skkn Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi tích cực, hứng thú học tốt môn toánBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.53 KB, 20 trang ) Show THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN Như chúng ta đã biết bậc học mầm non là bậc học đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển toàn diện về đức – trí – thể - mĩ cho trẻ ngay từ lứa ấu thơ. Do đó việc chăm sóc giáo dục là nhiệm vụ hàng đầu của toàn xã hội nói chung và ngành giáo dục nói riêng. Trong trường mầm non trẻ được phát triển nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là lĩnh vực phát triển nhận thức trong đó hoạt động cho trẻ làm quen với toán đóng vai trò vô cùng quan trong việc hình thành những kiến thức toán sơ đẳng tạo tiền đề vững chắc cho trẻ bước vào các trường phổ thông sau này. Chính vì lý do này mà bản thân tôi đã lựa chọn đề tài: “ Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi tích cực, hứng thú học tốt môn toán”. Với đề tài này tôi nghiên cứu với các nội dung các cơ sở khoa học, lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu phù hợp với nội dung chăm sóc giáo dục trẻ đặc biệt là làm thế nào để trẻ hứng thú với hoạt động làm quen với toán. Với những nội dung và biện pháp trên đã giúp tôi tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với toán ở trường mầm non diễn ra được thuận lợi và mang lại hiệu quả giáo dục cao. Đồng thời với đề tài này cũng giúp đồng nghiệp của tôi có thể dễ dàng áp dụng đối với nhiều hình thức tổ chức và nhiều độ tuổi trẻ trong trường mầm non. 2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng - Điều kiện: + Các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học của trường, lớp + Nhận thức của phụ huynh về việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ + Sự quan tâm đầu tư, chỉ đạo của nhà trường + Trình độ của giáo viên, năng lực chuyên môn tốt, nhiệt tình yêu nghề mến trẻ. - Thời gian: Sáng kiến đã được áp dụng thực tế trong năm học từ tháng 9/2014 đến 2/2015 tại lớp mẫu giáo 5 tuổi. 2 - Đối tượng áp dụng: Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi và các lớp mẫu giáo trong toàn trường đều có thể áp dụng được sáng kiến này. 3. Nội dung sáng kiến + Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến Trong đề tài này tôi đã mạnh dạn áp dụng các biện pháp mới vào đề tài như : Biện pháp 1: . Lựa chọn, nghiên cứu tài liệu có liên quan đến hoạt động làm quen với toán Biện pháp 2: Tạo cơ hội cho trẻ được tiếp cận với các thuật ngữ toán ở tất cả các hoạt động, ở mọi lúc – mọi nơi Biện pháp 3: Trang trí, làm đồ dùng, tạo trường làm quen với toán ở trong và ngoài lớp học Biện pháp 4: Lồng ghép – tích hợp hoạt động làm quen với toán trong các hoạt động hàng ngày của trẻ trong trường mầm non Biện pháp 5: Phối hợp với phụ huynh để nâng cao chất lượng trong hoạt động cho trẻ làm quen với toán. Như vậy tính mới và sáng tạo ở đây được thể hiện qua từng biện pháp đặc biệt là tạo cơ hội cho trẻ được tiếp cận với các thuật ngữ toán từ ngay khi trẻ còn nhỏ không những ở trong các hoạt động mà còn ở mọi lúc mọi nơi. + Khả năng áp dụng của sáng kiến Với sáng kiến này tôi đã áp dụng thành công và đạt kết quả cao tại lớp 5 tuổi do tôi chủ nhiệm ngoài ra với đề tài này có thể áp dụng được với tất cả các lớp trong toàn trường nói riêng và các trường mầm non trong thị xã nói chung. + Lợi ích thiết thực của sáng kiến Ở đề tài này với những biện pháp dễ hiểu, dễ làm, dễ áp dụng. Kinh phí đầu tư cho đề tài dễ tìm, không tốn kém mà mang lại giá trị thực tiễn cao. 4. Khẳng định giá trị kết quả đạt được của sáng kiến Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào trong quá trình cho trẻ làm quen với toán tôi khẳng định đề tài đã mang lại kết quả đáng mừng đó là: 3 - Tôi đã thu hút được sự hứng thú, tích cực của trẻ khi tham gia hoạt động làm quen với toán - Tạo được mối liên hệ khăng khít giữa gia đình và nhà trường trong việc chăm sóc giáo dục trẻ đặc biệt là đối với hoạt động làm quen với toán - Tạo cơ hội cho chị em đồng nghiệp chia sẻ kinh nghiệm và tạo ra những bộ đồ dùng đồ chơi có giá trị sử dụng cao. 5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến - Đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm, đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học nói chung và đồ dùng phục vụ hoạt động làm quen với toán nói riêng . - Đề nghị các nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề, ngoại khóa thăm quan các trường bạn để bồi dưỡng thêm về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. 4 MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh- Người đã viết thư gửi tới các cháu thiếu niên nhi đồng cả nước nhân ngày khai trường: “ Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không. Dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ phần lớn công lao học tập của các cháu”. Thư của Bác gửi luôn là động lực to lớn thúc đẩy việc dạy và học của thày và trò trong toàn ngành giáo dục. Đặc biệt là ngành giáo dục mầm non- Ngành đặt nền móng đầu tiên trong hệ thông giáo dục quốc dân. Giáo dục mầm non góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Giáo dục mầm non bao gồm nhiều lĩnh vực nhưng lĩnh vực phát triển nhận thức đóng vai trò vô cùng quan trọng. Dạy toán cho trẻ không chỉ nhằm đào tạo những nhà toán học mà còn phát triển ở trẻ khả năng nhanh nhạy, trí tuệ, thông minh, giúp trẻ có những kiến thức sơ đẳng về tập hợp con số, phép đếm, kích thước, hình dạng, khả năng định hướng trong không gian, tập làm các phép đo. Dạy trẻ làm quen với toán đã góp phần giáo dục đạo đức, thẩm mĩ cho trẻ, từ đó góp phần hình thành những yếu tố đầu tiền về nhân cách và tâm thế cho trẻ vào lớp 1. Là giáo viên mầm non, ngoài việc quan tâm và nhiệt tình chăm sóc giáo dục trẻ, tôi còn dành nhiều thời gian, nghiên cứu học hỏi để có những sáng tạo riêng cho hoạt động làm quen với toán giúp trẻ tiếp thu kiến thức một cách tích cực, hứng thú. Chính vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài “ Một số biện pháp giúp trẻ 56 tuổi tích cực, hứng thú học tốt môn toán”. Mục đích nghiên cứu: Với đề tài nghiên cứu này bản thân tôi mong muốn góp một phần nhỏ để giúp trẻ tích cực hứng thú và học tốt môn toán cũng như giúp giáo viên có nhiều hình thức mới lạ đưa vào bài dạy một cách linh hoạt và sáng tạo hơn . Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi tích cực hứng thú học tốt môn toán. Phương pháp nghiên cứu : - Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê thực tế. 5 - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. - Nghiên cứu tâm sing lý của trẻ 5-6 tuổi và tình hình thực tế của lớp mình phụ trách. - Nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng hè, bồi dưỡng thường xuyên qua các buổi chuyên đề hội giảng. - Nghiên cứu qua tạp trí giáo dục mầm non và các tài liệu có liên quan đến nội dung và đề tài ngiên cứu. 2. Thực trạng của vấn đề 2.1. Thuận lợi: - Bản thân với tuổi đời còn trẻ, có lòng yêu nghề mến trẻ, say mê học tập và nghiên cứu tài liệu , học tập những kinh nghiệm của chị em đồng nghiệp. - Trẻ thông minh nhanh nhẹn, hoạt bát, có đủ sức khỏe, tích cực hứng thú tham gia vào hoạt động. - Sự quan tâm, chỉ đạo, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để bản thân nâng cao trình độ chuyên môn từ phía ban giám hiệu nhà trường. - Phụ huynh có nhận thức tốt, quan tâm, ủng hộ giúp đỡ và đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho dạy và học. 2.2. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi trên khi tổ chức thực hiện các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ, đặc biệt là bộ môn làm quen với toán bản thân tôi nhận thấy vẫn còn gặp một số khó khăn sau: Qua thực tế cho thấy việc cho trẻ làm quen với Toán giáo viên thường chú ý đến truyền thụ kiến thức có sẵn. Do đó trẻ tiếp thu kiến thức rất thụ động và hình thức này không phát huy được tính tích cực, sự hứng thú của trẻ. Phần lớn hoạt động của trẻ diễn ra trong giai đoạn củng cố kiến thức vì thế đã thu hẹp khả năng phát triển nhận thức của trẻ. - Điều này cho thấy trên thực tế trẻ không suy nghĩ về bản chất của kiến thức mà chỉ học thuộc lòng. Trên giờ học thường thấy cô cho trẻ "Nhắc lại" nếu không nhắc lại được thì hãy chú ý nghe cô nói và sau đó nhắc lại. Không phải lúc nào cô giáo cũng tìm hiểu xem trẻ nắm kiến thức như thế nào, mức độ đến 6 đâu để có thể áp dụng vào các hoạt động khác nhau một cách có hiệu quả không? - Trong quá trình tổ chức hoạt động làm quen với toán cô giáo đã đưa ra những câu hỏi và tình huống có vấn đề nhưng lại sợ câu hỏi khó trẻ không trả lời được ngay. Không tạo cơ hội cho trẻ tư duy giải quyết tình huống mâu thuẫn xảy ra trong hoạt động. - Khi thực hiện bản thân tôi cũng đã đưa các nội dung giáo dục tích hợp khác vào tiết dạy song còn rất sơ sài, gò bó chưa phù hợp. Về đồ dùng giảng dạy đôi khi còn chưa hợp lý nên sự thu hút trẻ vào giờ học còn kém dẫn đến kết quả đạt được trong hoạt động làm quen với toán chưa được cao. - Chỉ sử dụng hình thức dạy cá nhân khi trẻ không nắm được kiến thức và thường sử dụng các biện pháp đơn điệu không kích thích được tính tích cực nhận thức của trẻ. 2.3. Điều tra thực trạng. Qua thực tế là giáo viên giảng dạy trực tiếp tại lớp, tôi nhận thấy đặc điểm đặc trưng của trẻ mầm non là rất dễ nhớ nhưng lại mau quên. Tuy được làm quen với toán ở các độ tuổi 3 – 4 tuổi; 4-5 tuổi trẻ đã có kỹ năng sơ đẳng về toán song vẫn còn chậm. Nếu như không có những phương pháp hay và hình thức tổ chức sáng tạo để giảng dạy thì nhận thức của trẻ sẽ không cao. Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng trẻ tại lớp tôi nhằm mục đích kiểm tra chất lượng thực tế của trẻ và có cơ sở để xây dựng kế hoạch nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với toán tại lớp mình. * Kết quả khảo sát khi chưa áp dụng các biện pháp thực hiện, cụ thể như sau: Tháng 9/ 2014. Tổng số trẻ Tốt Số trẻ Tỷ lệ% Khá Số trẻ Tỷ lệ% Đạt Số trẻ Tỷ lệ% Không đạt Số trẻ Tỷ lệ% trong lớp 30 1 3.3 12 40 11 36.7 6 20 Trước thực trạng trên bản thân tôi rất băn khoăn, lo lắng về khả năng nhận thức và tiếp thu của trẻ trong lớp tỉ lệ tốt và khá chưa cao. Chính vì vậy mà tôi đã nghiên cứu, tìm tòi và mạnh dạn áp dụng một số biện pháp như sau: 3. Các biện pháp thực hiện: 7 Trong công tác giáo dục trẻ chúng ta xuất phát từ quan điểm “Tính tích cực nhận thức mang tính cá nhân” ở một số trẻ tích cực nhận thức cao, ở một góc khác thấp hơn. Do đó tôi đã áp dụng các biện pháp khác nhau để phát triển tính tích cực nhận thức ở trẻ. Để tăng tính tích cực nhận thức của tất cả trẻ và từng cá nhân trẻ bằng cách: 3.1. Lựa chọn, nghiên cứu tài liệu có liên quan đến hoạt động làm quen với toán. - Đây là một bước quan trọng do đó tôi đã giành nhiều thời gian để tìm hiều những kiến thức có liên quan đến hoạt động làm quen với toán như: Nội dung, các thuật ngữ đặc trưng của hoạt động để có thể truyền thụ kiến thức tới trẻ một các chính xác, hứng thú và dễ hiểu nhất. - Kết hợp với bạn bè đồng nghiệp, tổ chuyên môn trong nhà trường để cùng nhau ngồi lại trao đổi kinh nghiệm, học hỏi những ý tưởng sáng tạo của bạn trong cách tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với toán. 3.2. Tạo cơ hội cho trẻ được tiếp cận với các thuật ngữ toán ở tất cả các hoạt động, ở mọi lúc – mọi nơi. Đối với trẻ mầm non đang ở trong giai đoạn hình thành và phát triển ngôn ngữ do đó trẻ còn hạn chế về vốn từ, cách biểu đạt suy nghĩ chưa mạch lạc và chính xác. Hơn nữa trong hoạt động làm quen với toán thì thuật ngữ toán đòi hỏi tính chính xác cao do đó đòi hỏi người giáo viên phải nắm chắc kiến thức, phương pháp trong hoạt động làm quen với toán, truyền thụ những thuật ngữ toán cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, mỗi ngày cung cấp một ít theo phương pháp kiến tha mồi thì trẻ sẽ nhớ và nhận thức đúng từ, đúng nghĩa các thuật ngữ toán từ đó chất lượng trên trẻ mới được nâng lên. Ví dụ: Trong giờ hoạt động ngoài trời khi tập hợp trẻ tôi nêu ra yêu cầu: Các bạn nam đứng ở phía trái của cô, các bạn nữ đứng ở phía phải của cô. Điều này sẽ giúp trẻ tư duy, xác định được các phía của đối tượng khác một cách chính xác. 8 Hay trong giờ tổ chức các trò chơi dân gian : Mèo đuổi chuột, tôi yêu cầu trẻ tổ 1, tổ 2 đứng thành hình vòng tròn to phía ngoài, tổ 3 sẽ đứng ở vòng tròn nhỏ - phía trong. Tôi cho trẻ nhặt cành cây và sỏi xếp thành các hình khác nhau theo yêu cầu của cô trong giờ hoạt động ngoài trời như: - Tổ 1 xếp hình - Tổ 2 xếp hình - Tổ 3 xếp hình , Hay trong hoạt động góc - ở góc xây dựng cho trẻ xây dựng bồn hoa với các hình theo yêu cầu như: Hình tròn, vuông, chữ nhật …và trồng số lượng cây theo yêu cầu của cô. Ví dụ: Con hãy xây bồn hoa trong trường mầm non phía phải hình chữ nhật với số lượng cây là 6 và xây bồn hoa phía trái hình vuông với số lượng cây là 7. Cứ như vậy tôi cung cấp những thuật ngữ toán cho trẻ thông qua các hoạt động hàng ngày dưới nhiều hình thức khác nhau. Kết quả sau 2 tháng thực hiện biện pháp này tôi nhận thấy trẻ ở lớp tôi đã tiến bộ một cách rất rõ rệt. 3.3. Trang trí, làm đồ dùng, tạo trường làm quen với toán ở trong và ngoài lớp học Như chúng ta đã biết phương pháp giúp trẻ tiếp thụ kiến thức được tốt đó là phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan. Với cách thực hiện này trước tiên tôi đã huy động sự đầu tư đóng góp các nguyên vật liệu phế thải, thời gian của các bậc phụ huynh trong lớp để trang trí, lầm đồ dùng đồ chơi tự tạo, tạo môi trường về toán phục vụ cho việc học của cháu và dạy của cô. Qua một thời gian vận động tôi đã nhận dc sự ủng hộ rất lớn và tôi đã thực hiện việc trang trí, làm đồ dùng như sau: 9 Ví dụ: Những mảng tranh phù hợp với từng chủ đề: Như chủ đề thực vật tôi sưu tầm tranh ảnh về các loại cây, quả, hoa từ những tạp chí, sách báo cũ để trang trí theo những bố cục hình học, số lượng tương ứng đề tài trẻ đang học. Ngoài ra tôi còn chú trọng đến trang trí các góc tuyên truyền ở ngoài lớp. Tôi dùng các mảng tường trống để trang trí những các hình ảnh, kết hợp các số để trẻ có thể hiểu ngay đó là nhóm đồ dùng gì? Có số lượng là bao nhiêu? Trong nhưng giờ nghỉ trưa tôi kết hợp với một số chị em đồng nghiệp cùng tư duy, tìm tòi những mẫu đồ dùng phục vụ cho hoạt động cho trẻ làm quen với toán sao cho đồ dùng vừa đảm bảo phong phú về chủng loại, mẫu mã, vừa bên, đẹp, tận dụng từ những nguyên vật liệu rẻ tiền nhưng lại có giá trị sử dụng cao. Ví dụ: Trong chủ đề động vật tôi sử dụng những hộp sữa Fistsi và xốp màu vụn để làm những chú thỏ. Hay tôi sử dụng những quả bóng nhựa đã cũ và hỏng để bồi lại thành những con lật đật đáng yêu và ngộ nghĩnh. Tôi sử dụng những vỏ chai lavi trang trí thêm các họa tiết và con số từ 1 đến 10 để cho trẻ nhận biết. 10 Tôi nghiên cứu và làm những miếng ghép từ những thanh tre nứa có phun màu sắc để trẻ xếp và đặt số tương ứng theo yêu cầu của cô. Qua gần 3 tháng thực hiện lớp tôi có đầy đủ những bộ đồ dùng cho trẻ làm quen với toán cho cả cô và trẻ có giá trị sử dụng và mang lại hiệu quả cao không chỉ trong bộ môn làm quen với toán mà trong các hoạt động khác. 3.4. Lồng ghép, tích hợp hoạt động làm quen với toán trong các hoạt động hàng ngày của trẻ trong trường mầm non. Ở mỗi chủ đề cụ thể tôi chọn đề tài và nội dung phù hợp với bài dạy. Thường thì mỗi bài dạy tôi luôn suy nghĩ dẫn dắt trẻ đi theo một chủ đề nào đó bằng các trò chơi, câu chuyện, câu đố, bài hát để lôi cuốn trẻ. Ví dụ: Dạy trẻ xác định phía trên, phía dưới, phía trước, phía sau của bản thân và của các bạn khác tôi sử dụng trò chơi "Mõ làng mõ xóm" cô hoặc 1 trẻ làm người đi giao mõ, vừa mõ vừa đọc: " Chiềng làng chiền chạ Thương hạ tây đông Nếu là bạn trai Đứng ra phía trước Nếu là bạn gái Bước ra phía sau". 11 Sau khi người giao mõ đọc xong từng vế thì trẻ trai, trẻ gái đứng đúng vào các vị trí của người giao mõ yêu cầu. Tiếp theo là cô phải đặt câu hỏi để trẻ trả lời xem trẻ đang đứng ở vị trí nào của người giao mõ. Để tổ chức 1 tiết học dưới dạng trò chơi như vậy tôi luôn phải tìm tòi các trò chơi, sưu tầm học hỏi đồng nghiệp, xem các tiết dạy mẫu, lựa chọn các trò chơi phù hợp với bài dạy và tổ chức trẻ được làm quen với các trò chơi đó trước khi làm quen bài mới. Tôi tận dụng các thời gian khác nhau trong ngày để hướng dẫn trẻ ( giờ đón trẻ và trước giờ trả trẻ…). - Trong quá trình tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với toán để kích thích trẻ tham gia vào các hoạt động, tôi đã dùng những thủ thuật để kích thích tính tò mò của trẻ. + Lời hướng dẫn, giải thích của cô giáo phải ngắn gọn, dễ hiểu lôi cuốn sự chú ý của trẻ vào quá trình quan sát. Cô giáo phải "mở ra cho trẻ thấy những cái cần và nhìn như thế nào" về đối tượng. Lời hướng dẫn có tính tổng thể phản ánh toàn bộ quá trình thực hiện nhiệm vụ. - Tôi tạo điều kiện cho trẻ tự nhận xét, nêu lên sự nhận thức của mình sau khi trẻ đã được quan sát và hoạt động với đồ vật. Còn cô giáo chỉ là người gợi mở hướng dẫn trẻ. - Cần chú ý đến phương pháp nêu câu hỏi nhằm đạt kết quả cao trong việc tổ chức hướng dẫn trẻ phân tích, tìm kiếm và phát hiện dẫn dắt trẻ đi đến khái quát những vấn đề cần lĩnh hội. Ví dụ: + Câu hỏi dựa trên sự tự giác và trí nhớ tái tạo của trẻ: + Con vừa làm nhiệm vụ gì?. + Câu hỏi tái tạo có nhận thức: Số hoa sẽ là bao nhiêu nếu thêm 1 bông? Làm thế nào để biết số lượng của 2 hình = nhau? Làm thế nào để biết băng giấy này dài hơn hay ngắn hơn băng giấy kia ?. + Câu hỏi sáng tạo có nhận thức: Làm thế nào để số lượng 2 nhóm đối tượng trở lên bằng nhau hay nhiều hơn, ít hơn nhau 1 hay là 2 . + Tôi sử dụng những câu hỏi cụ thể, rõ ràng, có lôgíc, ngắn gọn, dễ hiểu đối với trẻ 12 + Câu hỏi đa dạng về hình thức (Cùng 1 nội dung câu hỏi nhưng có nhiều cách đặt câu hỏi khác nhau). + Hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. + Số lượng câu hỏi vừa đủ, không nên nhiều quá sao cho đạt mục đích yêu cầu bài học. + Nên sử dụng các câu hỏi theo hướng mở. - Cô khuyến khích trẻ tự tin đặt những câu hỏi, những thắc mắc, diễn tả và chia sẻ ý tưởng của chúng mà không sợ bị chê cười" Cho trẻ đố nhau; Còn cách nào khác nữa?. Và một trong các yếu tố khuyễn khích trẻ hoạt động tích cực nhất đó là lời nhận xét động viên của cô giáo. Khi trẻ có câu trả lời đúng, ngắn gọn tôi thường khen ngợi động viên trẻ kịp thời, khuyến khích những trẻ ít hoạt động tự tin hơn khi tham gia hoạt động cùng các bạn thúc đẩy hoạt động độc lập, tích cực của trẻ. Ví dụ: + Câu hỏi của con rất hay + Một câu hỏi rất thông minh + Bạn đã trả lời rất đúng + Bạn đã trả lời rất chính xác Để củng cố kinh nghiệm đã có và phát huy tính tự lập của trẻ tôi thường xuyên cho trẻ ôn luyện ở mọi lúc, mọi nơi, tận dụng các hoàn cảnh cụ thể ở mọi thời điểm, trong các hoạt động tôi luôn đặt ra các tình huống có vấn đề để củng cố các kiến thức đã học. Ví dụ: * Chồng bát đĩa, cốc lên nhau: - Cái nào to nhất? - Cái nào ở dưới đáy (Dưới cùng) - Cái nào tiếp theo? - Mỗi chồng có bao nhiêu? * Tôi sử dụng các hình thức cho việc định lượng cho từng đối tượng - Cái nào đầy rồi? - Cái nào rỗng? 13 - Cái nào đựng 1 nửa? - Bao nhiêu chén đây? - Chơi thả vật xuống nước đếm xem có bao nhiêu vật chìm, bao nhiêu vật nổi?. - Có thể té nước xa bao nhiêu?. * Tôi tổ chức cho trẻ quan sát ngôi nhà : - Có bao nhiêu cửa ra vào? - Cửa sổ, cửa ra vào hình gì? * Sử dụng các loại đồ chơi - Chơi xây dựng lắp ghép: + Tháp nào cao nhất? Thấp hơn? Thấp nhất? + Bao nhiêu khối gỗ - gạch mới xây được tháp cao như thế? + Thi xây tháp nhanh nhất với 5 viên gạch - Đồng thời tôi tích cực đưa các trò chơi trong chương trình kidsmart như "Đi tìm kho báu". " ngôi nhà ước mơ của em"… Bằng các trò chơi như vậy trẻ rất hứng thú, tiếp thu kiến thức 1 cách tự nhiên trẻ không biết mình đang học. Nhưng cái chính là cô đã đạt được mục đích yêu cầu dạy học thông qua trò chơi. - Lồng ghép tích hợp trong các hoạt động như hoạt động tạo hình: Vẽ những con vật bé thích; hoạt động văn học: có tổng tất cả bao nhiêu nhân vật trong truyện?.... 3.5. Phối hợp với phụ huynh để nâng cao chất lượng trong hoạt động cho trẻ làm quen với toán. Tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh biết được tầm quan trọng của việc cho trẻ làm quen với toán, để thống nhất các biện pháp dạy trẻ ở nhà, nhất là đối với những trẻ còn hạn chế về nhận thức: Sử dụng hệ thống các câu hỏi có liên quan đến các sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ có liên quan đến hoạt động làm quen với toán nhằm thu hút sự quan tâm chú ý của trẻ, giúp trẻ có những kiến thức toán học tốt hơn: VD: + Lúc ngủ dậy: - Sáng rồi à? Mấy giờ rồi? - Quần áo nào mặc trước? 14 - Mặc quần áo như thế nào? + Khi tắm rửa: - Hãy chải răng trên, răng dưới - Khăn mặt bé, khăn tắm to + Ở cửa hàng: - Hộp bánh to hay nhỏ? - Cái mũ đặt ở đâu? - Có bao nhiêu cúc áo - Ngoài ra tôi còn gửi cho phụ huynh các bài tập liên quan đến toán để phụ huynh giành nhiều thời gian học cùng con ở nhà. Tôi còn hướng dẫn phụ huynh cách dạy và học toán cùng con như thế nào cho hiệu quả và đạt chất lượng cao nhất. Với những cách làm như vậy vừa nâng cao tính tích cực, hứng thú của trẻ tham gia vào môn học được cho là một môn học khó, vừa nâng cao nhận thức của phụ huynh với trường, lớp mầm non đây là một trong những biện pháp hiệu quả và thiết thực. 4. Kết quả đạt được 4.1. Về phía giáo viên Bằng biện pháp kinh nghiệm mà tôi đã nêu trên giúp cho tôi trau dồi thêm về kiến thức để nâng cao chất lượng trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Vì vậy mà qua những giờ thăm lớp, dự giờ của các cấp lãnh đạo, qua những lần tham dự hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp tôi đều đạt những giờ dạy xếp loại tốt 4.2. Về phía trẻ Với những biện pháp trên năm học 2014 – 2015. Chất lượng làm quen với quen với toán trẻ được tăng lên rõ rệt. Trẻ rất hứng thú thoải mái, vui vẻ, tự tinh trong giờ học, lớp tôi đã đạt được những kết quả rất khích lệ. Với tổng số 30 trẻ trong đó 15 bé gái và 15 bé trai. + 100% trẻ hứng thú tích cực, mạnh dạn tự tin có khả năng giải quyết vấn đề, tư duy, tham gia hoạt động làm quen với Toán. + 100% trẻ nhận biết được các chữ số từ 1 đến 10 và có các kĩ năng đếm, thêm bớt, so sánh trong phạm vi 10. 