Chuối dong là gì

Trong số các loại chuối đa dạng và phong phú, chuối Laba là cái tên được nhiều tin dùng và lựa chọn, bởi không chỉ thơm ngon mà còn chứa nhiều chất dinh dưỡng thiết yếu. Vậy chuối Laba là gì? Có giống chuối già không? Cùng vào chuyên mục Mẹo vào bếp của Điện máy XANH tìm hiểu qua bài viết sau đây nhé!

Chuối Laba là giống chuối ngon, chất lượng cao được trồng nhiều nhất ở vùng cao nguyên Lâm Đồng, Lâm Hà, Đức Trọng, Đơn Dương, Lạc Dương và TP. Đà Lạt.

Ngày xưa, đây là loại chuối được người dân dùng làm vật phẩm dâng lên vua chúa, quý tộc và các quan chức người Pháp thời Pháp thuộc, nên chuối Laba còn được mệnh danh là Chuối Tiến Vua.

Ở thời kỳ hiện đại, chuối Laba ngày càng được nhiều người ưa chuộng bởi có hương vị thơm ngon rất đặc trưng.

Không những phát triển mạnh ở thị trường trong nước, giống chuối này còn là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của người dân cao nguyên ở các thị trường cao cấp như: Nhật Bản, EU,...

Đặc điểm của chuối Laba

Chuối Laba có hình dáng bên ngoài khá giống với chuối già. Chúng có phần cuống to, các cuống gần khít vào nhau, phần đầu to tròn.

Lớp vỏ của giống chuối này khá dày, bao lấy phần thịt vàng óng, sánh dẻo bên trong. Điểm nhấn đặc biệt của chuối Laba là có một mùi rất thơm, thịt lại dẻo và mang đến vị ngọt tự nhiên.

Không những thơm ngon, chuối Laba còn có hàm lượng vitamin C rất cao, giúp ích rất nhiều cho việc làm đẹp và bổ sung chất đề kháng cho cơ thể.

2. Phân biệt chuối Laba và chuối già

Nếu nhìn bằng mắt thường, chuối Laba và chuối già có đặc điểm khá giống nhau nên hay bị nhầm lẫn. Điện máy XANH cung cấp bảng phân biệt dưới đây để giúp việc lựa chọn chuối trở nên dễ dàng hơn nhé!

Tiêu chí phân biệtChuối LabaChuối già
Giống chuối

Thời gian phát triển, thu hoạch: 1 - 1.5 năm.

Thích hợp với khí hậu mát mẻ.

Thời gian phát triển, thu hoạch: 8 - 10 tháng.

Thích hợp với mọi khí hậu. Phát triển tốt nhất ở khí hậu ấm và ẩm.

Hình dáng

Cuống ngắn và khít.

Vỏ dày, trái to.

Núm chuối mập tròn.

Cuống dài và thưa.

Vỏ mỏng, trái vừa đến nhỏ.

Núm chuối thuôn dài.

Màu sắc, mùi vịRuột màu vàng óng, sánh dẻo, có vị ngọt.Ruột màu trắng, nhão, có vị hơi chua rất nhẹ.

3. Chuối Laba giá bao nhiêu, mua ở đâu?

Theo khảo sát chung trên thị trường, chuối Laba thường có giá dao động khoảng từ 15.000 - 20.000 đồng/ kg, cao hơn giá chuối bình thường từ 3.000 - 5.000 đồng/ kg. Giá trên cập nhật vào tháng 6/2021.

Bạn có thể tìm mua loại chuối này ở các cửa hàng thực phẩm, hệ thống siêu thị, cửa hàng bán trái cây Đà Lạt hoặc các trang thương mại điện tử uy tín trên thị trường nhé!

Trên đây là những thông tin chi tiết về chuối Laba là gì, cách phân biệt với chuối già mà Điện máy XANH cung cấp đến bạn. Hy vọng qua bài viết này, bạn sẽ có thêm nhiều hiểu biết về loại chuối này nhé!

