Công thức quy luật lưu thông tiền tệ

GVHD: Nguyễn Thị Hải Lên - 1 - A. LỜI MỞ ĐẦU Hiện tượng lạm phát là căn bệnh cố hữu của mọi nền kinh tế đang có tốc độ tăng trưởng nhưng để khắc phục hiện tượng này, trước hết ta phải phân tích được những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp gây ra nó. Bởi vì, lạm phát luôn luôn là kết quả của sự tác động tổng hợp của các yếu tố kinh tế khác nhau, và thường thì rất khó nhận ra đâu là nguyên nhân chủ yếu, nên việc chống lạm phát thường gặp nhiều khó khăn. Từ sự phân tích đúng đắn, ta mới có thể đề ra các giải pháp quản lí, sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô (bao gồm: chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách thu nhập) phối hợp thực hiện một cách đồng bộ với nhau nhằm tạo ra một tác động tổng hợp kiềm chế lạm phát ở mức độ vừa phải, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển một cách bền vững. Để biết thêm về hiện tượng lạm phát ở nước ta hiện nay thì tôi đã bắt đầu đi tìm hiểu về quy luật lưu thông tiền tệ, những nguyên nhân và những biện pháp phòng chống lạm phát của nước ta hiện nay. Tuy vậy, trong quá trình tìm hiểu và viết lên bài tiểu luận này thì không thể tránh khỏi những thiếu xót. Cho nên tôi rất muốn sự góp ý và sự bổ sung tận tình của cô để những bài tiếp theo có thể hoàn thiện và tốt hơn. GVHD: Nguyễn Thị Hải Lên - 2 - B. NỘI DUNG GVHD: Nguyễn Thị Hải Lên - 3 - CHƯƠNG I QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ I.1. Khái niệm của quy luật lưu thông tiền tệ Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa trong một thời kỳ nhất định. I.2. Phân tích quy luật lưu thông tiền tệ Quy luật này được thể hiện như sau: * Khối lượng tiền làm chức năng phương tiện lưu thông được tính bằng công thức: Lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa trong một thời kỳ nhất định được xác định bằng tổng giá cả của hàng hóa lưu thông trong thời kỳ đó chia cho tốc độ lưu thông của đồng tiền. Trong đó: - Tổng giá cả của mỗi loại hàng hóa bằng giá cả nhân với khối lượng đưa vào lưu thông của hàng hóa ấy. Tổng giá cả của hàng hóa lưu thông bằng tổng giá cả của tất cả các loại hàng hóa lưu thông. - Tốc độ lưu thông của đồng tiền chính là số vòng quay trung bình của một đơn vị tiền tệ. * Khi tiền thực hiện chức năng phương tiện thanh toán thì: Lượng tiền cần thiết cho lưu thông Tổng giá cả của hàng hóa lưu thông Tốc độ lưu thông của đồng tiền = M: Số lượng tiền cần cho lưu thông. 1: Tổng giá trị hàng hoá dịch vụ lưu thông. 2: Tổng giá cả hàng hoá bán chịu. 3: Tổng giá cả hàng hoá khấu trừ. 4: Tổng giá cả hàng hoá đến kỳ thanh toán. 5: số vòng luôn chuyển trung bình của 1 đơn vị tiền tệ. M 1- ( 2+3 ) + 4 5 = GVHD: Nguyễn Thị Hải Lên - 4 - Lượng tiền cần thiết cho lưu thông này tính cho một thời kỳ nhất định, cho nên khi ứng dụng công thức trên cần lưu ý một số điểm sau: - Trong tính tổng giá cả phải loại bỏ những hàng hóa không được đưa ra lưu thông trong thời kỳ đó như: hàng hóa dự trữ hay tồn kho không được đem ra bán hoặc để bán trong thời kỳ sau, hàng hóa bán ( mua ) chịu đến thời kỳ sau mới cần thanh toán bằng tiền, hàng hóa dùng để trao đổi trực tiếp với hàng hóa khác, hàng hóa được mua ( bán ) bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt như ký sổ, chuyển khoản,… - Phải cộng thêm vào lượng tiền cần thiết cho lưu thông lượng tiền dùng để ứng trước, để đặt hàng trong thời kỳ này nhưng lại chỉ nhận hàng trong thời kỳ sau và lượng tiền mua ( bán ) hàng hóa chịu đã đến kỳ thanh toán. Yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ là khối lượng tiền thực tế trong lưu thông phải thích ứng với khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Tuỳ theo loại hình lưu thông tiền tệ ( lưu thông tiền kim loại, lưu thông tiền giấy, lưu thông tiền tín dụng ngân hàng ). Quy luật lưu thông tiền tệ chứa đựng các biểu thị khác nhau: quy luật số lượng tiền tệ thực sự cần thiết cho lưu thông, quy luật giá trị thực tế của các dấu hiệu tiền tệ danh nghĩa, quy luật lưu thông tiền tín dụng - giấy bạc ngân hàng. Khi vàng và bạc được dùng làm tiền thì số lượng tiền vàng hay bạc làm phương tiện lưu thông được hình thành một cách tự phát. Bởi vì, tiền vàng hay tiền bạc ( hoặc các của cải bằng vàng, bạc ) thực hiện được chức năng là phương tiện cất trữ. Nếu như số lượng tiền vàng hay tiền bạc lớn hơn số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa thì việc tích trữ tiền tăng lên và ngược lại. Chẳng hạn, khi sản xuất giảm sút thì số lượng hàng hóa đem ra lưu thông ít đi, do đó số lượng tiền đang trong lưu thông trở nên lớn hơn số lượng tiền cần thiết cho lưu thông, khi