Hướng dẫn đánh giá của tổ cục thi hành án

1. Vai trò, tác động của Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành đối với công tác thi hành án dân sự

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã đánh dấu mốc quan trọng trong công tác thi hành án dân sự (THADS), lần đầu tiên công tác này được điều chỉnh bằng văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao chỉ sau Hiến pháp. Luật Thi hành án dân sự được hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung qua các năm[1] (sau đây gọi tắt là Luật Thi hành án dân sự) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý đồng bộ, hoàn chỉnh, làm chuyển biến công tác THADS theo chiều hướng ngày càng tích cực, đồng thời có tác động lớn tới đời sống kinh tế - xã hội đất nước. Hệ thống tổ chức THADS được thành lập phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, tính chất đặc thù của hoạt động THADS; có sự nhìn nhận, đánh giá đúng vị trí, vai trò con người của cán bộ làm công tác THADS, nâng cao yêu cầu, chất lượng đội ngũ này, bảo đảm quyền lợi, tạo điều kiện, cũng như địa vị pháp lý để họ hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn được tốt hơn. Vị trí, vai trò của cơ quan quản lý, cơ quan THADS đã khẳng định vị thế mới của hệ thống THADS; khẳng định vai trò quan trọng của công tác THADS trong đời sống xã hội.

Nhận thức, trách nhiệm, sự đồng thuận của các cấp, các ngành, tổ chức và nhân dân đối với công tác THADS ngày một nâng cao, bảo đảm việc tổ chức thi hành bản án, quyết định có hiệu lực ngày càng hiệu quả. Hoạt động THADS đã được coi là một trong các nhiệm vụ chính trị quan trọng, được cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương quan tâm; tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động THADS.

Tác động trực tiếp và nổi bật nhất của Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành đối với công tác THADS là các quy định về trình tự, thủ tục THADS. Có thể nói, Luật Thi hành án dân sự có bước tiến vượt bậc về kỹ thuật và nội dung lập pháp, thể hiện rõ nét trong các quy định về trình tự, thủ tục THADS từ giai đoạn thụ lý, tổ chức thi hành và kết thúc thi hành án. Trình tự, thủ tục đã được quy định một cách cụ thể, rõ ràng; kết cấu các điều, chương, mục được trình bày hợp lý, phù hợp với nội dung các vấn đề cần giải quyết.

Bên cạnh đó, các quy định của Luật Thi hành án dân sự được đánh giá là nghiêm minh nhưng vẫn bảo đảm tính nhân văn trong hoạt động THADS, thể hiện bản chất nhân văn của pháp luật Việt Nam như: Không tổ chức cưỡng chế vào ngày nghỉ, ngày lễ, ngày tết; ban đêm; quy định rõ một số loại tài sản của cá nhân, gia đình, doanh nghiệp không được kê biên; có các quy định về miễn, giảm nghĩa vụ THADS đối với khoản thu, nộp ngân sách nhà nước; không thu phí thi hành án đối với một số khoản tiền, tài sản có tính chất đền bù cho tổn hại của người được thi hành án hoặc bảo đảm an sinh xã hội. Có các quy định về miễn, giảm phí thi hành án cho các đối tượng yếu thế...

Luật Thi hành án dân sự cũng đã xác định, phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các chủ thể trong THADS, phát huy hiệu quả mối quan hệ phối hợp trong THADS, cụ thể như: Các quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xác minh điều kiện thi hành án; trách nhiệm của cơ quan công an trong việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế; cơ quan có thẩm quyền quản lý, đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản trong việc cấp giấy chứng nhận cho người mua được tài sản hoặc liên quan đến việc khai thác tài sản; cơ quan kiểm sát trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS và kháng nghị, kiến nghị về THADS… Bên cạnh đó, Luật Thi hành án dân sự dành Chương VIII (từ Điều 166 đến Điều 180) quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong THADS.

