Sự linh hoạt trong chính sách ngoại giao của Đảng giai đoạn 1945 1946 được thể hiện ở đâu

Phân tích vấn đề ngoại giao của việt nam từ 1945 1946

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.36 KB, 6 trang )

I_ Trình bày vấn đề ngoại giao của Việt Nam từ 1945-1946:
Ngoại giao là vấn đề vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia, “nền ngoại giao của bất kỳ
nước nào cũng nhằm phục vụ ba mục tiêu cơ bản là góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia; tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi nhất để
phát triển đất nước; nâng cao vị thế, mở rộng ảnh hưởng trên trường quốc tế… Ngoại
giao Việt Nam cũng không phải là trường hợp ngoại lệ”. (1)
Đặc biệt trong giai đoạn 1945-1946 – giai đoạn cực kỳ khó khăn của đất nước nói chung
và ngoại giao Việt Nam nói riêng. Tình hình trong nước và thế giới diễn biến phức tạp, ảnh
hưởng không nhỏ đến đất nước ta. Trước hết, điểm qua về tình hình quốc tế khi đó đối với
nước ta có một vài điểm đáng chú ý:
Một là, trật tự thế giới hai cực Y-an-ta đang dần dần định hình trên thực tế (1945-1947)
Hai là, trong khi Chiến tranh thế giới thứ II chưa hoàn toàn chấm dứt, thì cuộc chiến
tranh lạnh do chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ phát động đã ngày càng trở nên căng
thẳng.
Ba là, sau chiến tranh, Liên Xô trở thành cường quốc hàng đầu Châu Âu. Tuy còn thua
kém Mỹ về tiềm lực kinh tế và vũ khí hạt nhân nhưng Liên Xô vẫn đóng 1 vai trò quyết
định cùng Mỹ giải quyết những vấn đề lớn về hoà bình, an ninh trong khu vực và trên thế
giới.Cũng tại thời điểm này, các nước lớn trong phe Đồng Minh cũng ra sức củng cố lại hệ
thống thuộc địa, đặc biệt là Anh, Pháp.
Thứ hai, xét về tình hình trong nước:Nhà nước độc lập non trẻ phải đối mặt với vô vàn
thử thách và khó khăn (chính quyền vừa ra đời, kinh tế đình đốn, ngân sách trống rỗng,
chưa được nước nào công nhận, thiên tai liên miên, đặc biệt là hơn 30 vạn thù trong giặc
ngoài). Có thể nói nước ta lâm vào hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc
Trước tình hình trong nước và quốc tế diễn biến rất phức tạp, nhà nước ta đã sớm ban
hành chính sách ngoại giao của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà. Một tháng sau khi
tuyên bố nước Việt Nam giành độc lập, ngày 3-10-1945, chính sách ngoại giao của nước ta
được công bố dưới dạng một văn kiện nhà nước:” Thông cáo về chính sách ngoại giao của
nước Cộng hoà Dân chủ Việt Nam”, được đăng trên báo Cứu quốc, ngày 3-10-1945. Với
mục tiêu của chính sách là: Bảo vệ thành quả của cuộc Cách Mạng tháng 8, đưa dất nước
ta đến độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn; “Nước Việt Nam còn đang ở giai đoạn đấu tranh
kịch liệt, tất chính sách ngoại giao phải có mục đích cốt yếu là giúp cho sự đấu tranh


thắng lợi bằng mọi phương pháp êm dịu hay cương quyết”.

1


II- Phân tích vấn đề ngoại giao của Việt Nam từ 1945-1946:
1. Lựa chọn chính sách đối ngoại:
Bản “Thông cáo về chính sách ngoại giao của nước Cộng hoà Dân chủ Việt Nam” (3-101945) đã đề ra chính sách đối ngoại rất cụ thể, đúng đắn, phù hợp với từng đối tượng:
Với các nước Đồng Minh, Việt Nam mong muốn duy trì hữu nghị và thành thật hợp tác
trên cơ sở bình đẳng và tương trợ, để xây dựng nền hoà bình thế giới lâu dài.
Với Pháp, ta mong muốn xây dựng quan hệ hữu nghị dựa trên cơ sở tôn trọng quyền bình
đẳng và các quyền của nhau đối với nước Pháp. Còn đối với bọn thực dân Pháp có mưu đồ
chống phá, xâm lược nước ta thì ta kiên quyết đấu tranh.
Với các nước láng giềng, đặc biệt đối với nhân dân Khơme, Lào, Việt Nam chủ trương
liên kết giúp đỡ lẫn nhau cả về mặt chính trị và kinh tế.
Với các tiểu dân tộc trên toàn cầu, Việt Nam sẵn sàng thân thiện, hợp tác chặt chẽ trên
nguyên tắc bình đẳng để ủng hộ lẫn nhau trong sự nghiệp xây đắp và giữ vững nền độc lập.
Trong bối cảnh thế giới và trong nước diễn biến phức tạp; cùng một lúc, ta còn phải giải
quyết mối quan hệ với nhiều lực lượng khác nữa. Do đó, ta cần có chính sách linh hoạt,
mềm dẻo, đề ra những nhiệm vụ ưu tiên. Kẻ thù chính lúc này của ta là thực dân Pháp xâm
lược. Ta cần tập trung lực lượng chống kẻ thù chính, hoà hoãn các lực lượng chống đối
khác để rảnh tay đánh Pháp. Đảng ta chủ chương: “ Phải đặt riêng bọn thực dân Pháp xâm
lược ra mà đánh, đừng bỏ cả Pháp, Anh, Ấn (lính Ấn Độ trong hàng ngũ quân Anh) vào
một bị mà đánh và đừng coi họ là kẻ thù ngang nhau, đừng công kích nước Pháp, chỉ công
kích bọn thực dân Pháp”.Trên cơ sở này, Thường Vụ Trung Ương Đảng, Chính phủ và chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đi đến quyết định chiến lược “Hoà để tiến, lợi dụng mâu thuẫn trong
hàng ngũ đối phương, khéo léo, linh hoạt biến các Hiệp định giữa Anh- Pháp, Hoa- Pháp
liên quan đến quyền lợi của nước ta thành thoả thuận tay ba với sự tham gia của ta, đồng
thời tạo thế hoà hoãn với một bên để tranh thủ thời gian củng cố nội lực, tăng cường sức
mạnh để đối phó với những kẻ thù khác”.


Như vậy, Ngoại giao của ta thời kì này là Ngoại giao đa phương, mềm dẻo, linh hoạt, khi
nhượng bộ, khi cương quyết và luôn khẳng định đường lối độc lập tự chủ của nước nhà.
2. Triển khai chính sách đối ngoại:
a) Chính sách đối ngoại với quân Tưởng Giới Thạch:
Chính quyền Tưởng từ lâu đã có những toan tính riêng của mình về Đông Dương- đặc
biệt là với Việt Nam, chúng âm mưu lật đổ Đảng Cộng Sản, phá tan Việt Minh, đô hộ nước
ta lần nữa.
Tuy nhiên, Chính quyền Cách Mạng của ta nêu cao khẩu hiệu “Hoa- Việt thân thiện” và
thực hiện hoà hoãn với các sách lược mềm mỏng và bình tĩnh mà Hồ Chí Minh gọi là: “
Chính sách Câu Tiễn”. Mục đích của những chính sách này là lợi dụng lực lượng của
Tưởng có mặt ở Việt Nam như một lực lượng đối trọng với lực lượng của thực dân Pháp,
2


kiềm chế chủ trương của Chính phủ Paris sớm khôi phục kiểm soát ở Đông Dương; có thời
gian ổn định tình hình trong nước và rảnh tay đối phó với Pháp.
Trong các tuyên bố công khai của Chính phủ Việt Nam về quan hệ Việt- Hoa, cũng như
các thư từ và điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Tưởng Giới Thạch, ta luôn khẳng
định tình hữu nghị, quan hệ gắn bó lâu năm giữa hai nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
thường có những cuộc thăm hỏi các tướng lĩnh của Tưởng ở Việt Nam như Lư Hán, Tiêu
Văn...một mặt là để đặt quan hệ ngoại giao thân thiết, mặt khác là để tìm hiểu các tướng
lĩnh, lợi dụng mặt hám lời vật chất để hạn chế sự chống phá; tìm hiểu những mâu thuẫn nội
bộ của chúng và các mâu thuẫn với bên ngoài. Từ đó, lợi dụng những mâu thuẫn để thực
hiện những việc có ích cho ta.
Ví dụ như việc lãnh tụ Hồ Chí Minh tranh thủ tướng Lư Hán của Tưởng- người thường có
thái độ thành kiến với Pháp ở Đông Dương. Hồ Chủ Tịch thường trao đổi với Lư Hán về
tình hình Việt Nam, giới thiệu chủ trương “ Hoa- Việt thân thiện”; phê phán những hành
động xâm lược của Pháp. Qua những lần trao đổi như vậy, Lư Hán rất ngạc nhiên và khâm
phục sự hiểu biết sâu rộng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Lư Hán có những hành động độc lập
với chính phủ Trung Quốc như: không công nhận A-lếch-xăng-đri là đại diện cho Đờ Gôn