15 + 30/30 trẻ có khả năng phân biệt hình dáng, kích thước, định hướng không gian, thời gian rất chính xác. 4.3. So sánh đối chứng Tổng số Thời gian Tốt Khá Đạt Không đạt trẻ trong SL % SL % SL % SL % 1 3,3 12 40 11 36,7 6 20 lớp Trước khi áp dụng 9/2014 Sau khi áp dụng 30 30 6 20 20 66,7 4 13,3 0 0 2/2015 Thông qua số liệu đối chứng ta thấy tỉ lệ trẻ đạt tốt tăng 16.7%, tỉ lệ trẻ khá tăng 26.7% đặc biệt không còn trẻ không đạt yêu cầu. Nhìn vào kết quả như trên tôi có thể khẳng định một điều rằng sau khi áp dụng các biện pháp như trên vào đề tài trẻ lớp tôi rất nhanh nhẹn, hoạt bát, có nhiều kỹ năng trong toán học và kiến thức của bộ môn này. Với kết quả trên không chỉ đối với trẻ mà cũng khiến bản thân tôi từ đây càng nắm chắc hơn về phương pháp giảng dạy và truyền thụ kiến thức hiệu quả nhất cho trẻ, lôi cuốn thu hút hấp dẫn trẻ mà nhẹ nhàng thoải mái, phát huy được hết tính tích cực của trẻ mà không có sự gò bó. Đặc biệt là nâng cao được kỹ năng trong làm quen với toán như: Đếm, so sánh, thêm bớt, chia tách, xếp theo quy tắc...... 5. Bài học kinh nghiệm Như vậy, qua quá trình cho trẻ làm quen với toán bản thân tôi đã rút ra những kinh nghiệm quý báu đó là: - Cần chú ý đến việc cho trẻ nắm chắc được phương pháp (cách thức) của hoạt động làm quen với toán. Cần trang bị cho trẻ các phương pháp họat động thúc đẩy sự phát triển tính tích cực nhận thức có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chính vì vậy việc tạo sự hứng thú cho trẻ với hoạt động làm quen với toán ở trẻ phụ thuộc trực tiếp vào phương tiện dạy học được sử dụng, việc vận dụng kiến thức toán học vào các hoạt động. Hoạt động cá nhân với từng trẻ là rất cần thiết, 16 qua đó giáo viên có thể tích cực hóa tối đa hoạt động nhận thức của trẻ dựa trên vốn kinh nghiệm đã có và nâng lên mức cao hơn, kích thích mong muốn hoạt động độc lập trong mỗi cá nhân trẻ. - Giáo viên cần linh hoạt, sáng tạo sử dụng các biện pháp, hình thức tổ chức cho trẻ làm quen với Toán như tổ chức dưới dạng trò chơi, hay dưới hình thức hội thi. Việc sử dụng cuốn "Bé làm quen với Toán", cho trẻ học ở mọi lúc, mọi nơi. - Cô giáo cung cấp các vấn đề có ý nghĩa, thú vị, gần gũi, liên quan đến cuộc sống thực của trẻ để trẻ giải quyết. - Cho trẻ làm những việc phù hợp với khả năng. - Cô giáo cung cấp ngôn ngữ cho trẻ các khái niệm toán sơ đẳng. Dành thời gian để trẻ nhận xét và suy nghĩ về điều hay đề cập tới, khuyến khích trẻ sáng tạo, tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau cho một vấn đề, một tình huống. - Cô giáo là người bắc cầu nối giữa kinh nghiệm trẻ đã có và kiến thức mới bằng việc đặt câu hỏi dẫn dắt ngắn gọn, rõ ràng, phát triển tư duy của trẻ. - Làm tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh trong việc sưu tầm đồ dùng, đồ chơi và chuẩn bị tốt các kiến thức, tâm lý để trẻ có một hành trang vững chắc bước vào lớp 1. 6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng. Để sáng kiến được nhân diện rộng rãi không chỉ ở tại trong nhà trường nơi tôi công tác mà còn có thể áp dụng tại các trường mầm non trong và ngoài Thị xã thì cấn có đội ngũ giáo viên vững mạnh, có trình độ năng lực chuyên môn, có cơ sở vật chất đầy đủ, đảm bảo theo yêu cầu và đặc biệt có sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 17 1. Kết luận. Có thể khẳng định rằng qua việc áp dụng đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi tích cực, hứng thú học tốt môn toán” và với các biện pháp thực hiện như trên tôi đã đánh giá được tình hình thực tế về chất lượng làm quen với toán cho trẻ tại lớp của mình. Sau khi thực hiện đề tài này tôi càng thấy được bộ môn Toán là một môn học quan trọng có ý nghĩa phát triển tư duy, nhận thức cho trẻ. Chúng ta cũng biết rằng đối với trẻ lứa tuổi mầm non thì phát triển tư duy và đặc biệt tư duy logic cho trẻ là rất quan trọng mà để phát triển được tư duy cho trẻ thì chúng ta phải có đầu tư, đầu tư từ năng lực của bản thân, đầu tư cơ sở vật chất và đầu tư bồi dưỡng cho trẻ để trẻ có điều kiện, có hứng thú và tích cực khám phá, tìm tòi và có kiến thức về môn Toán. Chúng ta đã và đang cung cấp dạy cho trẻ muôn vàn những kiến thức vô giá nhưng hãy mang lại những gì hay nhất, phong phú nhất cho trẻ đến gần với toán hơn. 2. Khuyến nghị Để tạo cơ hội cho trẻ được hứng thú, tích cực trong hoạt động với toán tôi xin đề xuất một số ý kiến sau: - Đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm, đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học nói chung và đồ dùng phục vụ hoạt động làm quen với toán nói riêng . - Đề nghị nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề, ngoại khóa về toán để bồi dưỡng thêm về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. Trên đây là một số kinh nghiệm trong việc thực hiện tạo sự hứng thú trong hoạt động cho trẻ làm quen với Toán nhằm hình thành tính tích cực trong quá trình học Toán cho trẻ 5 - 6 tuổi. Rất mong được sự góp ý của cấp trên và đồng nghiệp!. Tôi xin chân thành cảm ơn!. 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hướng dẫn thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi 2. Sách bài tập cho trẻ làm quen với toán độ tuổi 5-6 tuổi 3. Tài liệu tập huấn chuyên đề lĩnh vực phát triển nhận thức 4. Chương trình khung của mầm non . Và một số tài liệu khác có liên quan đến toán cho trẻ mầm non MỤC LỤC 19 Những thông tin chung về sáng kiến……………………………….............1 Tóm tắt sáng kiến………………………………......................................2- 4 MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến………………………………………....5 2. Thực trạng của vấn đề............................................................................6- 7 3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ LQVH.........................8- 15 4. Kết quả đạt được, So sánh đối chứng..................................................15- 16 5. Bài học kinh nghiệm..................................................................................17 6. Phạm vi áp dụng đề tài......................................................................... 17 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận......................................................................................................18 2. Khuyến nghị................................................................................................18 20 Một số biện pháp giúp trẻ 5 6 tuổi học tốt môn toánBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.47 KB, 17 trang ) A. Đặt vấn đề. các sự vật, hiện tượng, trẻ thích nghi với các hoạt động khác nhau. Qua các hình thức hoạt động dần dần trẻ có khái niệm về thế giới xung quanh, rồi có nhu cầu muốn hiểu biết đặc điểm, tính chất của các sự vật hiện tượng về hình dạng, kích thước, vị trí và cách sắp xếp của chúng. Tất cả những hiểu biết của trẻ tích luỹ từ những kinh nghiệm của trẻ cùng với sự hướng dẫn của cô giáo và người lớn. Sự hiểu biết đó là cơ sở hình thành các biểu tượng về toán học nhằm giúp trẻ hình thành và phát triển các năng lực trí tuệ: cảm giác, tư duy, ngôn ngữ, phát triển khả năng chú ý, khả năng ghi nhớ, trí tưởng tượng... Cho trẻ làm quen với toán tạo tiền đề cho trẻ vào lớp một. Nhiệm vụ của cô mẫu giáo là chuẩn bị cơ sở và kiến thức sơ đẳng về các biểu tượng toán. Giúp trẻ học tốt bộ môn toán ở lớp một. Góp phần to lớn trong việc phát triển toàn diện và hình thành nhân cách cho trẻ. Hiểu rõ tầm quan trọng của bộ môn tôi thấy cần phải cung cấp và cho trẻ làm quen với các biểu tượng toán học, làm thế nào để trẻ say mê học và nhận biết sâu rộng về bộ môn này. Nhưng trong thực tế ở các trường mầm non nói chung và lớp tôi nói riêng trong những năm qua để thực hiện được những tiết dạy làm quen với toán tốt, đạt kết quả cao, đáp ứng được yêu cầu bộ môn là một vấn đề rất khó khăn. Trước hết là do điều kiện khách quan đó là đội ngũ giáo viên nhận thức còn hạn chế về: trình độ chuyên môn, khả năng sáng tạo, linh hoạt ... bản thân mỗi giáo viên chưa hiểu hết ý nghĩa và tầm quan trọng của bộ môn, còn xem nhẹ, ngại khó, chưa thực sự tìm tòi sáng tạo, chưa đi sâu soạn bài, nghiên cứu tài liệu của bộ môn. Vì thế khả năng truyền thụ kiến thức cho trẻ còn nhiều hạn chế, còn rập khuôn máy móc, chưa phát huy được tính tích cực sáng tạo của trẻ. Mặt khác cơ sở vật chất chưa thật đầy đủ, đồng bộ và chưa đa dạng phong phú. Bên cạnh đó sự phối hợp với phụ huynh còn hạn chế, nhiều bậc phụ huynh quan điểm đưa con đến trường chỉ đơn thuần ăn,ngủ, học múa,học hát hoặc có quan điểm gửi con để rảnh tay, rảnh chân để làm ăn, còn học toán lên đến bậc tiểu học mới cần thiết. 2 Mặt khác nữa con trẻ khả năng chú ý chưa cao, dễ bị phân tán, hiểu biết kinh nghiệm còn ít... Do những điều kiện trên nó đã có tác động đến khả năng nhận thức và kết quả của trẻ. Trẻ nhận biết phân biệt chưa chính xác, còn mơ hồ. Với những thực trạng trên bản thân tôi lựa chọn đề tài : “ Một số biện phỏp giỳp trẻ 5-6 tuổi học tốt môn toán ” để nghiên cứu nhằm tỡm ra những biện phỏp giỳp trẻ học môn toán đạt hiệu quả cao nhất,tạo cho trẻ một nền tảng vững chắc nhất để trẻ vững tin bước vào lớp một. II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. 