đó việc tích trữ tiền sẽ tăng lên. GVHD: Nguyễn Thị Hải Lên - 5 - Khi phát hành tiền giấy thì tình hình sẽ khác. Tiền giấy chỉ là ký hiệu của giá trị, thay thế tiền vàng hay bạc trong chức năng làm phương tiện lưu thông, bản thân tiền giấy không có giá trị thực. Trong chế độ tiền giấy bản vị vàng, một đồng tiền giấy chỉ là ký hiệu của một lượng vàng nhất định dự trữ trong quỹ dự trữ của nhà nước hoặc ngân hàng. Về nguyên tắc, bất kỳ lúc nào đồng tiền giấy cũng được đổi sang lượng vàng mà nó ấn định. Trong trường hợp này lượng tiền cần thiết cho lưu thông cũng tự điều tiết như trong chế độ tiền vàng. Tuy nhiên, thực tế không diễn ra đúng như vậy. Nhìn chung lượng vàng dữ trữ không đủ để đảm bảo cho lượng tiền giấy đã được phát hành, khi đó lạm phát xảy ra. Hơn nữa, do chế độ bảo đảm bằng vàng đã không được thực hiện nghiêm túc. Cuối cùng đã bị bãi bỏ, chuyển sang chế độ tiền giấy do nhà nước ấn định giá trị phát hành ban đầu không có vàng đứng đằng sau bảo đảm. Khi đó, đồng tiền được tung vào lưu thông và giá trị của nó thường xuyên bị biến đổi phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau trong nền kinh tế. Đặc biệt là yếu tố phát hành tiền: lượng tiền phát hành không phù hợp với lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Đồng thời, lượng tiền cần thiết cho lưu thông cũng thường xuyên biến đổi do giá trị của một đơn vị tiền tệ thường xuyên thay đổi. I.3. Lạm phát Khi lượng tiền giấy phát hành ra vượt quá số lượng vàng hoặc bạc cần thiết cho lưu thông thì gọi là lạm phát. Nó sẽ làm cho hiện tượng giá cả tăng lên nhanh chóng và đồng tiền trở nên bị mất giá. Ngược lại, nếu lượng tiền giấy phát hành ra thấp hơn số lượng vàng hoặc bạc cần thiết cho lưu thông thì gọi là giảm phát. Lạm phát vừa phải: lạm phát dưới 10% 1 năm. Lạm phát phi mã: lạm phát 2 con số1 năm. Siêu lạm phát: lạm phát 3 ( hoặc 4) con số1 năm. Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm so với tháng 12 năm trước GVHD: Nguyễn Thị Hải Lên - 6 - CHƯƠNG II NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY II.1. Nguyên nhân lạm phát ở nước ta hiện nay Lạm phát trong kinh tế học được hiểu là sự tăng giá chung. Lạm phát thường có nguyên nhân từ tiền tệ do ngân hàng nhà nước cung ứng quá nhiều tiền trong lưu thông. Lạm phát cũng có thể có nguyên nhân từ việc tăng giá do cầu tăng mạnh đột biến lớn hơn khả năng sản xuất của nền kinh tế tạo ra lạm phát do cầu kéo. Chi phí sản xuất gia tăng cũng đẩy giá hàng hóa lên cao tạo ra lạm phát do chi phí đẩy. Có thể nói lạm phát ở Việt Nam hiện nay hội tụ đủ các nguyên nhân do cả cầu kéo lẫn chi phí đẩy và tiền tệ. II.1.1. Nguyên nhân thứ nhất có nguồn gốc từ các yếu tố bên trong của nền kinh tế Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong nhiều năm qua và việc Việt Nam gia nhập WTO đầu năm 2007 đã tạo thêm động lực phát triển cho nền kinh tế. Sự mở rộng mạnh mẽ của nhu cầu chi tiêu, đầu tư tư nhân và công cộng là nhân tố làm cho tổng cầu tăng nóng. Tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt 21,3 tỉ USD và vốn thực hiện đạt 6,4 tỉ USD, cao hơn 77% so với năm 2006. Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt khoảng 11,7% so với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ đồng, bằng 4,95% GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006. Tổng cầu tăng nóng vượt quá khả năng của một nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề "thắt cổ chai" liên quan tới hạ tầng kinh tế, xã hội và pháp luật đã làm gia tăng áp lực lạm phát. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận việc gia tăng đầu tư nước ngoài và đầu tư công vào kết cấu hạ tầng tạo cơ hội nhiều hơn thách thức, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và giải quyết các vấn đề "thắt cổ chai", tạo đà phát triển bền vững trong dài hạn. II.1.2. Nhóm nguyên nhân thứ hai có nguồn gốc từ các yếu tố bên ngoài Đó là giá cả các loại hàng hóa trên thế giới đã tăng nhanh, tỷ lệ nghịch với sự mất giá danh nghĩa của đồng USD đẩy mặt bằng giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào, đặc biệt là dầu thô, lên cao gấp 2 đến 3 lần so với năm 2003. Giá dầu lửa đã tăng từ 53,4 USD/thùng tháng 1-2007 lên 89,4 USD/thùng tháng 12-2007, và đạt đỉnh mới 125,96 USD/thùng vào ngày 9-5-2008. Tốc độ tăng giá năng lượng, đặc biệt là giá lương thực trong nửa cuối năm 2007 và đầu năm 2008 là nguyên nhân dẫn tới tình trạng lạm phát trên diện rộng ở tất cả các nước trên thế giới. Đến cuối năm 2007, lạm phát so với cùng kỳ năm trước của Việt Nam là 12,63% và đến tháng 4-2008, tỷ lệ này đã là 21,42%. Nhìn vào hình 1, có thể nhận thấy tỷ lệ lạm