ở miền Bắc Việt Nam, không cho phép Pháp lập cơ quan hành chính dân sự, không ủng hộ
quá mức bọn Việt quốc, Việt cách...
Thêm vào đó, Hồ chủ tịch còn lợi dụng sự khác biệt về quyền lợi, biện pháp chống đối
Cách Mạng nước ta của các tướng lĩnh Tưởng, từ đó gây ảnh hưởng đến cách thức hành
động của chúng. Ví dụ như mâu thuẫn nội bộ của Tưởng được thể hiện quan 14 nguyên tắc
chỉ đạo hoạt động của quân đội Trung Hoa tại Đông Dương, trong đó chủ trương giữ liên
hệ chặt chẽ với Mỹ và Pháp, giữ thái độ trung lập trong quan hệ Pháp- Việt. Tiêu Văn- 1
tướng của Tưởng nhận xét rằng với 14 nguyên tắc này, nhiều người Pháp cho là đã làm
sống lại những điều mà họ đã tuyệt vọng. Còn tướng Lư Hán thì cho rằng các nguyên tắc
của Chính phủ không hợp với tình hình Việt Nam lúc bấy giờ. Như vậy là không thống
nhất được phương án hành động. Điều này rất có lợi cho ta.
Để hạn chế các hoạt động phá hoại của các nhóm thân Tưởng, chủ tịch Hồ Chí Minh đại
diện cho Việt Minh thực hiện nhiều cuộc tiếp xúc, họp liên tịch với những kẻ đại diện cho
Việt Quốc, Việt Cách.. để thống nhất những nguyên tắc chung và ký kết những thoả thuận
buộc bọn Việt Quốc, Việt Cách phải tỏ sự nhất trí đối với các nguyên tắc đoàn kết, hợp
tác, vì lợi ích quốc gia, ủng hộ kháng chiến ở Nam Bộ, chống thực dân Pháp xâm lược,
ủng hộ các chủ trương của chính phủ... Ta dành cho bọn Việt Cách, Việt Quốc các chức vụ
Phó chủ tịch nước, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Kinh tế và 70 ghế trong Quốc
Hội không qua tổng tuyển cử. Sách lược khéo léo và đúng đắn này đã xoa dịu sự chống đối
của các tướng lĩnh Tưởng và các nhóm thân Tưởng, góp phần ngăn chặn âm mưu phá hoại
và lật đổ của chúng. Tuy là nhân nhượng nhưng ta vẫn có những nguyên tắc hoạt động rõ
ràng, luôn khẳng định đường lối độc lập, tự chủ.
Đảng ta cũng đồng thời thực hiện biểu dương lực lượng chính trị lớn mạnh của quần
chúng nhân dân ủng hộ cách mạng để hậu thuẫn cho hoạt động ngoại giao. Điển hình là
cuộc diễu hành của 30 vạn nhân dân thủ đô Hà Nội. Cuộc diễu hành về danh nghĩa để hoan
nghênh phải bộ Đồng Minh nhưng thực chất là để biểu dương lực lượng của nhân dân ủng
hộ chính quyền Cách Mạng và Hồ chủ tịch.
3



Như vậy, nhờ những biện pháp, chính sách của chính phủ Việt Nam hoà hoãn, kiềm chế
lực lượng chống phá của Tưởng, miền Bắc nước ta có một thời kỳ tương đối ổn định để
thực hiện chủ chương kháng chiến kiến quốc, xây dựng củng cố chính quyền nhân dân;
làm chậm chễ việc quân đội viễn chinh Pháp ra Bắc và tạo điều kiện để chi viện cho kháng
chiến ở đồng bào miền Nam.
b-Chính sách đối ngoại với Pháp:
Sau chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Pháp lại mưu đồ xâm lược Việt Nam một lần nữa.
Chúng đưa quân đánh chiếm miền Nam Việt Nam trước, sau đó ý định mở rộng chiến
tranh ra Bắc. Tuy nhiên, quân đội Pháp thất bại trong kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh ở
miền Nam, nên mặc dù đã thảo kế hoạch quân sự mở rộng chiến tranh ra Bắc, song Bộ chỉ
huy quân Pháp thấy lo ngại. Kế hoạch của chúng khó có thể thực hiện. Vì thực dân Pháp
lúc này không những phải đối mặt với khối đại đoàn kết toàn dân tộc của ta mà còn phải
đối mặt với hơn 20 vạn quân Tưởng. Pháp lo sợ sự "xích gần với chính quyền Hà Nội" của
lực lượng Tưởng Giới Thạch ở Đông Dương sau một số thoả thuận giữa ta với Tưởng.
Trước tình hình đó, Pháp đưa ra giải pháp: một mặt thương lượng với chính phủ Trùng
Khánh để đạt được sự công nhận của Tưởng về quyền của Pháp ở Đông Dương và cho
quân Pháp thay thế quân Tưởng ở miền Bắc Việt Nam. Mặt khác, đàm phán với chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hoà để tránh chiến tranh lâu dài.
Về phía Tưởng, quân Tưởng đang gặp khá nhiều khó khăn trong việc chống phá phong
trào Cách Mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Tưởng Giới Thạch muốn rút quân về để
chiếm Mãn Châu nhưng vẫn muốn giữ được nhiều quyền lợi ở Đông Dương. Do đó,
Tưởng cũng muốn thương lượng với Pháp về vấn đề đưa quân ra Bắc của Pháp. Hơn nữa,
Mỹ cũng đồng tình với Tưởng trong việc thương lượng với Pháp vì Mỹ đang ra sức tập
hợp lực lượng, trong đó có Pháp, để chống Liên Xô.
Ngày 28-2-1946, Pháp và Tưởng đã ký hiệp ước Hoa- Pháp tại Trùng Khánh gây nên
một bất lợi cho ta. Trước đó ta lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp và Tưởng để tránh đối đầu
với 2 thế lực lớn này, còn nay chúng lại bắt tay thoả hiệp với nhau. Tình thế này buộc ta
phải đưa ra được những chính sách đối ngoại mới, linh hoạt, phù hợp để đối phó với
Tưởng và Pháp.
Trước tiên, ta vẫn chủ trương tiếp tục hoà hoãn với thế lực Tưởng ở Đông Dương nhằm


dùng Tưởng để cản trở việc thực hiện ý đồ của Pháp và trong cả việc thực thi thoả thuận
Hoa- Pháp về Đông Dương, duy trì được thế hoà hoãn với cả hai phía, tạo thế vững chắc
trong cuộc thương lượng với Pháp.
Chính sách của ta dần chuyển thành nhân nhượng, hoà hoãn với Pháp tuy nhiên vẫn giữ
nền độc lập chính trị. Mục tiêu của hoà hoãn với Pháp để đẩy Tưởng về nước, biến hiệp
định tay đôi thành thoả thuận tay ba. Thoả hiệp Việt- Pháp được hoàn chỉnh từng bước qua
các cuộc đấu tranh trong đàm phán giữa hai bên. Cuối cùng, ngày 6-3-1946, hiệp định sơ
bộ Việt- Pháp được ký kết với sự chứng kiến của phái bộ Mỹ, lãnh sự Anh và lực lượng
của Tưởng Giới Thạch ở Đông Dương.
Việc ký hiệp định Sơ bộ là một biện pháp ngoại giao sáng suốt, phản ánh việc ta vận
dụng sách lược phân hoá kẻ thù, sử dụng điều khoản thay quân của Hiệp định Hoa- Pháp
tạo thời cơ đẩy quân Tưởng và bọn tay sai của chúng ra khỏi đất nước, tránh được nguy cơ
4


phải đối phó với hai thế lực thù địch cùng một lúc. Đồng thời, Hiệp định tạo một không
gian hoà hoãn trong cả nước để có thể biến thời gian thành lực lượng vật chất và cùng với
kết quả đem lại trên thực tế (quân Tưởng rút quân về nước, Pháp phải dãn quân ra) đã góp
phần làm thay đổi, so sánh lực lượng toàn cục có lợi hơn cho cuộc đấu tranh của nhân dân
ta trong cả nước.
Ngay sau khi Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 được ký kết, nội bộ quân Pháp có sự thay
đổi. Mâu thuẫn giữa phải chủ chiến mà đứng đầu là Đắc- giăng- li- ơ và phe chủ hoà đứng
đầu là Lơ- Cléc và Xanh- tơ- ni trong quân đội Pháp lên cao. Đắc- giăng- li- ơ chỉ trích LơCléc "chỉ thích điều đình, không muốn đánh nhau. Trong khi đó, cố vẫn chính trị Cao uỷ
Pháp lại nhận xét: Về phía Pháp, Hiệp định được thảo ra một cách vội vã. Phái chủ chiến
dần thắng thế. Các lực lượng thực dân hiếu chiến phản động ở Đông Dương tìm cách hạ
thấp ý nghĩa của Hiệp định Sơ bộ, trì hoãn việc thi hành Hiệp định, tiếp tục tiến hành chiến
tranh Nam Bộ, Nam Trung Kỳ, lập ra "chính phủ Nam Kỳ" và " Nước cộng hoà Nam Kỳ".
Theo yêu cầu của phía Pháp, ngày 24-3-1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp Đắc- giăngli- ơ ở Vịnh Bắc Bộ. Tại cuộc gặp, hai bên đã thoả thuận những bước tiếp của cuộc đàm
phán Việt- Pháp để giải quyết những vấn đề còn lại của Hiệp định Sơ bộ. Hai bên đồng ý
triệu tập cuộc họp trù bị ở Đà Lạt như Pháp đề nghị nhưng ta đòi phải có sự tham gia của