Biên tập bởi Phạm Thị Phượng Nhiên • Đăng 11/06/2021

"Banana" đổi hướng tới đây. Đối với các định nghĩa khác, xem Banana (định hướng).

Đối với các định nghĩa khác, xem Chi Chuối.

ChuốiPhân loại khoa họcGiới (regnum)Plantae(không phân hạng)Angiospermae(không phân hạng)Monocots(không phân hạng)CommelinidsBộ (ordo)ZingiberalesHọ (familia)MusaceaeChi (genus)MusaCác loài

Có nguồn gốc lai ghép; xem văn bản

Chuối là tên gọi loại quả của các loài cây thuộc chi Musa; đây được coi là một trong các loại trái cây được ăn rộng rãi nhất. Những cây chuối có gốc từ vùng nhiệt đới ở Đông Nam Á và Úc. Ngày nay, chuối được trồng khắp vùng nhiệt đới.[1]

Chuối được trồng ở ít nhất 107 quốc gia.[2] Ở nhiều vùng trên thế giới và trong thương mại, "chuối" là từ thường được dùng để chỉ các loại quả chuối mềm và ngọt. Những giống cây trồng có quả chắc hơn được gọi chuối lá. Cũng có thể cắt chuối mỏng, sau đó đem chiên hay nướng để ăn giống như khoai tây. Chuối khô cũng được nghiền thành bột chuối.

Quả của những cây chuối dại (ở Việt Nam còn gọi là chuối rừng) có nhiều hạt lớn và cứng. Nhưng hầu hết loại chuối được buôn bán để ăn thiếu hạt (xem trái cây không có hạt ) vì đã được thuần hóa lâu đời nên có bộ nhiễm sắc thể tam bội. Có hai loại chuối cơ bản: các dạng chuối tráng miệng có màu vàng và được ăn khi chín, còn các loại chuối nấu được nấu khi còn màu xanh. Hầu hết chuối được xuất khẩu thuộc về loại đầu tiên; tuy nhiên, chỉ khoảng 10–15% tổng sản lượng chuối được xuất khẩu. Hoa Kỳ và các nước trong Liên minh châu Âu nhập khẩu chuối nhiều nhất.

Phân biệt hoa cái và hoa đực

Hoa cái nằm ở trên hoa đực và hoa đực nằm bên dưới hoa cái. Hoa đực không kết thành trái nhưng hoa cái có thể kết thành trái.

Thực vật học

Xem thêm: Danh sách các giống chuối

Cây chuối thuộc về họ Chuối. Nó được trồng chủ yếu để lấy trái cây của nó, và ở mức độ ít hơn là thân và để trang trí. Vì cây thường mọc lên cao, thẳng, và hơi vững, nó thường bị lầm lẫn với thân cây thật, trong khi "thân" chính của nó là một "thân giả" (tiếng Anh: pseudostem). Thân giả của một số loài có thể cao tới 2–8 m, với lá kéo dài 3,5 m. Mỗi thân giả có thể ra 1 buồng chuối màu vàng, xanh, hay ngay cả màu đỏ, trước khi chết và bị thay bằng thân giả mới.Quả của những cây chuối dại (ở Việt Nam còn gọi là chuối rừng) có nhiều hột lớn và cứng. Nhưng hầu hết loại chuối được buôn bán để ăn thiếu hột (xem Trái cây không có hột) vì đã được thuần hóa lâu đời nên có bộ nhiễm sắc thể đa bội (thường là tam bội). Cây thường mọc thành bụi và được trồng bằng cách tách rời cây non đem trồng thành bụi mới.