1. Thực trạng 1.1. Cơ sở lí luận Việc cho trẻ mẫu giáo lớn làm quen với các biểu tượng ban đầu về toán học là vô cùng quan trọng, bởi thông qua các bài tập về miêu tả sự vật , phân loại, xếp thứ tự . số lượng , định hướng trong không gian và thời gian … trẻ sẽ có cơ hội phát triển óc quan sát , khả năng phát hiện đối tượng, biết so sánh, phán đoán, phân tích, tổng hợp, rèn luyện phát triển tư duy và một số kỹ năng khác. Bên cạnh đó, việc hình thành cho trẻ các biểu tượng toán sơ đẳng mà giáo viên đã làm chính xác hóa các biểu tượng, những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho trẻ , đồng thời cũng cố tri thức đã biết ( hình dạng, kích thước, số lượng…) Qua đó, giúp trẻ phát triển về ngôn ngữ , hoàn thiện về mọi mặt , vì trong giờ học toán trẻ phải thực hành, trẻ phải trả lời các câu hỏi cô giáo đặt ra và được nêu lên những suy nghĩ của mình về vấn đề mà trẻ quan tâm. Ngoài ra việc sử dụng ngôn ngữ toán học thường xuyên sẽ giúp trẻ hiểu được chính xác các biểu tượng mà không bị nhầm lẫn hay sai lệch.Từ đó giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn. Không chỉ dừng lại trong việc góp phần phát triển khẳ năng chú ý, ghi nhớ, tưởng tượng có mục đích của trẻ, rèn luyện các khẳ năng phân tích, tổng hợp và tư duy logic góp phần hoàn thiện phát triển năng lực cảm giác, tri giác, 3 thúc đẩy tính tò mò , sự ham hiểu biết ở trẻ. Mà thông qua việc tiếp xúc với sự vật hiện tượng, đồ vật và các khái niệm về hình như hình tam giác, hình chữ nhật, hình vuông, hình tròn, trẻ hiểu được các khái niệm toán học ( hình dạng, màu sắc,…) đó là những khái niệm cơ bản để hình thành những tri thức sau này cho trẻ. Đồng thời toán học còn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày cho trẻ mẫu giáo, giúp trẻ phát triển quá trình tâm lý như tư duy hành động, tư duy trừu tượng, tư duy sáng tạo. Tuy nhiên, để việc hình thành các biểu tượng toán học ban đầu cho trẻ mẫu giáo lớn đạt được kết quả cao, bên cạnh việc hướng dẫn của giáo viên, đồng thời giáo viên phải luôn tìm ra cho trẻ những tình huống để trẻ tự tìm tòi , khám phá, giúp trẻ đúng lúc, đúng chỗ, không mang tính gò ép hay áp đặt trẻ. 1.2. Thực trạng a. Về thuận lợi: Bản thân là một giáo viên trẻ đó tham gia học xong lớp đại học nhằm nâng cao chuyên môn,nghiệp vụ. Luôn có tinh thần học hỏi, nhiệt tình, tâm huyết với nghề, tích cực tham khảo tài liệu, dự giờ dạy mẫu để rút kinh ngiệm cho bản thân. Và hơn thế nữa bản thân luôn được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường, sự chỉ đạo sát sao của các cấp chuyên môn phòng giáo dục . Các cháu lớp tôi đang chủ nhiệm lớp 5 - 6 tuổi với số cháu là 32 cháu. Các cháu đều khoẻ mạnh cùng độ tuổi ham hiểu biết và rất nhạy cảm . Lớp học ở khu trung tâm của trường nên phòng học rộng rãi, sạch sẽ, thoáng mát về mùa hè , ấm áp về mùa đông trường có khuôn viên rộng rải với các loại cây phong phú, không khí trong lành, đồ dùng đồ chơi tương đối đầy đủ.Bên cạnh đó trường tôi là trường công lập thực hiện dạy ngày 2 buổi,nờn tôi có thời gian vào buổi chiểu để ôn luyện cho những trẻ còn kém. b.Về khó khăn: Bờn cạnh những thuận lợi cũn gặp khụng ớt khú khăn : Lớp tôi là một lớp đông cháu, dân chủ yếu là nông thôn. Do trình độ dân trí thấp quan niệm của nhiều người phụ huynh còn nhiều hạn chế, khi đưa 4 con đến lớp đa số phụ huynh chỉ nghĩ rằng con đến lớp mẫu giáo chủ yếu là hát hò dăm ba bài và chơi là chủ yếu. Hơn nữa cũng do điều kiện kinh tế gia đình còn rất hạn hẹp cho nên việc đóng góp các khoản theo quy định của nhà trường còn khó khăn. Việc mua thêm đồ dùng rất cần thiết để phục vụ học tập. Mặt khác cũng do đặc điểm của trẻ lứa tuổi này đang cũn ham chơi, chóng nhớ, chóng quên. Thấy vậy tôi rất lo lắng nếu kéo dài tình trạng trên thì khi cháu ra học lớp 1 sẽ ra sao.Với trách nhiệm là một người giáo viên cùng với tấm lòng của người mẹ thứ hai đối với các cháu tôi suy nghĩ tìm mọi cách để cung cấp cho trẻ những biểu tượng sơ đẳng về toán có hiệu quả cao hơn. Xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn trên qua nghiên cứu tìm tòi tôi đã đưa ra được những biện pháp tối ưu để có hướng giúp trẻ học môn toán đạt hiệu quả cao nhất. Trước khi đưa vào thực hiện ngay từ đầu năm học tôi đã khảo sát phân loại khả năng tiếp thu kiến thức của trẻ với môn : “Làm quen với toán” như sau: Kết quả khảo sát ban đầu: Qua khảo sát chất lượng lần 1 cho thấy: STT 1 2 Mức độ, khả năng Mức độ, hứng thú % + từ đầu đến cuối hoạt động 30-40 % + 10 phút đầu: 60- 65 % Kết quả hiểu bài sau buổi + Đạt yêu cầu: 60 - 70 % học. + 10 phút đầu: 35-40 % Qua kết quả trên khiến tôi rất trăn trở. Đặc biệt là chất lượng của trẻ độ 5-6 tuổi. Chính điêù đó đã thôi thúc, lôi cuốn tôi tìm tòi, suy nghĩ để tìm ra biện pháp giáo dục đạt kết quả . B. Giải quyết vấn đề. I. Cỏc giải phỏp thực hiện 1. Tổ chức dạy kết hợp trong hoạt động vui chơi. 2. Tổ chức dạy kết hợp với đi dạo , tham quan, hoạt động ngoài trời. 5 3. Tổ chức ở mọi nơi trong sinh hoạt hàng ngày. 4. Tổ chức trong các hoạt động học tập khác. 5. Môi trường toán học. 6. Cụng tỏc phối hợp với phụ huynh. II. Cỏc biện phỏp thực hiện. 1. Tổ chức dạy kết hợp trong hoạt động vui chơi. Trong quá trình vui chơi trẻ được làm quen hoặc vận dụng những hiểu biết về “Toán” để tiến hành chơi. Ví dụ 1: Trong nhóm chơi lắp ghép, xây dựng: Trẻ biết sử dụng các khối tam giác, khối vuông, khối chữ nhật, khối trụ để lắp ghép hàng rào, đường đi, đoàn tàu, ngôi nhà và một số đồ dùng, đồ chơi như bàn ghế ... Trong quá trình hướng dẫn trẻ hoạt động, tôi dùng những câu hỏi để gợi ý dẫn dắt hoặc kiểm tra trẻ. Cháu xếp gì đây? (Xếp ngôi nhà) Xếp như thế nào? Dùng cái gì để xếp khung nhà? (Khối chữ nhật, khối vuông) Dùng cái gì để xếp mái nhà? (Khối tam giác) Ví dụ 2: Trong nhóm chơi bế em. Tập cho trẻ biết nhìn nhận sự khác nhau của đồ vật. Em búp bê này to hơn - Em búp bê kia nhỏ hơn. Cái giường này to hơn - Cái giường kia nhỏ hơn. Em búp bê to thì dùng bát to, thìa to - em búp bê nhỏ thì dùng bát nhỏ, thìa nhỏ. Trong các trò chơi học tập: Tìm đúng nhà, tìm bạn thân, đồ chơi gì biến mất, cái túi ký lạ ...tụi luụn tỡm cơ hội để trẻ được trải nghiệm cỏc biểu tượng sơ đẳng về toán Những trò chơi giúp trẻ củng cố và ôn luyện các kiến thức, kỹ năng đã học về toán. Tôi cho trẻ chơi nhiều hơn. 2. Tổ chức dạy kết hợp với đi dạo, tham quan, hoạt động ngoài trời 6 Cô hướng dẫn trẻ quan sát nhận biết các vật có hình dạng, kích thước, số lượng, vị trí của chúng trong không gian. Cô cho trẻ quan sát nhận biết cây cao - cây thấp; lá này to hơn - lá kia nhỏ hơn; là này dài hơn - lá kia ngắn hơn; lá này màu gì - hoa màu gì. Hoặc cho trẻ nhận xét cô cao hơn hay cháu cao hơn, bạn A cao nhất - bạn B thấp hơn - ban C thấp nhất. Hoặc có thể cho trẻ nhận biết được vị trí của các đồ vật,đồ chơi với nhau,vị trí của các bạn với nhau… 3. Tổ chức ở mọi nơi trong sinh hoạt hàng ngày. Cô giáo cần tận dụng linh hoạt ở mọi thời điểm trong sinh hoạt hàng ngày để dạy trẻ. Cô có thể giới thiệu cho trẻ được làm quen hoặc vận dụng những điều đã biết. Tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể để hướng dẫn trể sử dụng đúng từ: to nhất, nhỏ hơn, nhỏ nhất, rộng nhất - hẹp hơn, hẹp nhất, cao nhất thấp hơn, thấp nhất, dài nhất -ngắn hơn, ngắn nhất - nhiều hơn - ít hơn ..., tập đếm, so sánh 2 nhóm, thêm bớt. Ví dụ 1: Giờ đón trẻ. Cho trẻ chơi với đồ chơi tự chọn. Cho trẻ lắp ghép theo ý thích hoặc theo yêu cầu: Xếp các đồ vật giường, tủ, nhà, bàn ghế .... Xếp theo mẫu: Xếp tạo nhóm theo dấu hiệu cho trước, tạo nhóm thêm bớt trong phạm vi 5. Ví dụ 2: Khi trẻ chơi xong hoặc khi cho trẻ lau chùi cất đồ chơi. Tập cho trẻ biết xếp riêng từng loại đồ dùng, đồ chơi có hình dạng kích thước giống nhau, biết cất đồ dùng đúng nơi quy định theo yêu cầu (cất vào ngăn trên, để vào ngăn dưới, để phía sau, để phía trước ...) Ví dụ 3: Khi ăn cơm cô có thể cho trẻ làm quen hoặc luyện nhận biết tay phải, tay trái. Tay phải làm gì? tay trái làm gì? Cháu cầm thìa tay phải, còn tay trái giữ bát. Bạn nào ngồi ở phía trái, phía phải, phía sau, phía trước của cháu hoặc xác định vị trí của đồ vật so với bạn khác. 7 Hoặc mỗi nhóm có 8 bạn ngồi với nhau vậy cô phải chia mấy bát cơm và cần mấy cái thỡa tương ứng… 4. Tổ chức trong các hoạt động học tập khác: Trong hoạt động học tập giáo viên cho trẻ nhận biết, phân biệt và tạo nên các đồ vật khác nhau về hình dạng, kích thước, màu sắc. Ví dụ: Môn MTXQ: Quan sỏt một số loại hoa quả. Cho trẻ nhận biết so sánh quả về màu sắc, hình dạng, kích thước. Môn tạo hình: Cô hướng trẻ biết vẽ, nặn, xé, dán, quy về từ những hình cơ bản: Vuông, tròn, tam giác, chữ nhật để tạo thành các đồ vật ... Ví dụ 1: Vẽ ô tô tải: Đầu xe có dạng hình chữ nhật đứng, thùng xe có dạng hình chữ nhật nằm ngang, bánh xe có dạng hình tròn. Ví dụ 2: Xé dán đàn gà con: Trẻ biết xé dán con gà quy về các hình. Xé dán hình tròn to làm mình, xe dán hình trũn nhỏ làm đầu, xe dán hình tam giác làm mỏ, đuôi và các chi tiết phụ khác. Tóm lại: Hình thức tổ chức dạy trẻ kết hợp trong các hoạt động khác trong ngày của trẻ là việc làm cần thiết trong quá trình hình thành các biểu tượng toán ban đầu cho trẻ. Để thực hiện tốt biện pháp này, tôi phải lập kế hoạch thực hiện cho từng ngày, từng tuần, từng tháng sau cho biện pháp này là chỗ dựa tốt cho trẻ học tốt trên tiết học và vừa là chỗ trẻ được vận dụng, củng cố các kiến thức, các kỹ năng đã biết vào trong hoạt động sinh hoạt hàng ngày. Để trẻ ghi nhớ sâu sắc và tạo điều kiện cho trẻ hoạt động. Trẻ càng hứng thú tích cực hoạt động bao nhiêu thì trẻ càng giàu biểu tượng toán bấy nhiêu. Qua đó giúp trẻ phát triển thông minh, nhanh nhẹn ... Để trẻ hứng thú tích cực tham gia vào hoạt động tôi thường chú trọng vào những việc làm sau: * Chuẩn bị phong phú các loại đồ dùng, đồ chơi đẹp mắt, hấp dẫn, sáng tạo phù hợp, phục vụ cho trẻ làm quen với toán. 8 * Ngôn ngữ của cô là một nhân tố quyết định trong việc cung cấp các biểu tượng về toán cho trẻ bằng sự thu hút trẻ tích cực hoạt động. Tôi thường xuyên trau chuốt ngôn ngữ, lời nói để có sức truyền cảm, thuyết phục, sử dụng ngôn từ chính xác. Tôi dùng nhiều ngôn ngữ, thái độ để tạo nên những tình huống bất ngờ gây sự chú ý cho trẻ. * Tổ chức tiết dạy theo một chủ đề tích hợp được nội dung các hoạt động. Tổ chức dạy theo một chủ đề, cần chọn chủ đề phù hợp với bài dạy, liên kết được các nội dung, giới thiệu hấp dẫn, chuyển tiếp phải phù hợp, logic để tạo được cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái và gây hứng thú trong tiết học. * Lồng ghộp các nội dung dạy vào các hình thức chơi để trẻ hứng thú hoạt động. Để thực hiện rõ biện pháp này, tôi phải nắm bắt và hiểu rõ được đặc điểm của trẻ mầm non và trẻ 5-6 tuổi nói riêng. Trẻ ham hiểu biết, tò mò, thích khám phá nhưng lại rất dễ nhàm chán, nhanh nhớ, chóng quên. Vì vậy khi tôi lồng hình thức vui chơi vào tiết dạy, tôi dùng những yếu tố trò chơi, thủ thuật chơi vào tiết học để cho trẻ cảm giác nhẹ nhàng thoải mái khi tiếp thu kiến thức “Học bằng chơi, chơi bằng học”. Trong tiết học tôi thường dùng các thủ thuật chơi để tạo các tình huống bất ngờ, có vấn đề để trẻ giải quyết, hoặc thay đổi các trò chơi mới lạ, hấp dẫn, đồng thời sắp xếp theo nguyên tắc động tĩnh để phù hợp với trẻ, trẻ dễ hoạt động và hoạt động tích cực hơn. Để thực hiện được điều đó tôi sưu tầm sáng tác các trò chơi mang tính thi đua và có nội dung giaó dục phù hợp với từng bài. Ví dụ: Dạy trẻ đếm đến 6 - nhận biết nhóm có 6 đối tượng. Tôi chuẩn bị một số đồ dùng sau: - Mỗi trẻ 1 rổ to trong đó có 6 rổ nhỏ và 6 bó lúa. - Một hộp quà có 5 bắp ngô, 5 củ cà rốt, 5 quả cà chua. - Xây dựng mô hình: khu rừng - 6 củ cà rốt, 6 củ cải trắng, 3 bản dính xốp, một số hình tròn, tam giác, hình vuông, hình chữ nhật. Gắn các loại rau, củ, quả ở phía sau. 9 Khi dạy những bài dạy trẻ đếm và xác định số lượng hoặc so sánh thêm bớt tạo nhóm, tôi chuẩn bị nhiều nhóm đồ dùng như: thỏ - cà rốt; ấm, cốc; Hoa, bướm, voi, cá, ô đẹp bền, phù hợp, đủ số lượng. Tuỳ từng bài dạy mà tôi chọn chủ đề, nội dung để tích hợp cho phù hợp, tránh rập khuôn cứng nhắc. Với bài dạy trẻ đếm đến 6 - nhận biết nhóm có 6 đối tượng. Với những đồ dùng như đã chuẩn bị ở phần trên, tôi tổ chức theo chủ đề: ngành, nghề: “người nông dân”. Ổn định cho trẻ hát bài “Ba má em là nông dân” Trò chuyện với trẻ về người nông dân làm những việc gì? Người nông dân trồng những loại cây gì? Lồng giáo dục trẻ: Phần 1: Ôn kỹ năng đếm đến 5. Cho trẻ chơi trò chơi gieo hạt, trồng lúa. Thóc đâu, thóc đâu? Thóc đây Gieo 5 hạt thóc xuống