đại biểu Chính phủ từ Pháp sang; đồng ý triệu tập sớm cuộc đàm phán chính thức giữa hai
bên ở Paris ngay sau khi kết thúc cuộc họp trù bị; phía Pháp mời đoàn đại biểu Quốc hội
Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp vào tháng 5-1946.
Tại cuộc họp trù bị ở Đà Lạt, do lập trường ngoan cố của Pháp, cuộc họp trù bị ViệtPháp sau 22 ngày đấu tranh gay gắt không đem lại kết quả cụ thể nào. Tuy nhiên hai bên
đã hiểu lập trường của nhau; giúp ta chuẩn bị tốt hơn cho cuộc họp chính thức ở Paris.
Cuộc đàm phán chính thức Việt- Pháp ở Phông- ten- nơ- blô tiến hành từ ngày 6-7-1946
đến 1-8-1946, ta rất có thiện chí nhưng bọn thực dân phản động Pháp luôn thực hiện âm
mưu phá vỡ hoàn toàn cuộc đàm phán chính thức, đi đến làm vô hiệu hoá Hiệp định Sơ bộ
6-3-1946. Chúng gần như đã thực hiện được âm mưu của mình. Ngày 13-9-1946, đoàn
đàm phán của ta lên đường về nước. Tuy nhiên, chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định ở lại
thêm vài ngày nữa để tiếp tục thảo luận với Chính phủ Pháp nhằm cứu vãn tình thế căng
thẳng của quan hệ Pháp- Việt, kéo dài thêm thời gian hoà hoãn ở Đông Dương rất cần cho
ta lúc này. Kết quả là tạm ước 14-9-1946 được ký kết giữa Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Mutê đại diện của Chính phủ Pháp. Tạm ước đã ghi nhận tạm thời những cam kết của Việt
Nam và Pháp trên cơ sở Hiệp định Sơ bộ, nhằm giải quyết những vấn đề bức thiết trong
mối quan hệ hai nước, khẳng định cần phải ngừng ngay mọi xung đột. Phía Pháp sẽ đảm
bảo thực hiện các quyền tự do, dân chủ ở Nam Bộ, thả những người Việt Nam bị Pháp bắt
và phía Việt Nam nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế và văn hoá ở Việt
Nam. Bọn thực dân Pháp phản động cùng đòi chủ tịch Hồ Chí MInh thoả thuận rút lực
lượng vũ trang ở Nam Bộ ra miền Bắc nhưng Người kiên quyết không chấp nhận.
Như vậy, bằng việc nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hoá và
kiên trì quan điểm độc lập trong Liên hiệp Pháp, ta đạt được tiếp tục ngừng bắn, cam kết
quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Nam Bộ. Do đó, giúp ta có thêm thời gian để chuẩn bị
lực lượng quân sự, kinh tế,... đối phó với quân địch.
5


Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 và tạm ước 14-9-1946 đã thể hiện được chính sách đối ngoại
đa phương, mềm dẻo và linh hoạt của Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ những chính sách
này, ta không những loại bỏ được bớt kẻ thù( Tưởng Giới Thạch) mà còn có thêm thời gian
để chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến.


c-Chính sách đối ngoại với các quốc gia khác:
Như đã khẳng định trong Thông cáo 3-10-1945, với các nước lớn, các nước trong Đồng
Minh chống phát xít thì Việt Nam hết sức thân thiện và thành thực hợp tác trên lập trường
bình đẳng và tương ái. Mỹ là một nước lớn trong phe Đồng Minh chống phát xít. Thái độ
của Chính phủ Mỹ sẽ ảnh hưởng đến việc Pháp thiết lập chế độ thuộc địa ở Đông Dương,
ảnh hưởng tới sự bành trướng của quân đội Tưởng. Từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 2 năm
1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã 8 lần gửi thông điệp, thư, điện và công hàm cho Tổng
thống và Ngoại trưởng Mỹ, giới thiệu các phát triển mới trong tình hình của Việt Nam; tố
cáo Pháp trở lại xâm lược Việt Nam và vi phạm các nguyên tắc nêu trong Hiến chương Đại
Tây Dương và Hiến chương Liên Hiệp Quốc; đề nghị Mỹ công nhận nền độc lập của Việt
Nam.
Chính phủ Việt Nam cũng thường xuyên giữ quan hệ với các đại diện Mỹ có mặt ở Việt
Nam, như Phái bộ Mỹ tại Đông Dương; văn phòng của cơ quan Tình báo chiến lược. Mục
đích của ta là nhằm tranh thủ những người Mỹ có mặt ở Hà Nội để hỗ trợ cho việc kiềm
chế tướng lĩnh Tưởng và thế lực của Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có những cuộc tiếp
xúc với quan chức ngoại giao của Mỹ. Tháng 9 năm 1946, khi ở Pháp, chủ tịch đến thăm
Đại sứ quán Mỹ ở Paris, gặp Đại sứ Mỹ và sau đó tiếp cán bộ Đại sứ quán Mỹ đến chào
Người. Các giao dịch của những người đứng Việt Nam đã có những tác động ít nhiều tới
thái độ cuả Mỹ trong vấn đề Đông Dương. Tài liệu của Nhà Năm Góc đã nhận xét về vấn
đề này:" Trong khi không có hành động gì đáp ứng yêu cầu mà Hồ Chí Minh nêu lên, Mỹ
cũng không sẵn sàng giúp đỡ Pháp".Như vậy chính sách ngoại giao của ta lúc này là ngoại
giao nhân dân, chủ động lập hội Việt- Mỹ thân hữu nhằm tranh thủ Mỹ trung lập, tạo điều
kiện để hoà hoãn, kiềm chế lực lượng của Tưởng cũng như Pháp ở Việt Nam.
Đối với các nước khác trên thế giới, Việt Nam chủ trương quan hệ hữu nghị, hợp tác,
bình đẳng, tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ từ bên ngoài. Đối với nhân dân Pháp, Việt Nam
không thù hằn gì, vẫn luôn tỏ thái độ thân thiện, tỏ ý muốn hợp tác. Ta chỉ chống lại bọn
thực dân Pháp phản động, có ý đồ muốn xâm lược nước ta.
CHÚ THÍCH
(1) Thứ trưởng ngoại giao VŨ KHOAN. Ngoại giao phục vụ sự nghiệp phát triển kinh
tế của đất nước. Tạp Chí Quan hệ quốc tế số đặc biệt. Số 7, tháng 9-1995, trang 3



6



CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA TỪ THÁNG 9/1945 ĐẾN THÁNG 12/1946 - THÀNH TỰU VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM

Thứ bảy, 30.05.2020 17:17

Sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với kẻ thù trong giai đoạn (1945 - 1946) - Một chủ trương lớn, có ý nghĩa chiến lược, quyết định của cách mạng Việt Nam

Phạm Minh Triều

2021-09-14T05:14:44-04:00 2021-09-14T05:14:44-04:00 //truongchinhtri.edu.vn/home/thong-tin-nghien-cuu-trao-doi/sach-luoc-hoa-hoan-nhan-nhuong-voi-ke-thu-trong-giai-doan-1945-1946-mot-chu-truong-lon-co-y-nghia-chien-luoc-quyet-dinh-cua-cach-mang-viet-nam-1330.html //cdn.giaibainhanh.com/su-linh-hoat-trong-chinh-sach-ngoai-giao-cua-dang-giai-doan-1945-1946-duoc-the-hien-o-dau--3a865958173be3dc66cca0747567d61a.wepb

Trường Chính trị tỉnh Bình Phước //truongchinhtri.edu.vn/home/uploads/logotc108t.png

Thứ hai - 30/08/2021 06:11 41.444 0

Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, một nhà nước non trẻ vừa mới ra đời đã phải đương đầu với nhiều khó khăn và kẻ thù hơn bao giờ hết. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện một số chính sách hòa hoãn, nhân nhượng với kẻ thù là xuất phát từ đường lối ngoại giao hòa bình, đồng thời cũng xuất phát từ hoàn cảnh thực tế lúc đó, hoàn cảnh cách mạng “ngàn cân treo sợi tóc”, hòa thì còn và đánh thì rất có thể mất. Chính vì những biện pháp hòa hoãn, nhân nhượng với kẻ thù được thực hiện mà chúng ta đã giữ được chính quyền, thế và lực của cách mạng phát triển, tạo tiền đề cơ sở để giành thắng lợi các thời kỳ cách mạng sau này.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình,
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòangày 2-9-1945. (Ảnh tư liệu). Nguồn: ( tapchiqptd.vn)