Qui luật lưu thông tiền tệ (tiếng Anh: The Law of Monetary Circulation) là qui luật qui định lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa trong một thời kì nhất định.

Công thức quy luật lưu thông tiền tệ

Hình minh họa (Nguồn: WallPick - Best Wallpapers 4K)

Khái niệm

Qui luật lưu thông tiền tệ trong tiếng Anh là The Law of Monetary Circulation.

Qui luật lưu thông tiền tệ là qui luật qui định lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa trong một thời kỳ nhất định. Qui luật này được thể hiện như sau:

Lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hoá trong một thời kỳ nhất định được xác định bằng tổng giá cả của hàng hóa lưu thông trong thời kỳ đó chia cho tốc độ lưu thông của đồng tiền.

Công thức quy luật lưu thông tiền tệ

Trong đó:

- Tốc độ lưu thông của đồng tiền chính là số vòng quay trung bình của một đơn vị tiền tệ.

- Tổng giá cả của mỗi loại hàng hóa bằng giá cả nhân với khối lượng đưa vào lưu thông của hàng hóa ấy. Tổng giá cả của hàng hóa lưu thông bằng tổng giá cả của tất cả các loại hàng hóa lưu thông.

Lượng tiền cần thiết cho lưu thông này tính cho một thời kỳ nhất định, cho nên khi ứng dụng công thức này cần lưu ý một số điểm sau:

- Trong tính tổng giá cả phải loại bỏ những hàng hóa không được đưa ra lưu thông trong thời kỳ đó như: Hàng hóa dự trữ hay tồn kho không được đem ra bán hoặc để bán trong thời kỳ sau; hàng hóa bán (mua) chịu đến thời kỳ sau mới cần thanh toán bằng tiền; hàng hóa dùng để trao đổi trực tiếp với hàng hóa khác; hàng hóa được mua (bán) bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt như ký sổ, chuyển khoản…

- Phải cộng thêm vào lượng tiền cần thiết cho lưu thông lượng tiền dùng để ứng trước, để đặt hàng trong thời kỳ này nhưng lại chỉ nhận hàng trong thời kỳ sau và lượng tiền mua (bán) hàng hoá chịu đã đến kỳ thanh toán.

Lạm phát (Inflation)

Lạm phát bao giờ cũng đi đôi với việc giá cả của hầu hết hàng hóa đồng loạt tăng lên làm cho giá trị của mỗi đơn vị tiền tệ giảm, sức mua của đồng tiền giảm. 

Sở dĩ như vậy vì khi lượng tiền được phát hành vượt quá mức cần thiết làm xuất hiện tình trạng ứ đọng tiền tệ; người giữ tiền sẵn sàng cho vay tiền với lãi suất thấp hơn, sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn hơn để mua một đơn vị hàng hóa, làm cho hàng hóa bị khan hiếm, giá cả leo thang... 

Có thể nói, bề nổi của lạm phát luôn là tình trạng mức giá chung tăng lên, giá trị của đơn vị tiền tệ giảm, sức mua của đồng tiền giảm. Chính vì vậy, để đo lường mức lạm phát, người ta dùng chỉ số giá cả. Có hai loại chỉ số giá cả được sử dụng phổ biến trong thống kê kinh tế là chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng.

(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lenin – NXB Chính trị Quốc gia)

Đỗ Đức Nhượng