đất Trẻ gieo và đếm 5 hạt Nhỏ 5 khóm mạ Trẻ làm động tác nhổ mạ 5 lần Cấy lúa 5 lần Trẻ cấy lúa và đếm 5 lần Cây lúa lớn cho 5 bông Trẻ làm cây lúa trổ bông 5 lần Gặt 5 khóm lúa Trẻ gặt lúa 5 lần Cho trẻ mang lúa về nhà Trẻ chạy về chỗ ngồi. Bác nông dân tặng cho cả lớp hộp quà. Trẻ quan sát và mở hộp quà. Cho trẻ đếm từng nhóm. Trẻ đếm nhóm ngô (5 bông ngô). Nhóm cà rốt (5 củ cà rốt), nhóm cà chua (5 quả cà chua). Phần 2: Tạo nhóm có số lượng là 6- đếm đến 6. Cho trẻ phơi lúa giúp bác nông dân. Cho trẻ đếm - nhận xét số rổ và số lúa... Phần 3: Luyện đếm đến 6 Trò chơi biểu diễn thời trang (nhóm 6 trẻ tham gia) 10 Cho trẻ xem chương trình “Nhà Nông đua tài” Trẻ biểu diễn thời trang mang các loại rau, quả, trang trí trên áo quần. Cho trẻ đếm số lượng rau, củ, quả trên người các bạn. Trò chơi tìm đúng các nhóm “Rau, củ, quả” Cô giới thiệu có rất nhiều hình tròn, hình vuông... Sau mỗi hình đều có gắn các sản phẩm các bác Nông dân: rau, củ, quả” Yêu cầu trẻ chia thành 4 đội để chơi. Mỗi đội chọn một nhóm sản phẩm gắn gắn lên bảng có đủ số lượng là 6. Khi trẻ chơi xong, cô mời cả lớp đến kiểm tra kết quả của mỗi đội. * Với bộ môn văn học: Tôi dùng các câu chuyện, bài thơ, đồng dao, vè... để dẫn dắt vào nội dung bài học, để chuyển tiếp giữa các phần hay để ôn luyện kiến thức cũ. Ví dụ 1: ở tiết học dạy trẻ đếm đến 6 - nhận biết nhómcó 6 đối tượng như đã giới thiệu ở phần trên, tôi sử dụng bài thơ “Hạt gạo làng ta” của tác giả Trần Đăng Khoa vào phần chuyển tiếp giữa phần ôn kỹ năng đếm đến 5 và phần tạo nhóm có số lượng là 6 - đếm đến 6. Qua bài thơ đó lồng giáo dục trẻ. Phần chuyển tiếp giữa phần 2 và phần 3, tôi kể cho trẻ nghe câu chuyện “Bác nông dân và con khỉ” (kể tóm tắt). Yêu cầu trẻ đi vào rừng tìm giúp bác nông nhân 6 củ cải trắng và 6 củ cà rốt. Sau đó cho cả lớp đếm và kiểm tra lại. Ví dụ 2: với bài: Dạy trẻ phân biệt hình vuông, hình tròn, hình tam giác, hình chữ nhật, tụi sử dụng các câu đố về hình như: Tôi có 4 cạnh Độ dài bằng nhau Bạn hãy đoán xem Tôi là hình gì? (hình vuông) Chẳng phải quả bóng 11 Mà lăn rất dài bạn thử đoán xem Là hình gì thế (hình tròn) Với bộ môn âm nhạc tôi sử dụng các bài hát, điệu múa để ổn định tổ chức hoặc chuyển tiếp từng phần, hoặc để sử dụng trong các trò chơi nhằm gây hứng thú, tạo tâm thế thoải mái, nhẹ nhàng khi trẻ hoạt động. Ví dụ: Bài dạy xác định vị trí đồ vật so với bàn khác. Phần ôn: Tôi cho trẻ đứng thành 4 hàng hát và vận động với bài thể dục buổi sáng. Qua đó cho trẻ nhận biết phía trước, phía sau, phía trên, phía dưới của bản thân trẻ. Ví dụ: Khi dạy bài nhận biết phân biệt chiều cao của 3 đối tượng. Tôi sử dụng bài hát: “Ba má em là nông dân” và bài hát “Hội mùa” để vào bài và chuyển tiếp. * Với bộ môn thể dục, tôi sử dụng các hình thức vận động để trẻ thi đua nhằm gây hứng thú, đồng thời phát triển tính nhanh nhẹn, khéo léo cho trẻ. Ví dụ: Bài dạy nhận biết phân biệt khối vuông, khối chữ nhật, khối cầu, khối trụ. Ở phần ôn luyện tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi thi đua ai nhanh, chia trẻ làm 3 đội, mỗi đội 7 - 8 trẻ, từng trẻ bật qua các ô vòng hoặc chạy theo đường díc dắc lên lấy khối theo yêu cầu của cô. Khi trò chơi kết thúc, cô cho kiểm tra kết quả của mỗi đội. Với bộ môn tìm hiểu MTXQ: Tôi dùng các loại tranh ảnh về các con vật, đồ vật gần gũi xung quanh trẻ để làm đồ dùng trong việc hình thành cho trẻ các biểu tượng toán, đồng thời cung cấp thêm kiến thức về bộ môn MTXQ. Ví dụ: Dạy trẻ so sánh, thêm bớt tạo được sự bằng nhau giữa hai nhóm đồ vật trong phạm vi 5. Tôi tổ chức theo chủ đề rau quả. Qua đó lồng giáo dục 12 dinh dưỡng, giáo dục trẻ biết ăn các loại rau, củ, quả có nhiều chất bổ dưỡng cho cơ thể. 5. Môi trường toán học: Môi trường học toán là một biện pháp hữu ích và hết sức cần thiết đối với trẻ. Tôi thường xuyên sưu tầm vẽ, cắt dán các hình ảnh biểu tượng toán ở góc học tập và xung quanh lớp nhằm cung cấp đầy đủ một số biểu tượng gần và sát với bài dạy. Thường xuyên có sự thay đổi nhằm giúp trẻ học phong phú, phát huy tính tò mò, thích tìm hiểu khám phá của trẻ. Ví dụ: Cắt dán cây to, gắn hoa quả để tạo nhóm nhiều - ít. Cắt dán ô tô, đoàn tàu, ngôi nhà để cung cấp các biểu tượng về hình dạng. Cắt dán vẽ một số hoa, quả để trẻ phân biệt màu sắc, hình dạng, độ lớn của chúng. Vẽ các con vật, đồ dùng: Để cung cấp các biểu tượng rộng - hẹp; dài ngắn; to - nhỏ; số lượng... Ngoài ra tôi còn trang trí nhóm lớp sắp xếp các góc chơi theo từng tuần, từng giai đoạn phù hợp với các bài dạy, có những bảng dính rời và một số đồ vật, con vật bằng xốp bitít rời. Tôi cho trẻ ghép tạo nhóm về số lượng phù hợp với bài học hoặc các biểu tượng về hình dạng và kích thước. Bảng bông này phù hợp với từng bài dạy, sử dụng đa dạng, thường xuyên thay đổi được chủ đề, trẻ được tập học, tập làm... Ngoài ra ở những góc chơi khác, tôi luôn xây dựng góc chơi phù hợp với môi trường học toán. Ví dụ: Góc bán hàng chú ý cách trang trí về số lượng để phù hợp với bài dạy,ở góc xây dựng tôi cho trẻ xếp tương ứng cây xanh, cây hoa. Có thể kiểm tra giúp trẻ tạo nhóm. Ví dụ: ở góc nghệ thuật tôi sử dụng các dạng hình khối để tạo thành các con vật như con mèo, con lật đật, con công,ở góc học tập trưng bày một số đồ dùng trẻ dễ lấy, dễ cất. 6. Công tác phối hợp với phụ huynh: 13 Để dạy tốt bộ môn và nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với toán. Ngoài khả năng cố gắng của cô cần thiết phải có sự giúp đỡ của phụ huynh, có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, liên tục với phụ huynh, tuyên truyền rộng rãi ở các cuộc họp phụ huynh hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng cuả bộ môn để phụ huynh cùng phối hợp, hỗ trợ, đầu tư về mọi mặt như trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy và học tập. Vận động phụ huynh mua một số đồ dùng phục vụ cho bộ môn toán để dạy trẻ ở nhà như bộ lắp ghép hình, bộ so hình, que tính để xếp hình, qua tính để tạo nhóm, vở bé làm quen với toán. Để làm một số đồ dùng phục vụ bộ môn, tôi sưu tầm các nguyên vật liệu, phế liệu từ nguồn phụ huynh làm được: một số búp bê nhỏ, một số quạt, đồng hồ, làn, phích... Sau những buổi học tôi trao đổi với phụ huynh về việc học toán của trẻ ở lớp, cho phụ huynh xem quyển “bé làm quen với toán”, trao đổi kịp thời về tình hình của trẻ. Nhờ phụ huynh về luyện tập thêm cho trẻ. Kết hợp giữa gia đình và nhà trường để trẻ được luyện tập nhiều hơn. Cung cấp được một số kiến thức cần thiết hơn. C. Kết luận. 1. Kết quả nghiờn cứu. Với những biện pháp phù hợp, với khả năng và nhận thức của trẻ, cùng với sự cố gắng nổ lực của bản thân trong quá trình tổ chức hướng dẫn trẻ. Kết quả cho thấy rõ rệt: - Khi chưa áp dụng những biện pháp trên, tôi thấy giờ học quá thật khô khan, trẻ không hứng thú học. Kết quả trên trẻ thấp, trẻ không có kỹ năng, vốn kinh nghiệm ít ỏi, sử dụng đồ dùng còn lúng túng, nhận biết phân biệt không chính xác... - Sau khi áp dụng những biện pháp cụ thể trên, kết quả cho thấy trẻ học hứng thú hơn, tích cực hoạt động hơn, trẻ tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng, thoải 14 mái hơn và kết quả trên trẻ ngày càng tốt hơn, trẻ có vốn kinh nghiệm nhiều hơn, nhận biết phân biệt tương đối chính xác... Thể hiện kết quả cụ thể: Tổng số trẻ: 32 STT Mức độ, khả năng 1 Mức độ hứng thú % + Từ đầu đến cuối: 94% + Yếu tố tâm lý: 6% 2 Kết quả hiểu bài ngay sau buổi học + Đạt yêu cầu: 95% + Chưa đạt yêu cầu: 5% * Tóm lại: Nhìn vào bảng đánh giá chúng ta có thể nhận thấy rõ kết quả trên trẻ tăng lên rõ rệt sau khi áp dụng các biện pháp trên.Trẻ tiếp thu với môn học một cách nhẹ nhàng không gò bó, giúp trẻ lĩnh hội kiến thức mà cô đưa ra một cách hoàn thiện và mang lại kết quả cao hơn. * Đối với phụ huynh: nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, 100% phụ huynh tin yêu ủng hộ đóng góp đồ dùng đồ chơi, nguyên liệu và kinh phí hỗ trợ các đồ dùng, đồ chơi đảm bảo tính thẩm mỹ. Nhờ đó lớp được trang trí đẹp, đầy đủ về cơ sở vật chất. * Đối với bản thân: - Để có kết quả trên tôi luôn nâng cao trình độ, có tinh thần học hỏi, dự giờ thăm lớp, đúc rút kinh nghiệm cho bản thân, tham gia thi thao giảng tại trường về bộ môn chuyên đề. Tham gia đầy đủ các lớp chuyên đề của phũng GD tổ chức. Trang trí nhóm lớp, tạo môi trường học toán được trường đánh giá lớp tốt, có chất lượng. Bổ sung thêm được một số đồ dùng, đồ chơi, đảm bảo đủ số lượng, chất lượng như: sóc, hươu, thỏ, cà rốt, cây xanh để dạy cao, thấp; bộ đồ dùng các loại khối... Trong trường hợp tôi luôn có ý thức và tinh thần trách nhiệm để làm sao có giờ dạy tốt, kết quả đạt trên trẻ tốt, tôi không ngừng học hỏi và tìm tòi sáng tạo hơn nữa. 2. Bài học kinh nghiệm. 15 - Cô giáo phải mẫu mực kiên trì, yêu nghề và luôn tìm tòi biện pháp mới linh hoạt và sáng tạo trong việc giảng dạy, tự sáng tạo các trò chơi hấp dẫn để tổ chức vào tiết học, gây sự hứng thú cho trẻ. - Cô giáo tuyệt đối không trông chờ ỉ lại vào chương trình và đồ dùng, đồ chơi có sẵn mà phải nghiên cứu làm thêm một số đồ dùng, đồ chơi, sáng tác các trò chơi gây hứng thú cho trẻ. - Muốn cho giờ dạy toán đạt hiệu quả thì bản thân người giáo viên phải chuẩn bị chu đáo cho việc tổ chức các hoạt động .Từ đồ dùng cho đến các hình thức tổ chức và việc lồng ghép tích hợp các môn học, sự phối kết hợp giữa hoạt động động và hoạt động tĩnh . - Nghiên cứu kỹ bài dạy để rút ra những nội dung trọng tâm của tiết dạy và có biện pháp cụ thể vận dụng để tổ chức cho từng tiết dạy. Phải biết lồng ghép các nội dung dựa trên các trò chơi, bài hát, bài thơ một cách phù hợp. - Giáo viên phải coi trọng việc xây dựng giờ dạy trên lớp sao cho khoa học hợp lí phù hợp với sự phát triển của trẻ và có kế hoạch dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Tận dụng mọi tình huống, cơ hội để trò chuyện với trẻ, giúp trẻ tiếp xúc và làm quen với biểu tượng toán học một cách say mê hứng thú. - Giáo viên phải biết tham mưu có hiệu quả với nhà trường với các cấp lãnh đạo, các đoàn thể ở địa phương và vận động phụ huynh về sự đóng góp để có đủ đồ dùng phục vụ cho dạy và học.nghiên cứu tham khảo tài liệu có liên quan kết hợp với học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường. - Rèn luyện cho trẻ mọi lúc mọi nơi trên tình cảm yêu thương nhẹ nhàng tạo cho trẻ có cơ hội hoạt động, khi dạy trẻ phải biết chú ý từ bước đi đầu tiên (nền móng) chắc chắn không được giáo dục đồng loạt, khoán trên tiết học làm ảnh hưởng đến nhận thức của trẻ. 3.Kiến nghị, đề xuất. Để dạy tốt bộ môn toán tôi có một vài đề xuất sau : 16 - Đề nghị các nghành các cấp quan tâm hơn nữa về đầu tư cơ sở vật chất và các trang thiết bị phục vụ cho dạy và học được phong phú và đa dạng hơn. - Các ban ngành tạo sự quan tâm về cơ sở vật chất để có đủ điều kiện cho cô và trẻ thực hiện tốt bộ môn toán, cho ra mắt nhiều tập san về Mầm non. - Hàng năm các cấp các ngành tạo điều kiện kinh phí ưu tiên cho những trường khó khăn, cho giáo viên được tham quan học tập ở trường bạn để mở rộng sự hiểu biết và nâng cao năng lực chuyên môn. Trên đây là toàn bộ đề tài : “Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi học tốt môn toán”,mà tôi đó lựa chọn để nghiên cứu . Vậy tôi rất mong được sự giúp đỡ, sự đóng góp ý kiến của ban giám hiệu và các đồng nghiệp để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi được ngày càng hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Quảng Phú, ngày 15 tháng 03 năm 2015 Tôi xin cam đoan trên đây là SKKN của mỡnh. Khụng sao chộp nội dung của người khác. Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Người viết 17 Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mg 5 6 tuổi làm quen với toán