Lênin đã từng dạy những người cách mạng rằng: “Thấy cuộc chiến đấu rõ ràng có lợi cho kẻ thù chứ không có lợi cho ta mà cứ nghênh chiến, đó là một tội ác; và những nhà chính trị nào của giai cấp cách mạng, không biết “lựa chiêu, liên minh và thỏa hiệp” để tránh một cuộc chiến đấu bất lợi rõ rệt thì đó là những người vô dụng”(1). Sau Cách mạng Tháng Támlà thời kỳ cách mạng nước ta gặp rất nhiều khó khăn và thách thức với nhiều kẻ thù nguy hiểm, thù trong giặc ngoài. Để giữ vững nền độc lập vừa giành được, biểu hiện tập trung ở việc giữ chính quyền cách mạng và bước đầu xây dựng một xã hội mới, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải thực hiện sách lược hòa hoãn với kẻ thù, ngăn chặn và làm thất bại âm mưu “diệt Cộng, cầm Hồ”, thôn tính nước ta của hai tên đế quốc Tàu Tưởng và Pháp. Mục tiêu chính sách đối ngoại nhất quán của Đảng và Chính phủ ta là độc lập, hòa bình và tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế. Đứng trước nhiều kẻ thù mạnh, chúng ta lại vô cùng khó khăn, sức mạnh vật chất còn hạn chế, nhưng Đảng ta đã phát huy được sức mạnh vật chất, sức mạnh chính trị tinh thần vào công cuộc kháng chiến kiến quốc cũng như trong đấu tranh ngoại giao. Đến cuối năm 1946, chỉ mới hơn một năm xây dựng lực lượng trong bối cảnh đầy rẫy khó khăn, vừa xây dựng vừa chiến đấu, nhưng chúng ta đã có được lực lượng chính trị hùng hậu của toàn dân, có một chính quyền hợp pháp được cũng cố từ Trung ương đến làng xã, có một cơ sở kinh tế văn hóa nhất định, có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân đông đảo rộng khắp, với một Đảng Cộng sản được cũng cố và phát triển ngày càng trưởng thành lãnh đạo. Chúng ta lại có được sự ủng hộ quốc tế ngày càng rộng rãi. Đó là sức mạnh tổng hợp của đất nước ta, của dân tộc ta và của cả thời đại.
Khi bước vào cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược, đồng thời phải thường xuyên phải đối phó với sự chống trả điên cuồng của quân Tưởng cùng bọn tay sai, nhưng Đảng ta vẫn kiên trì cuộc đấu tranh để đạt tới hòa hoãn. Ta hoà hoãn với Tưởng và bọn tay sai ở phía Bắc, đồng thời đẩy mạnh kháng chiến chống Pháp ở phía Nam. Để đạt được hòa hoãn với quân Tưởng, ta phải nhân nhượng nhiều điều, trong đó có điều quan trọng như Đảng phải tuyên bố tự giải tán, phải cho bọn Việt quốc, Việt cách tham gia chính quyền cách mạng…Những nhân nhượng đó đã gây ra những khó khăn, phức tạp mới và là những điều ta không muốn. Nhưng trước tình thế sốngcòn của độc lập dân tộc, của chính quyền cách mạng, thì sự nhân nhượng cùng những biện pháp đấu tranh khác để đạt tới hòa hoãn là điều cần thiết, là sự đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hòa với Tưởng, ta phá được âm mưu của chúng định dùng vũ lực lật đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền của bọn tay sai. Việc cho bọn tay sai Tưởng tham gia chính quyền nhà nước vừa phá được luận điệu tuyên truyền “Việt Minh, cộng sản độc quyền”, phá được sức ép đòi Chính phủ ta phải từ chức, chúng cũng không thực hiện được ý đồ phá hoại, tiến tới giành chính quyền bằng biện pháp chính trị, ngoại giao. Trái lại, bọn phản động hoàn toàn bất lực, tự lột mặt nạ trước nhân dân và trốn chạy theo đế quốc. Chính quyền cách mạng không hề thay đổi về tính chất và ngày càng được cũng cố. Đảng Cộng sản Đông Dương ra thông báo tự ý giải tán là vì yêu cầu của tình thế và là một sách lược nhân nhượng để đạt tới hòa hoãn. Thực chất là Đảng rút vào hoạt động bí mật, vẫn tiếp tục phát triển củng cố, vẫn lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo chính quyền.
Việc Hòa với Tưởng ta có điều kiện để tập trung lực lượng chống Pháp, cuộc hòa hoãn này đối với Pháp là một bất lợi. Pháp coi Tưởng và ta như đồng mình với nhau để ngăn chặn mưu đồ của Pháp, hơn một năm quân Tưởng đóng quân trên đất nước ta, chúng ta đã thực hiện được hòa hoãn với chúng. Kết quả cuối cùng kẻ địch không thực hiện được dã tâm của chúng, trái lại, ta thực hiện được mục tiêu chiến lược là giữ vững độc lập, giữ vững chính quyền. Việc hòa với Tưởng là hòa với một kẻ thù trực tiếp nguy hiểm, nhưng không phải kẻ thù chính để phân hóa, cô lập, tập trung lực lượng đấu tranh bằng biện pháp quân sự chống kẻ thù chính. Còn hòa với Pháp là hòa ngay với kẻ thù chính để loại bớt một kẻ thù trực tiếp nguy hiểm và tranh thủ trạng thái không có chiến tranh để xây dựng đất nước, chuẩn bị lực lượng đối phó với một cuộc chiến tranh lớn nếu kẻ thù cố tình gây ra. Đó là một điều khá đặc biệt được đặt ra và giải quyết trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt.
Nhờ sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với thực dân Pháp, mà gần một năm tạm hòa bình, đã cho chúng ta thời giờ để xây dựng lực lượng căn bản, đặc biệt việc ký Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước ngày 14/9 là được xem là những phương thuốc hồi sinh cho Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói nói “Chúng ta cần hòa bình để xây dựng nước nhà, cho nên chúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ hòa bình”(2). Trong hoàn cảnh đó hòa hoãn, nhân nhượng tuy là vấn đề sách lược, nhưng lại là một chủ trương lớn, có ý nghĩa chiến lược.
Ta chủ trương hòa hoãn là nhằm giành thắng lợi cho cách mạng. Nhưng việc thực hiện chủ trương này cũng còn tùy thuộc cả phản ứng của kẻ thù. Để đạt được hòa hoãn cũng là một cuộc đấu tranh. Ta khoét sâu những chổ yếu của địch, những mâu thuẫn trong nội bộ chúng, vừa mềm dẻo nhân nhượng, vừa kiến quyết đấu tranh giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc của cách mạng. Cuộc đấu tranh để đạt được hòa hoãn và đấu tranh trong quá trình hòa hoãn là cuộc đấu tranh cách mạng gay go, phức tạp, tinh vi và đầy bất trắc. Nhiều lần kẻ thù nói chung, hoặc một thế lực nào đó của kẻ thù tạo cớ và kiếm cớ để lật đổ chính quyền cách mạng. Nhưng chúng ta luôn cảnh giác, chuẩn bị sẵn nhiều phương án, dùng đấu tranh chính trị, ngoại giao với lực lượng đông đảo quần chúng làm hậu thuẫn, nên đã không để kẻ thù biến việc nhỏ thành việc lớn, việc đơn giản thành nghiêm trọng. Thậm chí ta phải nín nhịn trong một số trường hợp để giữ được hòa bình. Cuộc đấu tranh trong hòa hoãn không hoặc ít đổ máu, nhưng lại rất phức tạp, phải vận dụng nhiều cách linh hoạt, đòi hỏi những người thực thi phải hết sức vững vàng, khôn khéo.
Việc thực hiện hòa hoãn, không cách nào khách là chúng ta phải nhân nhượng. Nhân nhượng nhiều hay ít phụ thuộc trước hết vào so sánh lực lưỡng giữa ta và địch, đồng thời cũng do kết quả tài năng đấu tranh của ta. Mỗi cuộc hòa hoãn có hoàn cảnh khác nhau nên sự nhân nhượng cũng khác nhau. Vấn đề là phải xem xét nhân nhượng như vậy có phản ánh đúng tương quan lực lượng đôi bên không? Những nhân nhượng đó có vi phạm nguyên tắc cách mạng hay không? Có nhầm đạt tới mục tiêu cuối cùng của cách mạng hay không? Và thực tiễn lịch sử đã phán xét ra sao?. Những nhân nhượng của ta với quân Tưởng và bọn tay sai là những nhân nhượng lớn, trên những vấn đề quan trọng của cách mạng. Nhưng những nhân nhượng đó không vi phạm nguyên tắc của cách mạng lúc này là giữ vững độc lập thống nhất của Tổ quốc mà biểu hiện tập trung là giữ vững chính quyền cách mạng.
Việc hòa hoãn với Pháp đặt ra cho chúng ta những vấn đề phức tạp hơn, điều kiện hòa hoãn cũng nặng nề hơn. Cuộc đấu tranh giữa ta và Pháp gay go kéo dài. Hai vấn đề trọng yếu đấu tranh gay go trong quá trình đàm phán là vấn đề Pháp công nhận nền độc lập thống nhất của Việt nam và vấn đề Việt Nam đồng ý để quân đội Pháp vào Bắc kỳ thay thế quân độ Trung Hoa. Cuối cùng Chính phủ Pháp phải công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội riêng, tài chính riêng, việc thống nhất ba kỳ do nhân dân Việt Nam quyết định. Phía ta phải chấp nhận quyền đóng quân tạm thời với số quân hạn chế của Pháp trên đất Bắc Kỳ. Sau khi ký Hiệp định Sơ bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với Xanh-tơ-ny: “Các ông thừa hiểu rằng nguyện vọng của tôi còn muốn hơn thế nhiều. Nhưng tôi biết rõ rằng không thể nào một lúc mà có tất cả”(3).
Nguyện vọng thiết tha của toàn Đảng, toàn dân ta là độc lập thống nhất hoàn toàn, nhưng hoàn cảnh lịch sử chưa cho phép chúng ta đạt tới mục tiêu đó. Tương quan lực lượng buộc ta phải nhân nhượng. Đó là những nhân nhượng cần thiết, đúng đắn và mưu lược. Chúng ta dừng lại để tiến lên, chứ không phiêu lưu lao vào một cuộc chiến một cách vô dụng. Lê nin đã dạy “Đối với chính đảng vô sản, không có sai lầm nào nguy hiểm hơn là định sách lược của mình theo ý muốn chủ quan…Định ra một sách lược vô sản theo ý muốn chủ quan là giết sách lược đó” (4).
Sự nhân nhượng có thể ít, có thể nhiều. Có khi đã nhân nhượng lần này, lại phải tiếp tục nhân nhượng lần khác. Nhưng nhất thiết phải có điểm dừng. Vượt quá điểm dừng ấy là phạm vào nguyên tắc cách mạng. Bao giờ cũng vậy, trạng thái hòa bình là điều kiện thuận lợi nhất để xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước, nhưng không phải hòa bình với bất cứ giá nào. Hòa với Tưởng, chúng ta đã nhân nhượng về kinh tế, chính trị…, nhưng những yêu sách ngỗ ngược quá đáng của chúng như đòi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chức, đòi loại các bộ trưởng cộng sản ra khỏi Chính phủ, đòi để bọn tay sai lãnh đạo chính quyền…thì chúng ta kiên quyết cự tuyệt. Bởi chấp nhận những điều đó là mất chính quyền, mất độc lập tự do, là phạm vào nguyên tắc cách mạng. Ngay nhân nhượng về kinh tế, nhân nhượng này không phạm vào chủ quyền quốc gia dân tộc, nhưng cũng có giới hạn. Có lần Lư Hán đòi ta phải cung cấp thêm nhiều gạo nữa cho quân Tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết cự tuyệt.
Việc ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3 là một nhân nhượng của ta. Tạm ước 14/9 lại là một bước nhân nhượng nữa để cố cứu vãn nền hòa bình mỏng manh. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Chúng ta không thể chấp nhận tối hậu thư như đòi giải giáp Quân đội Quốc gia, đòi trao toàn bộ quyền lực cai quản đất nước ta cho Pháp. Toàn dân ta đã đứng lên kháng chiến. Đó là quan điểm, cách thức giải quyết mối quan hệ giữa mềm dẻo linh hoạt về sách lược với giữ vững nguyên tắc chiến lược, đó cũng là sự khác biệt hoàn toàn với tư tưởng hữu khuynh đầu hàng thủ tiêu đấu tranh, “hòa giải”, “hợp tác” với kẻ thù bất cứ giá nào. C.Mác từng dạy “Trong chính trị - vì một mục đích nào đó có thể liên minh thậm chí ngay với quỷ - chỉ cần biết chắc là anh sẽ xỏ mũi con quỷ chứ không phải là con quỷ xỏ mũi anh”(5). Lênincũng chỉ rõ mối quan hệ này “Nhiệm vụ của một đảng thật sự cách mạng không phải là tuyên bố rằng không thể cự tuyệt mọi sự thỏa hiệp trong trường hợp không thể tránh được thỏa hiệp, giữ thái độ trung thành với những nguyên tắc cả mình, với gia cấp mình, với nhiệm vụ cách mạng của mình, với sự nghiệp của mình là chuẩn bị cuộc cách mạng và giáo dục quần chúng để đi đến cách mạng thành công”.
Đánh giá sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với kẻ thù thời kỳ 1945 – 1946, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẫn khẳng định “Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lê-nin-nít về lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ địch và về nhân nhượng có nguyên tắc”(6). Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn cán bộ rằng “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”, nghĩa là phải “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Người luôn nêu cao ngọn cờ đại nghĩa là độc lập và thống nhất Tổ quốc, đó là nguyên tắc bất biến để ứng phó với mọi tình huống. Khi mà thực dân Pháp gây ra cuộc chiến tranh ở Nam Bộ, Người đã khẳng định: nếu cần phải hy sinh, nếu cần phải kháng chiến “để giữ gìn chủ quyền độc lập của Việt Nam, để cho con cháu Việt Nam khỏi kiếp nô lệ, thì chúng ta vẫn kiên quyết hy sinh và kháng chiến”(7).
Độc lập, thống nhất cũng chính là ngọn cờ để tập hợp lực lượng toàn dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, chống kẻ thù xâm lược. Chính nhờ Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sách lược linh hoạt hòa hoãn, nhân nhượng với kẻ thù, giữ vững nguyên tắc chiến lược mà cách mạng đã vượt qua những thử thách hiểm nghèo, giành thắng lợi từng bước, đưa cách mạng cả nước tiến lên, vững chắc đi tới thắng lợi hoàn toàn./.
Tài liệu tham khảo:
(1). V.I.Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, tr.77.
(2). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.62.
(3). J.Xanh-tơ-ny: Đối diện Hồ Chí Minh, Pa-ri, 1970, Bản dịch, Tư liệu Viện Hồ Chí Minh, tr.58.
(4). V.I.Lênin: Toàn tập, tập 31, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1981, tr.435.
(5). C. Mác, Tiểu sử, Nxb Khoa học xã hội, H.1975, tr.570.
(6). Lê Duẫn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành thắng lợi mới, In lần thứ ba, Nxb Sự thật, H.1975, tr.33.
(7). Lê Duẫn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành thắng lợi mới, In lần thứ ba, Nxb Sự thật, H.1975, tr.33.