Quả chuối ra thành nải treo, mỗi tầng (gọi là nải) có tới 20 quả, và mỗi buồng có 3–20 nải. Các nải nhìn chung gọi là một buồng, nặng 30–50 kg. Một quả trung bình nặng 125 g, trong số đó vào khoảng 75% là nước và 25% là chất khô. Mỗi quả riêng có vỏ dai chung quanh thịt mềm ăn được. Vỏ và thịt đều ăn được ở dạng tươi hay đã qua chế biến (nấu). Những người phương Tây thường ăn thịt chuối còn tươi và vứt vỏ, trong khi một số nước Á Đông nấu rồi ăn cả vỏ và thịt. Quả chuối thường có nhiều sợi (gọi là bó libe) nằm giữa vỏ và thịt. Chuối chứa nhiều vitamin B6, vitamin C và kali.

Hoa chuối điển hình với hoa đực ở đầu và hoa cái mọc trên cao hơn hoa đực

Cây chuối có thân giả lên tới 6–7,6 m, mọc lên từ một thân ngầm. Lá chuối ra theo hình xoắn và có thể kéo dài 2,7 m và rộng 60 cm.[3] Cây chuối là loài thân thảo lớn nhất.[4] Hoa chuối thường lưỡng tính, đầu hoa thường ra một hoa đực riêng, không sinh sản, còn được gọi là bắp chuối, nhưng đôi khi có thể ra thêm – một thân cây chuối ở Hinigaran, Negros Occidental, Philippines ra năm hoa.[5] Bắp chuối được dùng như rau ở Đông Nam Á; nó được hấp, trộn salad, hoặc ăn sống.[6] Các hoa cái ở trên hoa đực và không cần được thụ phấn để tạo quả chuối.

Lịch sử

Phạm vi phân bố của tổ tiên của chuối ăn hiện đại. Musa acuminata được thể hiện trong màu xanh lá cây và Musa balbisiana trong màu cam.[7]

Chuối được thuần hóa ở Đông Nam Á. Nhiều loài chuối dại vẫn còn mọc lên ở Việt Nam, New Guinea, Malaysia, Indonesia, và Philippines. Gần đây, di tích về khảo cổ học và môi trường cổ tại đầm lầy Kuk ở tỉnh Cao nguyên Tây, Papua New Guinea gợi ý rằng chuối được trồng ở đấy bắt đầu trễ nhất năm 5000 TCN, nhưng có thể từ 8000 TCN.[8] Sự khám phá này có nghĩa rằng cao nguyên New Guinea là nơi mà chuối được thuần hóa đầu tiên. Có lẽ những loài chuối dại khác được trồng ở những vùng khác tại Đông Nam Á.

Một số vùng cô lập ở Trung Đông có thể trồng chuối từ thời gian trước khi Hồi giáo ra đời. Có chứng cớ trong văn kiện rằng nhà tiên tri Muhammad đã từng ăn nó. Sau đó, văn minh Hồi giáo trải ra nhiều nước, và chuối đi theo. Những văn kiện Hồi giáo (như là bài thơ và truyện thánh) nói đến nó nhiều lần, bắt đầu từ thế kỷ 9. Vào thế kỷ 10, những văn kiện Palestine và Ai Cập đã nói đến chuối; từ đấy, chuối lan qua Bắc Phi và Tây Ban Nha Hồi giáo. Thực tế là vào thời Trung cổ, chuối từ Granada (Tây Ban Nha) được coi là những loại chuối ngon nhất trong thế giới Ả Rập.[9]

Các phytolith được khám phá trong một số cây chuối hóa thạch ở Cameroon từ thiên niên kỷ 1 TCN[10] đã gây ra cuộc tranh luận về lúc bắt đầu trồng cây chuối ở châu Phi. Có chứng ngôn ngữ học rằng người Madagascar đã biết về chuối vào lúc đó.[11] Trước các khám phá này, chứng cớ sớm nhất về sự trồng chuối ở châu Phi có từ cuối thế kỷ 6 CN về sau.[12] Người Hồi giáo Ả Rập chắc buôn chuối từ bờ biển đông của châu Phi đến bờ biển Đại Tây Dương và về phía nam tới Madagascar.[9] Năm 650, quân đội Hồi giáo mang chuối đến vùng Palestine.