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1.Tên sáng kiến: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng”. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực nhận thức 3. Tác giả: - Họ và tên: Vũ Thị Biên - Ngày, tháng, năm sinh: 11/4/1964 - Trình độ chuyên môn: Đại học mầm non - Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường mầm non Cộng Hòa 1. - Điện thoại: 0974 820 510 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Vũ Thị Biên 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu : Lớp 5 tuổi trường mầm non Cộng Hòa 1. 6. Các điều kiện cần áp dụng sáng kiến: phòng học rộng rãi, thoáng mát, cơ sở vật chất đầy đủ, đủ đồ dùng cá nhân, học sinh, giáo viên. 7. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 9/2014 đến tháng 2/2015 HỌ TÊN TÁC GIẢ (KÝ TÊN) XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN -1- TÓM TẮT SÁNG KIẾN 1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến: Trong các môn học giáo dục mầm non tôi thấy việc hình thành các biểu tượng toán học sơ đẳng mầm non nói chung và trẻ 5 – 6 tuổi nói riêng là rất quan trọng, trong việc hình thành tính tích cực, độc lập, sáng tạo giúp trẻ có kiến thức, kỹ năng, biểu diễn những con số, phép toán đơn giản và đặc biệt hơn học tốt môn toán trẻ sẽ tự tin khi bước vào lớp 1. 2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến: Để áp dụng sáng kiến cần có những điều kiện sau: - Có đủ cơ sở vật chất, phòng học sạch sẽ thoáng mát về mùa hè. ấm về mùa đông, đồ dùng đồ chơi đủ cho trẻ trong lớp. - Giáo viên trực tiếp giảng dạy tại trường mầm non có trình độ chuyên môn đạt chuẩn trở lên và có kinh nghiệm giảng dạy. - Trẻ khỏe mạnh, phát triển bình thường, có nề nếp học tập và vui chơi. - Phụ huynh quan tâm đến việc học tập của trẻ. Thời gian và đối tượng để nghiên cứu và áp dụng sáng kiến từ thời điểm tháng 9/2014 đến tháng 2/2015 tại lớp mẫu giáo 5 tuổi mà tôi chủ nhiệm. 3.Nội dung sáng kiến: Trong sáng kiến của tôi, tôi đã chỉ ra được hạn chế: cơ sở vật chất, nhận thức của trẻ, sự phối hợp của phụ huynh trên cơ sở đó tôi đã xây dựng và đề xuất 6 biện pháp sau: - Biện pháp 1: Xác định nội dung cần truyền đạt cho trẻ. - Biện pháp 2: Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi - Biện pháp 3: Tạo môi trường cho trẻ làm quen với toán - Biên pháp 4: Tổ chức hoạt động trong hoạt động học - Biện pháp 5: Lồng ghép tích hợp làm quen với toán về số lượng vào các môn học, hoạt động hằng ngày. - Biện pháp 6: Công tác tuyên truyền phối hợp với phụ huynh cho trẻ làm quen với toán về số lượng. */ Tính mới sáng tạo của sáng kiến: Các biện pháp của tôi đưa ra đều đảm bảo tính mới, tính sáng tạo giúp cho giáo viên có những biện pháp phù hợp như chuẩn bị đồ dùng, tạo môi trường làm quen với toán, tổ chức hoạt động trong hoạt động theo hình thức trò chơi, hội thi hay đề tài ngày hội ngày lễ,…. Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi. -2- */ Khả năng áp dụng sáng kiến: Cách thức áp dụng: Với biện pháp 1 của tôi giúp cho mỗi giáo viên xác định đúng nội dung cần truyền đạt cho trẻ, khi giáo viên nắm vững được nội dung sẽ chuẩn bị những đồ dùng, đồ chơi để tổ chức hoạt động “biện pháp 2”. Tôi luôn tạo môi trường cho trẻ bằng những hình ảnh sinh động, những con số được cắt dán trên những mảng tường dành riêng cho biểu tượng về toán ( biện pháp 3). Giờ hoạt động rất cần thay đổi những hình thức tổ chức như thiết kế những tiết dạy thành những trò chơi, hay hội thi để thu hút trẻ (Biện pháp 4). Ngoài ra tôi còn tổ chức trẻ ôn luyện “LQVT” ở mọi lúc mọi nơi, nồng ghép trong những môn học khác (biện pháp 5). Luôn tuyên truyền kết hợp với phụ huynh cho trẻ “LQVT” tại gia đình (biện pháp 6). */ Lợi ích của sáng kiến: Áp dụng sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng” sẽ mang lại những lợi ích sau: - Giúp tôi và giáo viên khác hiểu rõ hơn về nội dung, tầm quan trọng của môn “LQVT” về số lượng từ đó có sự đầu tư xây dựng các hoạt động cho trẻ làm quen tốt hơn. - Giúp trẻ hoạt động linh hoạt khi trẻ “LQVT” về số lượng và các hoạt động khác trong trường mầm non. - Giúp trẻ ghi nhớ được những con số, thực hiện được phép toán đơn giản như thêm bớt trong phạm vi 10 và chia 10 đối tượng thành hai phần bằng những cách khác nhau. - Giúp cho phụ huynh hiểu về tầm quan trọng về môn học sẽ cùng giáo viên giảng dạy cho con em mình tại gia đình. 4. Khẳng định giá trị, kết quả của sáng kiến: Áp dụng sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng” thường xuyên sẽ giúp trẻ tiếp thu bài tốt hơn, trẻ ghi nhớ lâu hơn. Đặc biệt các phụ huynh hài lòng với kết quả của con em mình. Từ đó là động lực thu hút trẻ đến trường nhiều hơn. 5. Đề xuất kiến nghị. Đối với cấp trường, phòng giáo dục tạo mọi điều kiện hỗ trợ cơ sở vật chất, mua sắm đồ dùng, đồ chơi, bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên, tổ chức các hội thi giáo viên giỏi, chuyên đề, đồ dùng đồ chơi. -3- MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến Mỗi chúng ta ai cũng nhớ lời bác Hồ dạy “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lời ích trăm năm trồng người” lời dạy của Bác đã in sâu vào tâm trí con người Việt Nam nhất là những người đứng trong sự nghiệp trồng người. Là một giáo viên mầm non tôi thấy mình nên làm gì để góp phần giáo dục nước nhà. Bởi vì giáo dục mầm non có một vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu của giáo dục mầm non là góp phần vào việc nâng cao dân trí đạo tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Chính vì vậy việc truyền thụ kiến thức và chăm sóc trẻ ở trường mầm non bước đầu hình thành cho trẻ những nhân cách đầu tiên tiên của con người. Thông qua học tập vui chơi sẽ giúp trẻ có khả năng độc lập vui chơi, sáng tạo, giúp trẻ phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ,…. Là tiền đề cho trẻ học tốt ở bậc học phổ thông sau này. Theo chỉ đạo của ngành học mầm non việc đưa các hoạt động đến cho trẻ hầu hết được bắt đầu bằng từ “làm quen” một trong những bộ môn mà tôi thấy có tầm quan trọng đối với trẻ mầm non đó là môn “Làm quen với toán” nói chung và về số lượng nói riêng. Quá trình cho trẻ làm quen với toán sẽ hình thành cho trẻ những biểu tượng toán đơn giản về số lượng giúp cho trẻ vững vàng khi tiếp xúc với mọi người xung quanh, đồng thời phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo, phát triển ngôn ngữ là nền tảng cho trẻ bước vào trường tiểu học sau này. Trong quá trình dạy trẻ “LQVT” về số lượng tôi thường chú trọng trang bị kiến thức cho trẻ mà không chú trọng tới việc gây sự ham muốn hứng thú cho trẻ hoạt động, thường dừng lại ở việc cho trẻ thụ động máy móc trước thao tác mẫu của cô, thậm chí còn truyền đạt kiến thức chưa chính xác, đồ dùng, đồ chơi để trẻ hoạt động còn ít, chưa đầy đủ theo chủ đề, chưa lồng ghép toán vào các hoạt động khác, công tác tuyên truyền phụ huynh còn hạn chế. Vì vậy trong quá trình giảng dạy trẻ sinh ra những mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu -4- quả của việc hình thành biểu tượng toán sơ đẳng cho trẻ và khả năng truyền thụ của giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động này. Khi tôi cho trẻ “lQVT” về số lượng tôi thấy đa số trẻ không hứng thú khi học, trẻ mau nhớ lại mau quên kết quả sau mỗi tiết học trẻ nắm được bài còn thấp và vẫn còn trẻ chưa đạt yêu cầu. Đặc biệt hơn còn rất nhiều phụ huynh chưa quan tâm tới con em mình còn xem nhẹ bậc học mầm non nhất là môn toán đây là những điều tôi trăn trở, suy nghĩ mình phải làm gì và làm như thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng” tôi hy vọng đề tài này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng trẻ 5 – 6 tuổi làm quen với toán trong trường mầm non. Bởi vì kết quả trên trẻ là niềm tin giữa phụ huynh với cô giáo, nhà trường. 1. 1. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu 1. 1. 1. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu và áp dụng với mẫu giáo nói chung và trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng trong trường mầm non A. 1. 1. 2. Đối tượng nghiên cứu: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng”. 1. 2. Mục đích nghiên cứu 1. 2.1. Đối với trẻ: Giúp trẻ yêu thích môn “Làm quen với toán” về số lượng. Trẻ tiếp thu bài tốt có thể: đếm đến 10 và đếm theo khả năng, thêm bớt trong phạm vi 10, biết chia 10 đối tựơng thành hai phần bằng nhiều cách, biết so sánh số lượng của hai nhóm đồ vật, biết xếp tương ứng 1:1, biết tạo nhóm các đối tượng theo đặc điểm hay dấu hiệu, ghi nhớ được các con số từ 1 đến 10. Và đặc biệt hơn trẻ học tốt môn toán sẽ giúp trẻ có tính độc lập tự tin trước mọi người. 1. 2. 2. Đối với bản thân: Sau khi áp dụng đề tài tôi nắm vững phương pháp giảng dạy, biết nồng ghép tích hợp môn “LQVT” về số lượng vào các hoạt động khác một cách linh -5- hoạt, sáng tạo. Ngoài ra tôi làm đồ dùng phục vụ cho môn “LQVT” về số lượng, từ đó tôi sẽ tự tin hơn khi cho trẻ “LQVT” được quả mình mong đợi. 1. 2. 3. Đối với phụ huynh: Giúp cho các bậc phụ huynh hiểu tầm quan trọng của môn toán. Từ đó cùng cô giáo có phương pháp dạy trẻ và ủng hộ kinh phí nguyên vật liệu để làm đồ dùng đồ chơi khi “LQVT” về số lượng. Đặc biệt sẽ cùng cô giáo cho trẻ “LQVT” về số lượng tại gia đình góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. 1.3. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 1.3.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Tôi thường nghiên cứu trong sách vở, tài liệu tập huấn hè, ti vi, băng hình, mạng internet, tham khảo một số kinh nghiệm trong tập san. 1.3. 2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, khảo sát và áp dụng những biện pháp vào thực tế tại nhóm lớp sau đó đánh giá kết quả. 1.3. 3. Phương pháp thực hành trải nghiệm: Tôi cho trẻ thực hành trải nghiệm những kỹ năng và kiến thức mà trẻ đã thu nhận được. 1. 3. 4.Phương pháp giáo dục bằng tình cảm và khích lệ. Tôi thường xuyên dùng lời nói nhẹ nhàng, tình cảm để thu hút trẻ vào hoạt động “LQVT” về số lượng và luôn luôn động viên, khích lệ trẻ. 1.3. 