Tác giả bài viết: Phạm Minh Triều

CHỐNG THÙ TRONG GIẶC NGOÀI, GIẶC ĐÓI, GIẶC DỐT, BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM, CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (8-1945 - 12-1946)

Đăng lúc: 09/03/2021 (GMT+7)

100%

Chương III

CHỐNG THÙ TRONG GIẶC NGOÀI, GIẶC ĐÓI, GIẶC DỐT,

BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM,

CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

(8-1945 - 12-1946)

ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đang phải đương đầu với muôn vàn khó khăn thử thách hiểm nghèo do chế độ thực dân phong kiến để lại: sản xuất đình đốn, nạn đóỉ hoành hành, gần 2 triệu người chết đói, hơn 90% dân số mụ chữ, tài chính quốc gia trống rỗng thì trung tuần tháng 9 năm 1945,20 vạn quận Tưởng Giói Thạch với danh nghĩa quân đội đồng minh đến miền Bắc nước ta, mang theo bọn Việt Nam Quôc dân Đảng tay sai, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, gây cho Chính phủ và nhân dân ta muôn vàn khó khăn. Trong Nam núp sau quân đội Anh, quân đội Pháp gây hấn ở Nam Bộ, âm mưu đặt ách cai trị các nước Đông Dương một lần nữa. Cùng thời gian đó, một trung đoàn quân Tưởng Giới Thạch kéo vào Thanh Hóa uy hiếp chính quyền cách mạng còn non trẻ. Chúng chiếm đóng các vị trí quan trọng trong thị xã (nay là thành phố Thanh Hóa) như trụ sở Nông Giang, phố Cửa Tả... đòi cung cấp lương thực, thực phẩm, đặt súng máy trên các ngả đường, đòi tước vũ khí của lực lượng vũ trang cách mạng và tung tiền giấy quan kim mất giá vào tỉnh ta để vơ vét hàng hóa gây ra những thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế. Chúng ép chính quyền cách mạng đưa tên phản động Quốc dân Đảng Đỗ Văn giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền cấp tỉnh. Chúng nuôi dưỡng, trang bị vũ khí và vạch ra kế hoạch cho bọn Quốc dân Đảng lập ra đệ lục chiến khu ở ấp Di Linh (nay là xã Hợp Lý - Triệu Sơn). Một số tổ chức phản động ngóc đầu dậy tìm cách phá hoại. Những tên phản động đầu sỏ như: Nguyễn Trác, Trương Thê Giám, Đào Duy Hách, Khiếu Hữu Kiều tích cực hoạt động trong các vùng tôn giáo, tuyên truyền, xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng, xây dựng lực lượng chuẩn bị đón Pháp quay trở lại thống trị nhân dân ta.