2. Vướng mắc, bất cập trong hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự

2.1. Quy định một số quyền của đương sự chưa đúng bản chất của quan hệ dân sự là tự do, tự nguyện, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động thi hành án dân sự

Hiện nay, pháp luật quy định đương sự có quyền yêu cầu Tòa án xác định tài sản riêng trong khối tài sản chung, giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế. Tuy nhiên, nếu không thực hiện thì chấp hành viên phải thực hiện thay cho họ là chưa phù hợp với bản chất quan hệ dân sự, không thể hiện quyền tự quyết định, tự định đoạt của người được, người phải thi hành án trong hoạt động THADS dẫn đến đương sự lợi dụng, cố tình không thực hiện kéo dài quá trình tổ chức thi hành án hoặc tăng trách nhiệm, áp lực, khó khăn cho chấp hành viên[2].

Khi là quyền thì đương sự có thể thực hiện, có thể không thực hiện, tuy nhiên, nếu xác định là nghĩa vụ buộc đương sự phải thực hiện, nếu không thực hiện sẽ có chế tài tương ứng điều chỉnh sẽ ràng buộc được trách nhiệm của đương sự trong quá trình tổ chức thi hành án. Do đó, cần xác định chính xác hơn đâu là quyền, đâu là nghĩa vụ của đương sự.

Ngoài ra, pháp luật THADS quy định đương sự có quyền thỏa thuận trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tổ chức thi hành án và không giới hạn số lần. Quy định này nhằm bảo đảm nguyên tắc tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, trên thực tế, việc đạt được thỏa thuận giữa người được thi hành án và người phải thi hành án sau khi chấp hành viên ban hành quyết định cưỡng chế rất ít khi đạt được do người phải thi hành án không tự nguyện thi hành phải cưỡng chế hay do các bên có mâu thuẫn, xung đột về quyền lợi. Do đó, việc quy định rõ quyền thỏa thuận trong một số trường hợp cụ thể (đặc biệt là các nội dung mà pháp luật quy định bắt buộc chấp hành viên phải cho các đương sự thỏa thuận như về giá, lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá; về mức giảm giá…) là không cần thiết. Cần xác định rõ về nguyên tắc các đương sự phải tự thực hiện quyền này và nếu có thỏa thuận thì thông báo cho chấp hành viên biết để xem xét (mà không phải trách nhiệm của chấp hành viên cho đương sự thỏa thuận). Trong một số trường hợp cụ thể, đặc biệt là sau khi chấp hành viên ban hành quyết định cưỡng chế thì việc tự thỏa thuận phải kèm theo một số điều kiện nhất định.

2.2. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên còn bất cập

- Quyền được pháp luật bảo vệ của chấp hành viên chưa được quy định chặt chẽ:

Điều 20 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín”.

Các quy định của pháp luật bảo vệ chấp hành viên nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Cơ chế bảo vệ chấp hành viên đối với hành vi tố cáo sai sự thật của người tố cáo được quy định trong Luật Thi hành án dân sự, Luật Tố cáo, Luật Xử phạt vi phạm hành chính, Bộ luật Hình sự… Tuy nhiên, để bảo vệ trực tiếp chấp hành viên khi tổ chức thi hành án, nhất là đối với các vụ việc cưỡng chế có sự chống đối quyết liệt của đương sự thì Luật Thi hành án dân sự chưa có quy định cụ thể.