5.Phương pháp trực quan, minh họa Khi giảng dạy tôi dùng những vật cụ thể như tranh ảnh, rối, mô hình, ngôn ngữ, cử chỉ,… giúp trẻ hiểu rõ những điều mình truyền thụ. 1.3.6. Phương pháp so sánh đối chứng, tổng kết sáng kiến Tôi so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng các biện pháp từ đó rút ra các biện pháp cho bản thân để làm tốt hơn. -6- 2. Cơ sở lý luận Trẻ nhỏ sinh ra và lớn lên giữa thế giới của những sự vật và hiện tượng đa dạng. Ngay từ nhỏ trẻ đã được tiếp xúc và làm quen với những nhóm vật có màu săc, kích thước và số lượng phong phú, với các âm thanh, chuyển động có ở xung quanh trẻ. Trẻ lĩnh hội số lượng của chúng bằng các giác quan khác nhau như thị giác, thính giác, xúc giác,…. Trẻ lứa tuổi nhà trẻ đã bắt đầu có những nhận biết về số lượng, đó là nấc thang đầu tiên và cần thiết giúp trẻ nhận biết thực trạng xung quanh. Những biểu tượng đầu tiên về các nhóm vật giống nhau như: nhiều con ốc, những cái lá, nhiều con búp bê,…. Được tích lỹ và phản ánh trong ngôn ngữ thụ động của trẻ nhỏ. Đối với trẻ 5 – 6 tuổi giáo viên cần hướng tới việc củng cố và làm sâu sắc hơn những kiến thức, kỹ năng mà trẻ đã được học từ các lớp bé, hơn nữa nội dung dạy trẻ phải có tác dụng thúc đẩy sự phát triến trí tuệ và tư duy toán học cho trẻ. Ngay từ lớp mẫu giáo bé, nhỡ trẻ đã được làm quen với các tập hợp và học cách phân tích các tập con trong tập lớn theo các dấu hiệu như màu sắc từ 1 đến 5. Nhiệm vụ trẻ 5 – 6 tuổi tiếp tục học phép đếm xác định số lượng trong phạm vi 10 và đếm theo khả năng của trẻ. Trẻ được làm quen với cách lập các số tiếp theo ở dãy số tự nhiên 6, 7, 8, 9, 10. Trên cơ sở so sánh các tập hợp cớ thể có độ lớn bằng nhau hoặc hơn kém nhau một đơn vị. Trẻ học cách chia 10 đối tượng thành 2 phần bằng nhiều cách khác nhau và trẻ phải nhớ được cấu tạo của 10 số đầu và đọc được 10 chữ số thành thạo. Chính vì vậy là giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp tôi luôn luôn tìm tòi những giải pháp tốt nhất để thu hút trẻ “làm quen” với toán nói chung và về số lượng, con số và phép đếm nói riêng cho trẻ 5 – 6 tuổi nhằm mục đích giúp trẻ phát triển toàn diện: đức, trí, lao, thể, mỹ. Giúp trẻ vững vàng tự tin để bươc vào lớp 1. 3. Điều tra thực trạng Mục đích của việc điều tra thực trạng trẻ “LQVT” về số lượng là để tôi nắm được nhận thức của trẻ. Trên cơ sỏ đó tìm biện pháp giảng dạy tốt nhất để -7- nâng cao chất lượng “LQVT” nói chung và cho trẻ “LQVT” về số lượng nói riêng. (Phụ lục 1) 3.1. Phương pháp điều tra 3.1.1. Đối với trẻ Ngay từ đầu năm học tôi cho trẻ “LQVT” về số lượng tôi thấy trẻ khi thực hiện phép đếm còn rất hạn chế, vẫn con trẻ đếm còn chưa đúng theo thứ tự từ 1 đến 10. Khi so sánh, thêm bớt, chia nhóm còn chậm, chưa chính xác. Đặc biệt hơn đa số trẻ còn chưa hứng thú với “LQVT” về số lượng. 3.1.2. Điều kiện phục vụ Đồ dùng để trẻ hoạt động có đủ nhưng còn ít loại đồ dùng, thẩm mỹ chưa cao nên chưa thu hút trẻ. 3.1.3. Sự phối kết hợp của phụ huynh Phần đông phụ huynh là ở nông thôn kinh tế còn khó khăn nên sự quan tâm để ngành học mầm non của phụ huynh còn hạn chế chưa chú ý đến việc học của trẻ còn coi nhẹ chương trình giáo dục mầm non nhất là chưa quan tâm đến việc trẻ “LQVT” về số lượng. 3.1.4. Đối với bản thân Là một giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy, nắm vững những kiến thức phải truyền thụ cho trẻ song hình thức tổ chức còn chưa chú trọng nên các tiết cho trẻ “LQVT” về số lượng còn gò bó chưa sinh động nên kết quả thu hút trẻ vào hoạt động chưa cao. Với nhưng yếu tố trên đã dẫn đến kết quả trên trẻ như sau: Thời Số trẻ điểm T9/2014 Đánh giá 35 Tốt Khá ĐYC KĐYC Đếm Số % Thêm, bớt Số % trẻ 8 13 10 4 trẻ 5 10 15 5 23 37 29 11 14 29 43 14 Tách, gộp Số trẻ % 5 8 17 5 14 23 49 14 Từ kết quả điều tra trên đã làm tôi suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi “LQVT” về số lượng đạt yêu cầu trở lên. Bởi kết quả -8- trên trẻ là nhân tố quyết định đến niềm tin giữa phụ huynh với cô giáo, nhà trường mặt khác đặc biệt hơn là giúp trẻ vững vàng bước vào trường tiểu học sau này. 4.Các biện pháp thực hiện 4.1. Biện pháp 1: Xác định nội dung truyền đạt cho trẻ Xác định nội dung cần truyền đạt cho trẻ “LQVT” về số lượng là rất quan trọng giúp cho mỗi giáo viên có được kiến thức để cung cấp phù hợp vừa sức đối với trẻ. Mặt khác nó còn đảm bảo được tính hệ thống đối với trẻ 5 – 6 tuổi “LQVT” về số lượng, con số và phép đếm cần ghi nhớ những nội dung sau: + Cho trẻ luyện tập so sánh số lượng của hai nhóm đối tượng trong phạm vi 10 bằng cách xếp tương ứng 1 – 1. + Dạy trẻ sắp xếp 3 nhóm đối tượng theo sự tăng hay giảm dần về số lượng của các nhóm và sử dụng các từ: nhiều nhất, ít hơn,ít nhất. + Dạy trẻ tạo nhóm các đối tượng theo đặc điểm hay dấu hiệu nào đó như màu sắc, hình dạng, kích thước,…. + Tiếp tục dạy trẻ phép đếm xác định số lượng trong phạm vi 10 và đếm theo khả năng của trẻ, dạy trẻ gộp 2 nhóm đối tượng lại và đếm đúng. + Dạy trẻ nhận biết các con số chỉ số lượng và con số thứ tự trong phạm vi 10, nắm được mối quan hệ giữa các số liền kề thuộc dãy số tự nhiên. + Cho trẻ làm quen với các phép biến đổi số lượng và mối quan hệ về số lượng đơn giản như: thêm, bớt, chia các nhóm có số lượng, đối tượng trong phạm vi 10 thành 2 phần theo các cách khác nhau. Trên đây là nội dung mà ngành giáo dục và đào tạo quy định nên tôi luôn chú ý đến nội dung này để truyền thụ cho trẻ, kết quả tôi thấy trẻ lớp tôi tiếp thu bài rất thoải mái không bị quá sức. 4.2. Biện pháp2: Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi -9- Đồ dùng, đồ chơi trong trường mầm non là rất quan trọng đối với trẻ. Đặc biệt là môn “LQVT” về số lượng phải có đồ dùng bởi vì trẻ khi được ngắm nhìn, quan sát, sờ mó bằng các giác quan khác nhau sẽ hình thành cho trẻ những biểu tượng toán như nhiều, ít, đếm, so sánh. Khi có đồ dùng, đồ chơi có thẩm mỹ cao sẽ thu hút trẻ vào hoạt động bởi vậy là giáo viên dạy trẻ 5 – 6 tuổi tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi để có nhiều hình thức giúp trẻ hứng thú khi “LQVT” về số lượng. Qua những cơ hội trò chuyện với trẻ tôi nắm bắt được sở thích của trẻ tôi đã chuẩn bị được những đồ dùng sau: + Mỗi trẻ 1 bộ thẻ số từ 1 đến 10, que tính, vở “LQVT”, bộ “LQVT”. + Mỗi trẻ: 10 cái bát, 10 cái thìa, 10 bông hoa, 10 con bướm, 10 cái cốc, 10 ống mút, 10 lá cờ, 10 ô tô (Những đồ dùng trên tôi vẽ và cắt bằng bìa màu, vỏ sữa, xốp màucòn nhũng chiếc cốc tôi làm bằng vỏ chai lavi, ….). Mỗi một đề tài tôi sử dụng một đồ dùng khác nhau để gây sự chú ý cho trẻ. Ngoài ra tôi chuẩn bị những ngôi nhà, cây xanh to, hình ảnh bến xe, ga tàu, …. Để tổ chức trò chơi luyện tập cho trẻ. Với việc chuẩn bị đồ dùng dạy cho trẻ “LQVT” về số lượng như trên tôi đã tự tin khi cho trẻ thực hiện trong giờ “LQVT”. Đặc biệt hơn khi có đồ dùng trẻ hứng thú tham gia hoạt động rất tốt. 4.3. Biện pháp 3: Tạo môi trường cho trẻ làm quen với toán về số lượng Với môn toán điều cần ở trẻ là sự tiếp thu nhanh và có sự tư duy sáng tạo nhưng thường thì trẻ khi chơi rất hiếu động nên do mải chơi trẻ sẽ mau quên và khi chơi thì rất hay chán. Việc tạo ra được môi trường hấp dẫn cho trẻ là điều rất cần thiết vì nó có thể giúp trẻ hào hứng với các hình ảnh, đồ dùng, đồ chơi, … Do vậy cho dù lớp tôi còn trật hẹp nhưng tôi đã giành riêng một khoảng tường để trang trí cắt dán, in hình ảnh con số, hình học, cây xanh, con vật có số lượng khác nhau để hàng ngày trẻ dễ dàng quan sát, đếm, đọc con số. Giúp trẻ ghi nhớ các biểu tượng về toán và thường xuyên tôi cho trẻ cắt dán những hình ảnh có số lượng trẻ mới học gắn lên để trẻ khắc sâu về số lượng và con số. Kết hợp với góc dành riêng cho “LQVT” về số lượng thì tôi xếp đặt đồ dùng, đồ chơi ở các góc khác luôn luôn gọn gàng và tôi có ý xếp đặt những đồ dùng, đồ - 10 - chơi có số lượng mà trẻ đang được học mỗi nhóm đồ chơi tôi thường đặt chữ số tương ứng vào nhóm đồ dùng đồ chơi đó và thường xuyên thay đổi đồ dùng, đồ chơi theo chủ đề để nhằm thu hút trẻ vào hoạt động chơi với đồ dùng đồ chơi giúp trẻ ngắm nhìn, quan sát, đếm số đồ dùng, đồ chơi, so sánh, ….. các đồ dùng, đồ chơi đó. Với môi trường như trên tôi đã thu được kết quả rất tốt. Trẻ rất thích chơi với đồ chơi và đặc biệt trẻ nhận được chữ số, nhóm đồ vật, biết so sánh thêm bớt, chia nhóm đồ vật trong khi chơi. 4.4. Biện pháp 4. Tổ chức hoạt động trong hoạt động học Với hoạt động học “LQVT” về số lượng đối với trẻ 5 – 6 tuổi theo quy định của giáo dục mầm non một tiết hoạt động được thực hiện theo 3 phần: + Phần 1: Ôn kiến thức cũ + Phần 2: Làm quen kiến thức mới + Phần 3: Luyện tập Để hấp dẫn và lôi cuốn trẻ trong giờ “LQVT” về số lượng tôi đã dùng các hình thức như: trò chơi, hội thi, dựa vào ngày lễ tết, câu truyện, sự kiện,…. gắn liền với chủ đề để tạo cho trẻ có cảm giác mình đang được trực tiếp tham gia vào một trò chơi hay hội thi,… nào đó, gây cho trẻ sự thích thú, ham muốn được hoạt động từ những kiến thức khô khan tôi khéo léo nồng vào giờ học sự say mê thích thú với trẻ. Qua đó sẽ giúp trẻ tiếp thu các kiến thức về biểu tượng toán một cách dễ dàng hơn. Dưới đây là giáo án tôi thường xuyên áp dụng dạy trẻ trên lớp: Ví dụ 1: Đề tài “Đếm đến 7 nhận biết nhóm có 7 đối tượng, nhận biết số 7”. (Phụ lục 1) Ví dụ 2: Đề tài: Nhận biết mối quan hệ hơn kém về số lượng trong phạm vi 8 (Phụ lục 2) Ví dụ 3: Đề tài: Tách, gộp nhóm có 7 đối tượng thành 2 phần (Phụ lục 3) Với hình thức tổ chức như trên tôi thấy trẻ rất hứng thú tham gia hoạt động. Kết quả trên trẻ rất tốt, trẻ không những nắm được bài mà còn hiểu thêm - 11 - được công dụng của đồ dùng trong gia đình và phong tục của ngày tết cổ truyền của dân tộc có bánh chưng, bánh dày và sản phẩm của các nghề. 4.5. Biện pháp 5: Cho trẻ “LQVT” về số lượng ngoài tiết học, nồng ghép tích hợp vào các môn học Ngoài việc dạy trẻ “LQVT” về số lượng trên tiết học tôi còn ôn luyện cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Đặc biệt tôi luôn chú ý nồng ghép tích hợp vào các môn học khác, kể cả trong vui chơi và lao động của trẻ nhưng tôi luôn chú ý khi nồng ghép “LQVT” về số lượng vào các hoạt động một cách nhẹ nhàng không gây áp lực cho trẻ. Hoạt động tạo hình: Phần nhận xét sản phẩm của trẻ tôi thường xuyên cho trẻ đếm những sản phẩm đẹp. Từ đó trẻ củng cố được phép đếm. Hoạt động giáo dục âm nhạc: Tôi thường nồng ghép bằng cách: cho trẻ đếm số bạn hát và so sánh số bạn nam, bạn nữ đang hát số bạn nào nhiều hơn, ít hơn? Muốn số bạn nam bằng với số bạn nữ thêm mấy bạn nam nữa ? Với tình huống trên đã giúp trẻ so sánh số lượng và thêm bớt rất tốt. Hoạt động làm quen chữ cái: Khi cho trẻ làm quen với các từ tôi thường cho trẻ đếm số chữ cái ghép lại thành từ và so sánh hai tiếng trong từ đó. Tiếng nào có số chữ cái nhiều hơn, hay ít hơn là mấy ? Qua đó trẻ được ôn luyện phép đếm và so sánh. Hoạt động khám phá khoa học và khám phá xã hội: Tôi thường cho trẻ chơi trò chơi “Ô cửa bí mật”, những ô cửa tôi thường biểu thị bằng những con số. Cho trẻ đọc số và mở ô cửa đó. Khi kết thúc những tiết học tôi thường tổ chức những trò chơi “Bật qua vòng” cho trẻ đếm số vòng, đếm số trẻ chơi, đếm phần quà,….. Giờ đón trẻ trả trẻ: Tôi thường ôn luyện cho những trẻ còn tiếp thu chậm “LQVT” về số lượng. Bằng cách cho trẻ chơi đồ chơi và hướng cho trẻ đếm những đồ chơi giống nhau và chọn những chữ số đặt vào nhóm đồ chơi đó và cũng có thể thêm, bớt, chia các nhóm đồ chơi đó theo gợi mở của tôi. Để giúp trẻ ôn luyện những kiến thức trẻ còn tiếp thu chậm. - 12 - Hoạt động ngoài trời: Quan sát cây bàng có rất nhiều quả để dạy trẻ đếm được theo khả năng trẻ. Tôi cho trẻ đếm số quả bàng trên cây mà trẻ nhìn thấy. Giúp trẻ củng cố phép đếm theo đúng thứ tự. Để củng cố về so sánh nhiều hơn ít hơn và ít hơn là mấy ? Cho trẻ đi dạo trong sân trường quan sát cây xanh tôi hướng trẻ vào “LQVT” về số lượng như “Các con quan sát xem sân trường có mấy cây phượng? cây bàng có mấy cây? Cây nào có số lượng nhiều hơn? Nhiều hơn mấy cây ?”