Nằm trong hoàn cảnh chung, chính quyên cách mạng huyện Thọ Xuân trong những ngày mới thành lập cũng đứng trước những thử thách tưởng chừng không thể vượt qua.

Ngày khởi nghĩa chính quyên cách mạng tiếp quản huyện đường chỉ có những gian nhà chông rỗng, mọi hoạt động của chính quyền cách mạng đều dựa vào các đoàn thể và sự đóng góp của nhân dân.

Bộ máy chính quyền từ huyện xuống xã mơi thành lập còn non yếu, bỡ ngỡ và lúng túng trong tô chúc quản lý xã hội.

Đời sống nhân dân, nhất là người lao động vô cùng khó khăn, tình trạng thiếu lương thục trầm trọng. Nạn đói xảy ra hồi đầu năm 1945 liên tiếp hoành hành đe dọa sinh mệnh của hàng ngàn người dân trong huyên, hơn 95% dân số trong huyện mù chữ. Tệ nạn xã hội như: rượu chè, cờ bạc, mê tín, dị đoan... do xã hội cũ để lại nặng nê, dịch bệnh phát sinh ở nhiều vùng trong huyện....

Lợi dụng tình thế khó khăn, bọn phản cách mạng tìm cách liên kết vói bọn Quốc dân Đảng công khai hoặc ngấm ngầm chông phá cách mạng. Chúng cho tay chân chui vào các đoàn thể của ta, lợi dụng danh nghĩa cách mạng, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ, đe dọa uy hiếp nhân dân, tìm cách phá cơ sở cách mạng. Chúng tự đến các làng để diễn thuyết, lập hội, viết báo tuyên truyền tư tưởng phản động.

Hoạt động của bọn phản cách mạng đã bị chính quyền và lục lượng cách mạng trong huyện ngăn chặn, triệt phá, âm mưu, thủ đoạn của chúng bị vạch trần trước đông đảo nhân dân.

Bên cạnh nhũng khó khăn, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thọ Xuân có những thuận lợi cơ bản. Đó là khí thế phong trào cách mạng đang sục sôi, lòng yêu nước, khát khao với độc lập tự do và tinh thần cách mạng của nhân dân đang dâng cao. Đội ngũ cán bộ, đảng viên đã qua thử thách, được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng. Chính quyền nhân dân còn non trẻ nhưng được nhân dân hết lòng ủng hộ.

Để giải quyết tình hình nói trên, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã vạch ra phương hướng, biện pháp bảo vệ và xây dựng chế độ mới, đối phó với các lục lượng phản động quốc tế đang bao vây, tấn công cách mạng.

Ngày 3 tháng 9 năm 1945, Chủ tichi Hồ Chí Minh triệu tập phiên họp đầu tiên của Chính phủ và nêu ra 6 việc cấp bách cần phải làm ngay:

Một là: Phát động ngay một chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói, mở một cuộc lạc quyên để giúp đỡ người nghèo.

Hai là: Phát động phong trào chống nạn mù chữ.

Ba là: Tổ chức cuộc Tổng tuyển cử vói chế độ phổ thông đầu phiếu, thục hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân.

Bốn là: Thực hiện cần kiệm, liêm chính bài trừ thói hư tật xấu do chê độ cũ để lại.

Năm là: Bỏ ngay 3 thứ thuế: thuế thân, thuê chợ và thuế đò, cấm hút thuốc phiện.

Sáu lằ: Tuyên bô tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh hai việc quan trọng nhất là cứu đói ở Bắc và đánh giặc ở Nam. Đó là hai nhiệm vụ trước mắt, nhưng cũng là hai nhiệm vụ chiến lược. Trên cơ sở phương hướng đó, ngày 25 tháng 11 năm 1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”.

Sau khi phân tích những thay đổi căn bản vê tình hình quốc tế và trong nước sau đại chiến thế giới thứ hai, Trung ương Đảng nêu rõ nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của nhân dân ta lúc này là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân.

Thực hiện lời kêu gọi “Chống giặc đói” của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền cách mạng trong huyện và Mặt trận Việt Minh Thọ Xuân đã khẩn trương thành lập các ban cứu đói, tổ chức quyên góp thóc gạo, tiền bạc giúp đỡ những người bị đói và phát động phong trào vận động quyên góp ủng hộ nhân dân bị đói, tổ chức vay lúa của nhà giàu, phát động phong trào “Hũ gạo tiết kiệm”.

Chính quyền cách mạng, bộ đội địa phương huyện và các đoàn thể cứu quốc: Nông dân, Phụ nữ, Mặt trận cử cán bộ bám sát cơ sở để tuyên truyền vận động nhân dân giúp nhau trong lúc khó khăn. Với tinh thần “Lá lành đùm lá rách”, nhiều gia đình còn chưa đủ ăn vẫn thường xuyên tiết kiệm gạo giúp đỡ những gia đình khó khăn hơn.

Chỉ trọng thời gian ngắn, toàn huyện huy động được 20.000 kg gạo và hàng vạn đồng bạc để cứu trợ kịp thời những gia đình nghèo đói tại địa phương, chu cấp cho dân quân tự vệ trong những ngày luyện tập, góp phần ủng hộ huyện Quảng Xương, Tĩnh Gia, Hậu Lộc....

Đến cuối năm 1945, nhân dân Thọ Xuân cùng nhân dân trong tỉnh quyên góp hàng trăm tấn lương thục cứu đói cho nhân dân trong tỉnh và dành một phần giúp đỡ nhân dân các tĩnh Hưng Yên và Bắc Ninh.

Phong trào vận động tiết kiệm lương thục ủng hộ người bị đói đạt két qủa tốt, nhưng chỉ là biện pháp túc thời. Vấn đề là phải tổ chúc sản xuất làm ra nhiều của cải vật chất xã hội - Đó mới là biện pháp có ý nghĩa chiến lược.

Thục hiện Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Tỉnh ủy Thanh Hóa về tăng gia sản xuất, chính quyền cách mạng huyện Thọ Xuân đã phát động toàn dân trong huyện đẩy mạnh phong trào thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm trong chi dùng. Phong trào thi đua diễn ra sôi nổi rộng khắp với khẩu hiệu “Tấc đất, tấc vàng”, nhân dân trong huyện: người người trồng rau muống, nhà nhà trồng hoa màu ngăn ngày cứu đói. Công tác khai hoang, phục hóa đã biến nhũng cánh đông, đôi, bãi hoang hóa thành nhũng bãi sắn, nương ngô xanh tốt.

Cùng với cuộc vận động tăng gia sản xuất, chính quyền cách mạng khẩn trương tiến hành chia lại ruộng công và đất vắng chủ cho nông dân nghèo sản xuất.

Cuộc vận động cứu đói và phong trào tăng gia sản xuất cứu đói đã đẩy lùi nạn đói, từng bước ổn định đời sống nhân dân.

Tuy nhiên, ở một số nơi việc việc chia lại công điền, công thổ còn có biêu hiện lệch lạc vì chính quyền cách mạng chưa quan tâm đúng múc đến quyền lợi của quần chúng lao động, hoặc để bọn địa chủ phản động lũng đoạn. Có địa phương chưa nắm vững chủ trương, làm qúa đà. Những thiếu sót đã được phát hiện và kịp thời khắc phục, phong trào thi đua của quần chúng tiếp tục phát triển

Thực hiện Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Chống nạn thất học” - “Diệt giặc dốt”, huyện Thọ Xuân đã thành lập Ban Bình dân học vụ từ huyện đến xã, với phương châm: người biết chữ dạy người chưa biết chữ, phong trào diệt giặc dôt được phát động rộng rãi thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Người người đi học, cả nhà đi học. Con biết chữ dạy cha mẹ, anh biết chữ dạy cho các em. Học ban ngày, học buổi trưa, buổi tói, khắp thôn xóm ở đâu cũng tập đọc, tập viết. Khẩu hiệu “Đi học là yêu nước” đã trở thành phong trào cách mạng sinh động ở tất cả các thôn, xóm. Nhân dân tự nguyện cho mượn nhà, bàn ghế, cánh cửa, ván gỗ làm bảng, làm bàn, làm lớp học, giúp đỡ nhau giấy bút mực, ban ngày lao động sản xuất, buổi tối, buổi trưa tranh thủ học tập.

Cùng với việc tuyên truyền, vận động, thuyết phục để mọi người tự nguyện, tự giác tham gia học tập, chính quyền và Ban Bình dân học vụ các địa phương đã sáng tạo ra nhiều biện pháp huy động mọi người đi học như: đón đường hỏi chữ, dựng 2 cổng: “vinh quang” và “cổng mù” (ai biết chữ cho đi cổng vinh quang, ai chưa biết chữ đi cổng mù). Vì thê ai ai cũng chăm lo học tập.