Đồng thời, với chính sách hiện nay thì hoạt động của chấp hành viên là trung tâm của hoạt động tổ chức thi hành án, trực tiếp tác động đến tài sản, nhân thân của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trên thực tế, theo thống kê, trung bình 01 chấp hành viên phải tổ chức thi hành 220 việc/năm, đặc biệt ở những địa bàn lớn, phức tạp (Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Tây Ninh, Long An, Bến Tre, Đồng Nai...), mỗi chấp hành viên phải tổ chức thi hành từ 315 - 500 việc/năm. Với số lượng công việc rất lớn, nhiều vụ việc khó khăn, phức tạp nên trong quá trình tổ chức thi hành án, chấp hành viên không thể tránh khỏi có những sai sót, sai lầm nhất định. Tuy nhiên, các quyết định của chấp hành viên được áp dụng ngay để tổ chức thi hành án, không có cơ chế kiểm soát, xem xét trước khi thực hiện. Xác định việc làm đúng/sai của chấp hành viên chỉ được xem xét, xác định khi có khiếu nại, tố cáo của đương sự; kiểm tra, kiểm sát của cơ quan có thẩm quyền. Trong khi đó, nếu có thiếu sót, vi phạm thì phát sinh ngay hậu quả, nhiều trường hợp rất khó khắc phục. Tuy nhiên, cho đến nay, hầu như rất ít quy phạm pháp luật được ban hành để bảo vệ chấp hành viên.

- Một số trường hợp là quyền, nghĩa vụ của đương sự nhưng quy định là trách nhiệm của chấp hành viên: Quyền của đương sự về “yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản; yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả hoặc số liệu sai sót; khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án” chuyển thành trách nhiệm của chấp hành viên theo quy định tại Điều 74, Điều 75 Luật Thi hành án dân sự trong trường hợp đương sự không thực hiện quyền của mình; quy định trách nhiệm thực hiện việc thông báo của chấp hành viên trong trường hợp đương sự thay đổi nơi cư trú nhưng không thông báo cho chấp hành viên là chuyển trách nhiệm từ đương sự (đáng ra phải thông báo cho chấp hành viên) sang chấp hành viên (phải xác minh và thông báo cho đương sự); quyền được thỏa thuận trong quá trình tổ chức thi hành án của đương sự lại được chuyển thành trách nhiệm của chấp hành viên phải cho các đương sự thỏa thuận (về giá, tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá, mức giảm giá; thỏa thuận việc thi hành án khi cưỡng chế trả vật đặc định mà vật phải trả giảm giá trị dẫn đến người được thi hành án không đồng ý nhận…); khi xác minh điều kiện thi hành án thì người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan THADS và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ) quy định: “Khi tiến hành xác minh, chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án…”. Như vậy, quyền yêu cầu của chấp hành viên trong trường hợp này lại trở thành nhiệm vụ, trách nhiệm của chấp hành viên là chưa phù hợp dẫn đến việc đương sự lợi dụng để gây khó khăn, kéo dài thời gian tổ chức thi hành án.

- Cơ chế kiểm soát việc cưỡng chế của chấp hành viên chưa chặt chẽ, bảo đảm: Theo Điều 20 Luật Thi hành án dân sự, khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín. Với quy định này, hoạt động của chấp hành viên là trung tâm của hoạt động tổ chức thi hành án, trực tiếp ra các quyết định tác động đến tài sản, nhân thân của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Vì thế, Luật cũng đã quy định trách nhiệm của chấp hành viên khá nặng nề.

Để hạn chế sai sót của chấp hành viên trong quá trình tổ chức cưỡng chế cũng như bảo vệ chấp hành viên trong quá trình tổ chức THADS, các vụ việc cưỡng chế cần được kiểm soát, từ khâu xây dựng kế hoạch, ban hành quyết định cưỡng chế. Cơ chế kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân cần được tăng cường hơn nữa đối với các vụ việc phải cưỡng chế thi hành án. Cưỡng chế tài sản của người phải thi hành án là tước đi quyền tài sản của họ để thực hiện nghĩa vụ đã được bản án, quyết định của Tòa án tuyên, là công việc quyết định đến quyền của công dân nên phải được xem xét cẩn trọng và được tiến hành theo trình tự thủ tục chặt chẽ. Pháp luật THADS hiện nay có quy định quyền và trách nhiệm kiểm sát hoạt động THADS của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình thi hành án, nhưng khi xem xét trách nhiệm của chấp hành viên trong trường hợp để xảy ra sai sót thì pháp luật THADS và pháp luật liên quan chưa có quy định gắn trách nhiệm của kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát thi hành án, do đó, nhằm hạn chế những sai sót có thể xảy ra trong quá trình tổ chức cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản, cần phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn này.