. Với những câu hỏi như trên giúp trẻ ôn luyện được cách so sánh về số lượng. Ngoài ra tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi liên quan đến chia nhóm. Ví dụ: Cho trẻ chơi những trò chơi cần phân chia theo đội, theo nhóm. Tôi thường cho trẻ tự chia và đếm số bạn trong từng đội hay từng nhóm (Tôi quan sát và giúp đỡ trẻ khi trẻ chưa biết chia). Kết quả: sau 2 – 3 lần tổ chức trò chơi trẻ lớp tôi đã chia nhóm rất tốt. Hoạt động chiều: Tôi thường dành riêng ít nhất một hoạt động chiều trong một tuần để rèn kỹ năng đã học hoặc cho trẻ làm quen với kiến thức mới để giúp trẻ khi tham gia hoạt động học không bị bỡ ngỡ tạo cho trẻ tiếp thu bài tốt ngay trong tiết học. Với cách hình thức ôn luyện nồng ghép các hoạt động cho trẻ “LQVT” về số lượng như trên tôi thấy trẻ rất tự tin vào các hoạt động trong ngày. Đặc biệt trẻ khắc sâu, ghi nhớ những nội dung “LQVT” về số lượng. 4.6. Biện pháp 6: Tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh dạy trẻ “LQVT” về số lượng tại gia đình Việc tuyên truyền và phối hợp cho trẻ “LQVT” về số lượng tới các bậc phụ huynh học sinh là rất quan trọng. Bởi vì thời gian trẻ gần gũi với các phụ huynh không phải là ít, tôi nghĩ trẻ chỉ học ở trường thôi chưa đủ, chỉ một cô giáo dạy học thôi lại càng không đủ. Mà cần có sự phối kết hợp chặt chẽ việc giáo dục trẻ giữa gia đình và nhà trường. Hiểu được vấn đề trên tôi đã làm như sau: Qua những giờ đón, trả trẻ tôi thường xuyên trao đổi về tình hình học tập của trẻ về “LQVT” về số lượng. Và tuyên truyền phụ huynh hiểu rõ hơn về tầm - 13 - quan trọng của môn toán đối với trẻ 5 tuổi và qua đó giúp phụ huynh hiểu rõ hơn về trẻ đến trường học những gì ? học bằng gì ? Học như thế nào ? Tôi trao đổi với phụ huynh kết quả học tập của trẻ khi “LQVT” về số lượng. Từ đó tôi hướng cho phụ huynh kết hợp cùng tôi cho trẻ “LQVT” tại gia đình. Ví dụ: Trẻ chưa nhận được chữ số. Tôi trao đổi với phụ huynh giúp trẻ mua sắm tranh ảnh có chữ số, số lượng treo góc học tập của trẻ và thời gian gần gũi trẻ cho trẻ đếm và nhận chữ số tương ứng, cho trẻ nhắc lại cấu tạo của chữ số tại gia đình. Ví dụ: Trẻ chưa biết thêm bớt trong phạm vi 10 tôi trao đổi trực tiếp với phụ huynh trẻ đó về cách dạy trẻ tại gia đình. Bằng cách khi chơi với trẻ “Cho trẻ chơi đồ chơi phụ huynh sẽ cho trẻ thêm bớt hướng dẫn cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi”. Và thường xuyên chơi với trẻ về con số, nhóm đồ vật, thêm bớt, chia nhóm đồ vật để trẻ ghi nhớ tốt hơn. Với cách tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh cho trẻ “LQVT” về số lượng như trên tôi thấy trẻ có kết quả rất tốt. 5. Kết quả đạt được Trên đây là một số biện pháp tôi đã thực hiện tại lớp của tôi đã thu được kết quả sau: 5.1.Cơ sở vật chất - Đồ dùng, đồ chơi đầy đủ, có thẩm mỹ cao. - Tôi đã làm đồ dùng đồ chơi, trang trí góc phù hợp. 5.2. Đối với bản thân Nắm vững được nội dung cần truyền đạt cho trẻ, các tiết cho trẻ “LQVT” về số lượng nhẹ nhàng, linh hoạt, sáng tạo hơn. 5. 3 Đối với trẻ. Trẻ hứng thú, say mê, vui vẻ khi “LQVT” về số lượng như tất cả các môn học khác, tôi thấy trẻ linh hoạt hơn, tự tin hơn ở mọi lúc, mọi nơi và đặc biệt hơn trẻ nắm được kiến thức, kỹ năng mà mục đích đưa ra cho trẻ. - 14 - *Kết quả đạt được như sau: Thời Số trẻ điểm T2/2015 Đánh giá 35 Tốt Khá ĐYC KĐYC Đếm Số % Thêm, bớt Số % trẻ 20 10 5 trẻ 13 15 7 57 29 14 37 43 20 Tách, gộp Số trẻ % 16 14 5 46 40 14 5. 4. Đối với phụ huynh: Bằng những hình thức tuyên truyền với các bậc phụ huynh hàng ngày, tôi thấy phụ huynh lớp tôi đã hiểu được tầm quan trọng của các môn học nói chung và môn “LQVT” về số lượng nói riêng. Đã thường xuyên ôn luyện cho trẻ “LQVT” về số lượng tại gia đình và đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ. * So sánh đối chứng Thời Số trẻ điểm Đánh giá T9/2014 35 T2/2015 35 Tốt Khá ĐYC KĐYC Tốt Khá ĐYC KĐYC Đếm Số % Thêm, bớt Số % trẻ 8 13 10 4 20 10 5 trẻ 5 10 15 5 13 15 7 23 37 29 11 57 29 14 14 29 43 14 37 43 20 Tách, gộp Số trẻ % 5 8 17 5 16 14 5 14 23 49 14 46 40 14 Từ bảng so sánh đối chứng tôi nhận thấy kết quả đánh giá trên trẻ về 3 nội dung trên tôi thấy chất lượng “LQVT” về số lượng tăng lên rõ rệt so với kết quả đầu năm học. Khả năng đếm tỷ lệ tốt tăng: 34%, khá giảm: 8%, tỷ lệ trẻ đạt yêu cầu giảm 15 % và đặc biệt không có trẻ chưa đạt. Khả năng thêm, bớt tỷ lệ tốt tăng: 23%, khá tăng:14% , tỷ lệ trẻ đạt yêu cầu giảm 23 % và đặc biệt không có trẻ không đạt. - 15 - Khả năng tách, gộp số lượng tỷ lệ tốt tăng: 32%, khá tăng: 17% , tỷ lệ trẻ đạt yêu cầu giảm 35 % và không có trẻ chưa đạt yêu cầu. Điều đó khẳng định những biện pháp của tôi áp dụng hoàn toàn hợp lí và đạt kết quả cao. Có được kết quả trên là sự cố gắng, lỗ lực không chỉ của bản thân tôi và các bé đặc biệt hơn nữa là sự góp sức của các bậc phụ huynh. * Sau khi nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau: - Giáo viên phải có trình độ sư phạm, nắm chắc kiến thức sơ đẳng về toán học, phải tuân thủ đúng phương pháp giảng dạy từng loại tiết, có thủ thuật hướng dẫn gợi mở một cách sáng tạo luôn học hỏi kinh nghiệm của bạn bè, đồng nghiệp và thường xuyên nghiên cứu tài liệu, tập san, thông tin đại chúng để nắm bắt nhanh những sáng kiến hay vào giảng dạy và đặc biệt luôn lắng nghe ý kiến đóng góp của mọi người. - Giáo viên phải nắm bắt nhanh tình hình của lớp, hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý của từng trẻ, từ đó có hình thức và biện pháp dạy phù hợp. Thường xuyên trao đổi, kết hợp với phụ huynh cùng đưa ra biện pháp dạy trẻ có khoa học. - Tạo điều kiện cho trẻ “LQVT” về số lượng ở mọi lúc, mọi nơi và thường xuyên nồng ghép các môn học, các hoạt động. - Giáo viên kết hợp với phụ huynh mua sắm làm đồ dùng, đồ chơi. 6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng Để sáng kiến của tôi được nhân rộng cho tất cả các giáo viên trong trường cũng như trường bạn với mong muốn nâng cao chất lượng “LQVT” về số lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi cần các điều kiện sau: - Cơ sở vật chất phải có phòng học rộng rãi, thoáng mát, đồ dùng, đồ chơi đủ, có nhiều chủng loại, màu sắc đẹp. - 16 - - Giáo viên phải đào tạo đúng chuyên ngành mầm non, phải đạt chuẩn trở lên, hiểu được tâm sinh lý trẻ. Thường xuyên trau dồi kiến thức, linh hoạt, sáng tạo trong tiết dạy. - Trẻ có sức khỏe tốt, phát triển bình thường, có nề nếp học tập, vui chơi. Trẻ thích đến lớp vui chơi, học tập cùng cô giáo và các bạn. Luôn hứng thú vào các hoạt động. - Đối với phụ huynh quan tâm đến việc học của trẻ, thường xuyên trao tình tình hình học tập của trẻ và kết hợp với cô giáo dạy con ở nhà. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Trên đây là một số biện pháp của tôi trong quá trình thực hiện đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng”. - 17 - - Những biện pháp tôi đưa ra đã giúp cho tôi và giáo viên hiểu sâu về nội dung cho trẻ “LQVT” về số lượng. Từ đó có thêm những biện pháp như chuẩn bị đồ dùng, tổ chức hoạt động, dạy trẻ mọi lúc mọi nơi, kết hợp với phụ huynh. - Các biện pháp tôi đưa ra đã giúp trẻ nắm được bài rất tốt. Trẻ có kỹ năng đếm, so sánh, thêm bớt, gộp tách, chia nhóm rất tốt. Từ kết quả trên tôi thấy những biện pháp của tôi cần nhân rộng cho tất cả các đồng nghiệp trong trường và trường bạn với mong muốn nâng cao chất lượng “LQVT” về số lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi. 2. Khuyến nghị Sau khi thực hiện đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với toán về số lượng” tôi xin được mạnh dạn đề xuất một số khuyến nghị sau: + Đối với cấp trường: Tham mưu tốt với các cấp lãnh đạo tu sửa trường lớp rộng rãi để cho trẻ hoạt động, thường xuyên xây dựng những tiết học có chất lượng để cho giáo viên học tập. + Đối với cấp phòng, sở giáo dục: Tạo nhiều cơ hội cho giáo viên được trau dồi năng lực sư phạm qua các lớp bồi dưỡng chuyên môn về “LQVT” nói chung và “LQVT” về số lượng nói riêng. Cung cấp các tài liệu, tập san có nội dung về “LQVT” về số lượng để giáo viên học tập và nghiên cứu. Trên đây là một số biện pháp của bản thân tôi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục “LQVT” về số lượng cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân tôi đã rất cố gắng, song về mặt nội dung cũng như hình thức trình bày không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý xây dựng của hội đồng khoa học các cấp để đề tài của tôi hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục Mầm non 2. Phương pháp hình thành biểu tượng toán sơ đẳng cho trẻ Mầm non. TS. Đỗ Thị Minh Liên – Nhà xuất bản sư phạm 2003. 3. Chương trình giáo dục mầm non - 18 - DANH TỪ CÁC TỪ VIẾT TẮT - LQVT: Làm quen với toán MỤC LỤC STT 1 2 3 4 5 1 1.1 NỘI DUNG Thông tin chung về sáng kiến TÓM TẮT SÁNG KIẾN Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến Nội dung sáng kiến Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến MÔ TẢ SÁNG KIẾN Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu - 19 - TRANG 1 2 2 2 3 3 4 5 1.2 1.3 2 3 3.1 4 4. 1. 4.2 4.3 4.4 4.5 4.6 5 6 1 2 Mục đích nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Điều tra thực trạng Phương pháp điều tra Các biện pháp thực hiện Biện pháp 1: Xác định nội dung truyền đạt cho trẻ Biện pháp2: Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi Biện pháp 3: Tạo môi trường cho trẻ làm quen với toán Biện pháp 4. Tổ chức hoạt động trong hoạt động học Biện pháp 5: Cho trẻ “LQVT” về số lượng ngoài tiết học, nồng ghép tích hợp vào các môn học Biện pháp 6: Tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh dạy trẻ “LQVT” tại gia đình Kết quả đạt được Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Kết luận Khuyến nghị Tài liệu tham khảo Phụ lục 1 Phòng Giáo dục và đào tạo …………………………. Trường mầm non…………………………… PHIẾU KHẢO SÁT Khả năng đếm, thêm – bớt, tách gộp số lượng I. Thông tin chung: Tên trẻ:………………………………………………. Lớp:………………. Câu hỏi 1: Con hãy đếm số lượng đồ đùng, đồ chơi theo thứ tự a. Trẻ đếm theo thứ tự, thành thạo b. Trẻ đếm còn lung tung, chưa theo thứ tự c. Trẻ không đếm được Câu hỏi 2: Con hãy thêm, bớt đồ dùng, đồ chơi theo yêu cầu a. Trẻ thêm bớt tốt b. Trẻ còn lúng túng khi thêm bớt - 20 - 6 6 7 7 8 9 9 10 10 11 12 13 14 17 18 18 19 Tải về bản full
|