ

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Cùng với những hình ảnh vừa sang trọng vừa bình dân”, vừa rất truyền thống mà lại cũng vừa rất Tây ấy, ta bắt gặp thêm âm thanh của buổi chợ chiều đã vãn từ xa đưa tới:

“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

Đoàn Văn Cừ đã đặc tả thành công cái vẻ đẹp Việt Nam đặc thù trong bài Chợ Tết nổi tiếng:

“Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê

Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”.

Các từ “cao”, “sâu”, “rộng”, “dài” được sử dụng như một hệ thống để diễn tả không gian rộng lớn bao la. Đặc biệt, cách dùng từ đảo nghĩa và đối nghĩa giữa “lên” và “xuống”, giữa “cao” và “sâu” khiến người đọc có cảm giác bị choáng ngợp.

Đây là một hình ảnh đẹp, chứa đựng biết bao yêu mến of nhà thơ đối với thiên nhiên xứ sở. Giữa tầng tầng lớp lớp mây núi chồng chất ấy, nổi bật hình ảnh một cánh chim nhỏ đang sa xuống. Đôi cánh lấp lánh hoàng hôn khiến nó trông như 1 giọt nắng từ trên trời rơi xuống. Nhà thơ có cảm giác cả ko gian vũ trụ đang đè nặng lên đôi cánh nhỏ bé ấy khiến cho chim phải chao nghiêng đi. 2 câu thơ cuối được lấy từ 2 câu kết của Hoàng Hạc Lâu nhưng người xưa phải nhờ có khói trắng trên sông mới thấy nhớ nhà. Còn Huy Cận chẳng cần có chút “yên ba” nào cũng thấy nhớ nhà da diết. Nỗi sầu hiện đại lớn hơn so với cổ nhân. Câu thơ gợi tả hình ảnh sóng gió tràng giang dường như chỉ còn gập ghềnh 1 chỗ.

Hai khổ thơ trên sử dụng thể thơ thất ngôn rất hợp lý, hiệu quả cùng với sự kết hợp của các từ láy, biện pháp tu từ, thủ pháp nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật lên nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước thiên nhiên, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. Tràng giang là bài thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới, không chỉ miêu tả quang cảnh quê hương đất nước mà còn thể hiện 1 tình yêu nước sâu nặng cùng nỗi buồn cô đơn, bơ vơ của con người ngay trên chính quê hương mình.

—/—

Như vậy Top tài liệu đã trình bày xong bài văn mẫu Phân tích 2 khổ đầu bài Tràng Giang. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em học tốt môn Văn!