- Xác định trách nhiệm của chấp hành viên trong việc thực hiện chỉ đạo nghiệp vụ của người có thẩm quyền chưa được hướng dẫn rõ ràng: Căn cứ quy định tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự, thì khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án. Theo quy định tại các điều 14, 23, 167 Luật Thi hành án dân sự, Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp, thì Tổng cục Thi hành án dân sự có quyền ban hành theo thẩm quyền các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về THADS, thi hành án hành chính, văn bản cá biệt, văn bản quy phạm nội bộ theo quy định của pháp luật. Cục THADS có thẩm quyền chỉ đạo hoạt động THADS đối với cơ quan THADS cấp huyện; hướng dẫn nghiệp vụ THADS cho chấp hành viên, công chức khác của cơ quan THADS trên địa bàn. Như vậy, việc xác định mối quan hệ giữa việc chấp hành viên chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và trách nhiệm thực hiện hướng dẫn nghiệp vụ của cấp trên chưa rõ ràng.

2.3. Một số quy định về trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án chưa phù hợp

- Thời gian tổ chức thi hành án kéo dài, chưa xác định điểm dừng của hoạt động thi hành án: Pháp luật THADS quy định còn chưa rõ thời hạn phải hoàn thành cũng như kết thúc thực hiện ở từng khâu, giai đoạn, công việc như: Xác minh điều kiện thi hành án[3]; thời hạn ra quyết định cưỡng chế thi hành án kể từ khi có căn cứ; thời hạn tối đa cơ quan THADS bắt buộc phải tổ chức cưỡng chế thi hành án trên thực tế (sau khi đã ban hành quyết định cưỡng chế)[4]; thời hạn để người có tài sản tự nguyện di chuyển tài sản để trả quyền sử dụng đất cho người phải thi hành án.

Một số quy định về trình tự, thủ tục chưa phù hợp dẫn đến thời gian tổ chức thi hành án bị kéo dài: Quy định cho các đương sự thỏa thuận không giới hạn số lần sau khi chấp hành viên ban hành quyết định cưỡng chế; thỏa thuận về giá, tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá tài sản...; quy định về thời hạn chủ sở hữu chung được ưu tiên mua phần tài sản của người phải thi hành án; quy định trách nhiệm chấp hành viên yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung, giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế; quy định giảm giá để bán tài sản đến khi giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế; quy định cơ quan THADS tống đạt tất cả các văn bản về thi hành án cho đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gây tốn kém thời gian, chi phí mà Nhà nước phải bỏ ra.

Một số vấn đề phát sinh trên thực tiễn nhưng Luật Thi hành án dân sự chưa quy định dẫn đến chưa thực hiện được quy định của pháp luật chuyên ngành hoặc đương sự lợi dụng để nhằm kéo dài thời gian tổ chức thi hành án như: Chưa có quy định về việc bán đấu giá tài sản thi hành án theo thủ tục rút gọn; đương sự lợi dụng quyền được khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án. Tuy nhiên, có trường hợp người phải thi hành án cố tình lợi dụng quyền này để liên tục khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, nhằm làm trì hoãn, kéo dài thời gian tổ chức thi hành án. Hiện nay, chưa có cơ chế để hạn chế tình trạng này.

Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 đã bãi bỏ cơ chế “trả đơn yêu cầu thi hành án” theo quy định Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Như vậy, những trường hợp người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án nhưng cơ quan THADS vẫn phải tiếp tục theo dõi, xác minh định kỳ. Tuy nhiên, bản chất của vụ việc là đương sự chưa có điều kiện thi hành án; nếu xếp vào diện chưa có điều kiện thì sẽ xuất hiện rất nhiều vụ việc tồn đọng từ năm này sang năm khác, trong khi cơ quan THADS vẫn mất thời gian, nhân lực, chi phí để theo dõi. Trên thực tế, việc trả lại đơn không làm mất đi hiệu lực của bản án và quyền của đương sự, bởi lẽ, sau khi ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thì trách nhiệm của người được thi hành án phải theo dõi, phát hiện người phải thi hành án có tài sản, điều kiện thi hành án thì tiếp tục yêu cầu cơ quan THADS tổ chức thi hành án để bảo đảm quyền và lợi ích của mình.

- Chưa có chính sách đặc thù đối với một số hoạt động trong THADS như các khoản thi hành án cho Nhà nước nhất là đối với các vụ án kinh tế, tham nhũng; bán đấu giá tài sản; thi hành án có yếu tố nước ngoài...

- Quy định và thực tiễn chuyển đối số trong THADS tại Việt Nam còn hạn chế: Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS được quy định về nguyên tắc tại Điều 24 Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, Nhà nước bảo đảm biên chế, kinh phí, trụ sở làm việc, công cụ hỗ trợ thi hành án, ứng dụng công nghệ thông tin và phương tiện, trang thiết bị cần thiết khác cho cơ quan THADS. Việc triển khai thực hiện mới chỉ được quy định trong Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong THADS.

2.4. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể phối hợp trong thi hành án dân sự chưa đầy đủ

Chương VIII Luật Thi hành án dân sự quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong THADS như Bộ Công an, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban nhân dân các cấp, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, bảo hiểm xã hội, cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm… Tuy nhiên, việc thực hiện trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong một số trường hợp còn hạn chế; vẫn còn tình trạng coi việc thực hiện nhiệm vụ THADS là của cơ quan THADS.

3. Một số định hướng hoàn thiện các quy định của Luật Thi hành án dân sự

Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án. Hoàn thiện cơ chế nâng cao chất lượng, hiệu quả THADS theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan trong THADS; thực hiện xã hội hóa một số hoạt động THADS với cơ chế bảo đảm và lộ trình phù hợp”.

Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự; thực hiện nhiệm vụ, giải pháp theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, một số định hướng cần được nghiên cứu, đề xuất trong quá trình xây dựng Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi):

Thứ nhất, hoàn thiện trình tự, thủ tục tổ chức THADS nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành án, rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí, theo đó:

(i) Cần có chính sách phù hợp về đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong THADS. Trong đó, đề cao hơn nữa trách nhiệm của đương sự (tự quyết định và định đoạt, có nghĩa vụ chứng minh các vấn đề liên quan đến lợi ích của mình), đương sự phải thực hiện quyền và nghĩa vụ để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Nhà nước chỉ “hỗ trợ” bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ đó của họ. Đối với những việc mà cơ quan THADS đã hướng dẫn, yêu cầu đương sự thực hiện quyền của mình để bảo vệ quyền lợi mà cố tình không thực hiện thì có quy định biện pháp xử lý và quy định điểm dừng trong tổ chức thi hành án.

(ii) Sửa đổi, bổ sung chính sách phù hợp về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên và các chức danh khác trong hệ thống THADS. Theo đó, giảm bớt những nhiệm vụ, quyền hạn chưa phù hợp, mang tính chất “bao cấp”, “làm thay đương sự”, tạo điều kiện cho chấp hành viên tập trung, dành nhiều thời gian hơn vào việc thực hiện các trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án. Xây dựng các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên bảo đảm nâng cao tính độc lập, chủ động của chấp hành viên trong việc tổ chức thi hành án; đồng thời, quy định chặt chẽ hơn đối với những nhiệm vụ, quyền hạn chấp hành viên dễ lợi dụng để tham nhũng, tiêu cực. Nghiên cứu, quy định về Thủ trưởng cơ quan thi hành án toàn quốc. Đồng thời, phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các chức danh tư pháp khác trong hệ thống cơ quan THADS nhằm phù hợp với định hướng trong Nghị quyết số 27-NQ/TW về phân định rõ trách nhiệm giữa cá nhân và tập thể, đề cao vai trò, trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu trong các cơ quan hành chính nhà nước.