Phim ảnh

  • Bananas in Pyjamas
  • Elmo World's: Bananas

Chú thích

Ralstonia solanacearum trên một trái chuối chín nẫu.

  1. ^ Scot C. Nelson (2006). “Musa species (banana and plantain)” (PDF). Species Profiles for Pacific Island Agroforestry (bằng tiếng Anh). Traditional Tree Initiative. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp)
  2. ^ “ProdSTAT: Crops”. FAOSTAT. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Thế giới. 2005. Truy cập 9 tháng 12 năm 2006. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= (trợ giúp)
  3. ^ Morton, Julia F (1987). “Banana”. Fruits of Warm Climates (bằng tiếng Anh). Miami, Florida. tr. 29–46. ISBN 0-9610184-1-0. Đã định rõ hơn một tham số trong |author= và |last= (trợ giúp)
  4. ^ Miles, Tim (tháng 5 năm 2002). “Yes, we have more bananas”. Royal Horticultural Society Journals (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Làm vườn Hoàng gia. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2008. Đã định rõ hơn một tham số trong |author= và |last= (trợ giúp)
  5. ^ Angolo, Angelo (ngày 15 tháng 5 năm 2008). “Banana plant with five hearts is instant hit in Negros Occ”. ABS-CBN News Online (bằng tiếng Anh). ABS-CBN. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2008. Đã định rõ hơn một tham số trong |author= và |last= (trợ giúp)
  6. ^ Charmaine Solomon (tháng 9 năm 1998). “Banana Flower”. Encyclopedia of Asian Food (bằng tiếng Anh). Periplus Editions. ISBN 9625934170. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2008. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp)
  7. ^ Edmond de Langhe & Pierre de Maret (2004). “Tracking the banana: its significance in early agriculture”. Trong Jon G. Hather (biên tập). The Prehistory of Food: Appetites for Change. Routledge. tr. 372. ISBN 978-0-203-20338-5.
  8. ^ “Tracing antiquity of banana cultivation in Papua New Guinea” (bằng tiếng Anh). The Australia & Pacific Science Foundation. 24 tháng 10 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  9. ^ a b Watson, Andrew (1983). Agricultural innovation in the early Islamic world (bằng tiếng Anh). Thành phố New York: Nhà xuất bản Đại học Cambridge. tr. 54. Đã định rõ hơn một tham số trong |author= và |last= (trợ giúp)
  10. ^ Edmond De Langhe. “Tracking the Banana: Significance to Early Agriculture” (bằng tiếng Anh). Bản gốc (Microsoft Word) lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2008. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp)
  11. ^ Zeller, Friedrich J. “Herkunft, Diversität und Züchtung der Banane und kultivierter Zitrusarten” (PDF). Journal of Agriculture and Rural Development in the Tropics and Subtropics (bằng tiếng Đức). Đã định rõ hơn một tham số trong |author= và |last= (trợ giúp)
  12. ^ B. Julius Lejju (ngày 28 tháng 6 năm 2005). “Africa's earliest bananas?” (PDF). Journal of Archeological Science (bằng tiếng Anh). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2008. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp)

Xem thêm

  • Chuối chiên
  • Bánh chuối
  • Bắp chuối
  • Chuối tiêu (chuối già, Cavendish)
  • Chuối Gros Michel

Vài hình ảnh về quả chuối

  • Quả chuối khắc chữ Q503

  • Buồng chuối với nải chuối ở phía trên

  • Nải chuối xanh

  • Nải chuối hồng

  • Vài nải chuối được bán

Liên kết ngoài

Tìm hiểu thêm về
Chuối
tại các dự án liên quan

Từ điển từ Wiktionary
Tập tin phương tiện từ Commons
Văn kiện từ Wikisource
Tài nguyên học tập từ Wikiversity

Bài viết liên quan đến bộ Gừng này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Chuối&oldid=68678221”

Video liên quan

Chủ đề