Với sự quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy, sự tận tụy, nhiệt tình của chính quyền và Ban Bình dân học vụ các cấp chỉ trong thời gian ngan nhiều người trong huyện đã biết đọc, biết viết. Tính đến cuối năm 1946, toàn huyện Thọ Xuân đã tổ chúc hàng trăm lớp học, thu hút hàng ngàn người đi học. Nhiều cán bộ Bình dân học vụ đã lặn lội với phong trào như các ông: Trịnh Quang Tân, Lê Đãng Các, Hoàng Hải, Lê Huy Hớn...

Bên cạnh các lớp Bình dân học vụ, hệ thống trường Phổ thông Tiểu học được thành lập thu hút con em nhân dân lao động đến trường. Trường Tiểu học thị trấn Thọ Xuân, Bái Thượng, Quảng Thi được xây dựng hoàn thiện từ lóp nhất đến lóp năm.

Có thể khẳng định: chế độ mới đã tổ chức cho toàn dân học tập nâng cao dân trí xã hội. Phong ưào Xóa nạn mù chữ có ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc.

Cùng vói diệt giặc đói, giặc dốt, chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh huyện đã chăm lo đến việc bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Măc dù cơ sở vật chất và trang bị gần như chưa có gì, nhưng việc giải quyết dịch bệnh xã hội, cứu chữa những người mắc bệnh trong và sau nạn đói được tiến hành khẩn trương. Vào giữa năm 1946 Ty Y tế Thanh Hóa đã kịp thời mở lớp đào tạo cấp tốc đội ngũ y tá, nữ hộ sinh cho các địa phương. Hàng chục cán bộ Y tế huyện, xã gửi đi học đã kịp thời trở vê địa phương phục vụ nhân dân. Các cuộc vận động “ăn chín uống sôi”, “nằm màn”, “đào giêng”, “vệ sinh cấ nhân”, “vệ sinh thôn xóm” đã góp phần đẩy lùi dịch bệnh, nâng cao sức khỏe cho nhân dân.

Các cuộc vận động chống mê tín dị đoan, xóa bỏ các tập tục lạc hậu được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - xã hội đã tạo ra những yếu tố ban đầu hình thành nên văn hóa của chế độ dân chủ nhân dân.

Thục hiện Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức “Tuần lễ vàng, bạc, đồng”, xây dựng “Quỹ độc lập" dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, huyện Thọ Xuân đã nhanh chóng lập Ban vận động tư huyện xuống cơ sở. Các Ban vận động đã tuyên truyền giải thích cho toàn dân hiểu rõ ý nghĩa của cuộc vận động. Cán bộ Mặt trận đã đến từng gia đình để giải thích và tổ chúc quyên góp. Quyết giữ vững nền độc lập non trẻ, nhân dân Thọ Xuân đã hăng hái tham gia cuộc vận động. Nhiều nhà giàu hảo tâm tự nguyện đóng hoa tai, khuyên vàng, nhẫn hoặc dây chuyền vàng, bạc. Nhiều gia đình còn góp cả đồ gia dụng bàng đồng như nồi đồng, lư hương, mâm đông, ấm đồng... và đồ té lễ bằng đồng. Sáu mẹ con bà Tuần Vực (Tây Hồ) ủng hộ 6 đôi hoa tai vàng.

Sau thời gian ngắn, phát động, toàn huyện đã quyên góp được gần 400 đồng cân vàng, hàng chục kg bạc và 20.000kg đòng cùng 23,5 triệu đồng. Cuộc vận động xây dựng qũy độc lập thành công biêu hiện tinh thần yêu nước thiết tha và quyết tâm giữ gìn độc lập tự do của nhân dân Thọ Xuân.

Đảm bảo cho sự nghiệp đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, diệt giặc đói, giặc dốt thắng lợi, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, đầu tháng 10 nãm 1945, tại trụ sở Việt Minh huyện, hội nghị thành lập Đảng bộ tiến hành.

Hội nghị đã tiến hành kiểm điểm tình hình trong huyện từ sau ngày khởi nghĩa và đề ra những chủ trương công tác mới nhằm tăng cường xây dựng khối đoàn kết toàn dân; xây dựng củng cố chính quyền, tập trung chống giặc đói, giặc dốt và sẵn sàng chống giặc ngoại xâm, phát triển đảng viên và các chi bộ cơ sở và phân công càn bộ phụ trách các mặt công tác quan trọng.

Hội nghị đã tiến hành bầu Huyện ủy lâm thời gồm 5 đồng chí: Hoàng Sỹ Oánh, Lê Xuân Tại, Hồ Sĩ Nhân, Dương Vãn Du và Hoàng Văn Ngữ. Đồng chí Dương Vãn Du (tức Du lùn) được bầu làm Bí thư.

Việc thành lập Đảng bộ và Huyện ủy lâm thời dựa trên cơ sở các chi bộ cộng sản thời kỳ 1930-1945 đã tạo ra sự lãnh đạo tập trung thống nhất và trục tiếp của Đảng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển của phong trào cách mạng trên địa bàn Thọ Xuân.

Theo chủ trương của Trung ương Đảng, Huyện ủy Thọ Xuân thành lập “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác” ở cấp huyện và xã... truyền bá lý luận cách mạng cho quần chúng tiên tiến cảm tỉnh với Đảng, trên cơ sở đó lụa chọn những người ưu tú kếp nạp vào Đảng. Từ khi Huyện ủy lâm thời được thành lập, công tác xây dựng cơ sở Đảng trên địa bàn toàn huyện được đẩy mạnh và đạt kết quả mới. Đến cuối năm 1945, ở nhiều xã, thôn trong huyện đã có cơ sở Đảng, hoặc đảng viên.

Qua hoạt động thực tiễn, chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng từng bước được củng cố, dần dần khắc phục được những yếu kém, lệch lạc, đội ngũ cán bộ, ngày càng trưởng thành.

Để phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động và hiệu lực hoạt động của chính quyền dân chủ nhân dân, Huyện ủy Thọ Xuân đã chỉ đạo kiện toàn chính quyền từ huyện xuống xã, theo Sắc lênh số 63 của Chính phủ.

Cuối 1945, bỏ đơn vị hành chính cấp tổng, thành lập đơn vị hành chính cấp xã. ủy ban hành chính cấp xã bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên làm nhiệm vụ của một cấp chính quyền cơ sở có chức năng tổ chức, quản lý, điêu hành xã hội trên địa bàn xã và phong trào cách mạng của quần chúng, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ.

Cùng với củng cố chính quyên, các đoàn thể cứu quốc từ huyện đến xã cũng được củng cố, mở rộng. Các đoàn thê cứu quốc xây dựng chương trình hoạt động cụ thể phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế ở địa phương và từng lĩnh vực.

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, đồng bào chiến sĩ Nam Bộ tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủỳ Thọ Xuân đã tổ chức những cùộc mít tinh quần chúng ủng hộ đông bào Nam Bộ, phản đôi thực dân Pháp xâm lược. Cuối tháng 10 năm 1945, huyện đã tổ chức lễ tiến đưa đoàn quân “Nam tiến” đầu tiên gồm 15 thanh niên yêu nước lên đường cùng đồng bào Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và Khu ủy 4, đáp ứng yêu cầu mói của cách mạng, Huyện ủy Thọ Xuân đã chỉ đạo chính quyên cách mạng và cơ quan quân sự các cấp tô chúc các lóp huấn luyện quân sự ngắn ngày cho đội ngũ cán bộ, dân quân du kích trong toàn huyện.

Tháng 10 và tháng 11 năm 1945, tại làng Hội Hiền (Tây Hồ) đã mở 2 lớp huấn luyện quân sự ngắn ngày, mỗi lóp có gần 100 cán bộ tiểu đội đến đại đội dân quân. Trong đó có một số cán bộ quân sự của huyện Thiệu Hóa và Vĩnh Lộc gửi đến học tập.

Đầu năm 1946, tại đồn điền Mã Hùm, Huyện ủy chỉ đạo mở lớp huấn luyện võ dân tộc, đến tháng 5 năm 1946, tại đình làng Qủa Hạ (Thọ Lộc) lại mở lớp huấn luyện quân sự cho cán bộ tiểu đội, trung đội và đại đội dân quân toàn huyện.

Các khóa huấn luyện của huyện do đông chí Hoàng Văn Ngữ, ủy viên quân sự trong ủy ban kháng chiến hành chính huyện phụ trách chung, ông Cao Thanh Tùng giáo viên võ thuật, ông Đội Huân giáo viên quân sự. Các lớp huấn luyện đã trang bị cho học viên kiến thức cơ bản về chính trị và quân sự làm nòng cốt xây dựng và huấn luyện lực lượng dân quân du kích ở các địa phương.

Từ tháng 12 năm 1945, Huyện ủy và ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện và các đoàn thể quần chúng từ huyện đến xã đã tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, làm cho mọi người dân hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ công dân, thể lệ bầu cử Quốc hội. Đây là sự kiện chính trị trọng đại đối với một dân tộc vừa thoát khỏi xích xiềng nô lệ của chế độ thực dân phong kiến.