(iii) Rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí thi hành án: Bổ sung chính sách rút gọn quy trình, thủ tục THADS đối với một số trường hợp có thể rút gọn; xác định rõ “điểm dừng” của hoạt động thi hành án; giảm thiểu các chi phí do ngân sách nhà nước bảo đảm; tăng cường cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thi hành án.

(iv) Bổ sung chính sách đặc thù đối với một số hoạt động trong THADS: Trình tự, thủ tục thi hành án chủ động, đặc biệt là thu hồi tiền, tài sản cho Nhà nước trong các vụ án kinh tế, tham nhũng để việc thi hành án được hiệu quả và thực hiện Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; bán đấu giá tài sản thi hành án; trình tự, thủ tục trong việc thi hành các loại bản án, quyết định khác nhau (bản án, quyết định của Tòa án, trọng tài, Hội đồng Cạnh tranh; quyết định tuyên bố phá sản...); quy định về thi hành án có yếu tố nước ngoài...

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung, có chính sách phù hợp trong quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể phối hợp trong THADS theo hướng tăng cường hơn nữa nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm phối hợp của các cơ quan có liên quan trong hoạt động THADS, đặc biệt là Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp. Trong đó, nghiên cứu bổ sung quy định cụ thể về trách nhiệm của Tòa án về tính khả thi và chịu trách nhiệm “đến cùng” cùng với cơ quan THADS trong quá trình tổ chức thi hành án; quy định rõ hơn trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong việc ban hành kiến nghị, kháng nghị, trả lời kiến nghị của cơ quan THADS.

Thứ ba, duy trì mô hình tổ chức hệ thống THADS hiện hành, trong đó, có sự cân nhắc, nghiên cứu phương án chuyển đổi phù hợp với chủ trương tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập và tiếp tục thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 - 2030. Bên cạnh đó, Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân đang được xây dựng theo hướng chuyển đổi mô hình tổ chức Tòa án nhân dân sơ thẩm và Tòa án nhân dân phúc thẩm thay vì Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh như hiện nay. Do đó, cũng cần có sự cân nhắc, nghiên cứu phương án chuyển đổi phù hợp của mô hình tổ chức của Tòa án theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sau khi được ban hành).

Hoàng Thu thủy

Vụ Nghiệp vụ 1, Tổng cục Thi hành án dân sự

[1]. Sửa đổi, bổ sung năm 2014; được sửa đổi, bổ sung bởi Luật Cạnh tranh năm 2018, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 09 Luật năm 2022.

[2]. Khó khăn trong việc chấp hành viên sẽ phải là người cung cấp giấy tờ pháp lý cũng như các chứng cứ khác liên quan đến tài sản cho Tòa án; tham gia các hoạt động tố tụng theo yêu cầu của Tòa án theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; phải nộp các chi phí liên quan trong quá trình tố tụng như: Phí thẩm định giá, trưng cầu giám định...

[3]. Do cơ sở dữ liệu về tài sản của cá nhân, tổ chức tại Việt Nam chưa được hoàn thiện; thời hạn cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm phối hợp, cung cấp thông tin cho cơ quan THADS nhưng nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức không kịp thời phối hợp nhưng chưa có chế tài xử lý.

[4]. Trách nhiệm của các cơ quan trong việc bảo đảm thời hạn tổ chức cưỡng chế; những trường hợp được gia hạn thời gian tổ chức cưỡng chế (như chưa có sự thống nhất của các cơ quan, tổ chức hữu quan, chưa xây dựng được kế hoạch bảo vệ cưỡng chế…) dẫn đến thời gian tổ chức cưỡng chế thi hành án kéo dài.