Trước ngày bầu cử, tất cả câc xã trong huyện tổ chức mít tinh ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh. Đại biểu cử tri trong khu vực đã tập trung tại trụ sở huyện nghe ông Hoàng Sĩ Oánh thay mặt đoàn ứng cử viên nói chuyện và đề đạt nguyện vọng của nhân dân.

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội khóa I được tiến hành như một ngày hội lớn của dân tộc. Các điểm bầu cử được trang trí cờ, hoa, khẩu hiệu trang trọng. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân lao động được quyền tự do lựa chọn những người xứng đáng bầu vào cơ quan quyền lực cao nhất. Từ sớm cử tri toàn huyện đã tham gia bầu cử. Với ý thúc “chọn mặt gửi vàng”, lựa chọn những đại diện xứng đáng vào Quốc hội khóa I.

Tại Thọ Xuân, bọn phản động Quốc dân Đảng, bọn đội lốt Đảng Dân chủ tuyên truyền, xuyên tạc và quấy rối, nhung chính quyền cách mạng đã kịp thời ngăn chặn nên ngày bầu cử vẫn diễn ra thuận lợi, đạt kết qủa tốt Ông Hoàng Sĩ Oánh ứng cử viên Thọ Xuân đã trúng cử vào Quốc hội khóa I với số phiếu cao.

Thực hiện quyết định của Quốc hội và Chính phủ, thắng 4 năm 1946, cùng với các địa phương trong tỉnh huyện Thọ Xuân tiến hành bầu cử HĐND 2 cấp tỉnh và xã lập ra ủy ban hành chính các cấp. Ông Hoàng Sĩ Oánh được cử làm Chủ tịch ủy ban hành chính huyện.

Cùng với xây dựng củng cố hệ thống chính trị, vào cuối năm 1946 đầu năm 1947, sự đoàn kết thống nhất nội bộ lãnh đạo huyện không cao xuất phát từ việc làm kinh tài hoạt động. Đe giải quyết tình hình trên, Tỉnh ủy đã đứng ra triệu tập 2 cuộc hội nghị bất thường toàn Đảng bộ.

Hội nghị thứ nhất vào cuối năm 1946, tại đình làng Nam Thượng (Tây Hồ), có đồng chí Bí thư Khu ủy 4 và một đồng chí trong Thường vụ Tỉnh ủy tham dự.

Hội nghị thứ hai vào đầu năm 1947, tại đình làng Canh Hoạch (Xuân Lai), có đồng chí Hoàng Quốc Việt Thường vụ Trung ương Đảng và đồng chí Bùi Đạt Bí thư Tỉnh ủy tham dự.

Hai cuộc hội nghị bất thường toàn Đảng bộ đã nghiêm túc kiểm điểm phê bình phân định rõ đúng sai, rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, củng cô đoàn kết thông nhất trong nội bộ lãnh đạo và toàn Đảng bộ tạo ra điều kiện cơ bản thúc đẩy sự nghiệp cách mạng phát triển.

Kiên quyết chông thù trong, giặc ngoài, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám, Tỉnh ủy lãnh đạo nhân dân trong tỉnh vừa kiên quyết đấu tranh với những hành động ngang ngược của quân Tưởng, vừa mềm dẻo buộc quân Tưởng và bè lũ tay sai thừa nhận chính quyền cách mạng, đồng thời đề ra những biện pháp sắc bén, khoét sâu vào mâu thuẫn nội bộ của địch, hạn chế sự phá hoại của chúng và vận động nhân dân không hợp tác với bọn Tàu Tưởng. Đối với bọn Quốc dân Đảng tay sai, Tỉnh ủy cương quyết tổ chức lực lượng trừng trị.

Được quân Tưởng che chở, bọn phản động ở ấp Di Linh đã trắng trợn tuyên truyền, xuyên tạc đường lối của Đảng và Chính phủ, lôi kéo quần chúng xây dựng lực lượng, chuẩn bị vũ khí, tích trữ lương thực, tập luyện quân sự hòng lật đổ chính quyền cách mạng.

Tỉnh ủy đã tổ chức lực lượng theo dõi quan hệ của địch ở ấp Di Linh với bọn phản động ở khách sạn Tứ Dân, Bồng Lai và cho trinh sát vào ấp Di Linh xây dựng cơ sở nội ứng và bắt một sô tên để khai thác tình hình.

Tháng 12 năm 1945, lực lượng tự vệ của 2 huyện Thọ Xuân, Nông cống kết hợp với cảnh sát xung phong tiến hành bao vây cắt đứt mọi liên hệ của bọn Quóc dân Đảng ở ấp Di Linh với bên ngoài và sử dụng các biện pháp quân sự uy hiếp địch.

Lục lượng tự vệ Thọ Xuân được chia thành nhiêu bộ phận thực hiện những nhiệm vụ khác nhau. Tự vệ làng Thạc (Xuân Lai) gồm 1 trung đội do cấc đồng chí Hà Như Trúc, Hà Duyên Ương chỉ huy đã tiến hành bao vây không chế các bốt gác của địch. Lục lượng tự vệ và du kích tập trung của huyện gồm 3 trung đội, Ông Lê Xuân Tại phụ trách 1 trung đội chốt giữ khu vực Nưa, ông Hoàng Văn Ngữ chỉ huy 1 trung đội chốt giữ ngã tư Giắt, ông Đội Huân chỉ huy 1 trung đội chốt chặn ngã ba đi Như Xuân.

Thường ngày lực lượng vũ trang cách mạng sử dụng 2 ô tô (chiến lợi phẩm thu được của Nhật) chở các chiến sĩ cảnh sát xung phong, quần áo, súng đạn uy nghiêm chạy nhiều vòng quanh ấp uy hiếp địch.

Bị quân ta khép chặt vòng vây, lương thục cạn kiệt, lại bị lục lượng nội ứng của ta thường xuyên kích động, chia rẽ. Trần Văn Bân - tên chĩ huy đầu sỏ dùng ngựa định chạy trôn nhưng đã gặp lục lượng tự vệ chốt chặn tại Giắt và bị đồng chí Hoàng Văn Ngữ chém ngựa trọng thương, tên Bân bị bắt. Lực lượng địch trong ấp Di Linh như rắn mất đầu đã đầu hàng cách mạng vô điêu kiện. Lực lượng vũ trang cách mạng thu 67 súng trường, 2 trung liên, 2 tiểu liên và nhiều quân trang, quân dụng.

Cuối năm 1945, Thọ Xuân đã được tỉnh giao nhiệm vụ quản thúc, nuôi giữ một số đối tượng chính trị như: Bảo Đại (Vĩnh Thụy), Vĩnh cẩn (em ruột Vĩnh Thụy), Lý Lệ Hà, tên lái xe cho Bảo Đại, Phan Văn Giáo và con trai Phan Văn Giáo là Phan Văn Tiến, một số yếu nhân Quốc dân Đảng và một số lính Nhật, Pháp. Chính quyền đã chỉ đạo lục lượng vũ trang cách mạng quản thúc bọn này nghiêm ngặt và đối xử đúng chính sách.

Đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm đoàn kết tất cả các đảng phái và các tầng lớp nhân dân. Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam được thành lập vào ngày 29 tháng 5 năm 1946, Mặt trận Việt Minh là thành viên của Hội Liên Việt. Hệ thống tổ chức của Hội Liên Việt được thành lập từ tỉnh xuống xã. Nhiêu thẫn hào, nhân mỹ yêu nước được giao trọng trách chủ chốt.

Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Lâm thời, tháng 6 năm 1946, Hôi Liên hiệp Quốc dân huyện Thọ Xuân được thành lập, cũng trong tháng 6 nãm 1946, sổ hội viên Liên Việt huyện đã lên lới 42.327 người. Từ khỉ ra đời, Hội đã thu hút, động viên các tầng lớp nhân d&n tích cực tham gia công cuộc cách mạng do Đảng tố chứcc lãnh đạo.

*

* *

“Mười sáu tháng” - khoảng thời gian rát ngắn năm trong lịch sử dân tộc và lịch sử quê hương, nhưng Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân đã cùng với nhân dân cả tĩnh, cả nước làm nôn nhũng sự kiện lịch sử hào hùng oanh liệt và kỳ diệu.

Buổi đầu chế độ dân chủ nhân dân đứng trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc" - thù trong, giặc ngoài vây hãm, giặc đối, giặc dốt hoành hành, sản xuất đình đốn, ngân quỹ quốc gia trổng rống.

Nhưng bằng đường lối chiến lược, sàch lược khôn khéo, linh hoạt, cương quyết, táo bạo, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã tổ chức lãnh đạo dân tộc Việt Nam, nhân dân Thọ Xuân phá thế bao vây của quân thù, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám, chuẩn bị điều kiện kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Sự tồn tại phát triển của chế độ dân chủ nhân dân trong 16 tháng cam go thách thức đã khẳng định: dân tộc Việt Nam, nhân dân Thọ Xuân nhất quyết theo Đảng xây dựng bảo vệ xã hội mới.

Video liên quan

Chủ đề