Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm tối đa là bao nhiêu người

Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm tối đa là bao nhiêu người

Thành phần hội đồng xét xử...Thành phần hội đồng xét xử vụ việc dân sự mới nhất theo Bộ luật tố tụng dân sự...hội đồng xét xử phúc thẩm

Kiến thức cho bạn

Thành phần hội đồng xét xử vụ việc dân sự mới nhất theo Bộ luật tố tụng dân sự 

Kiến thức của Luật sư

Căn cứ pháp lý

  • Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015

Nội dung tư vấn

Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đang có hiệu lực thi hành quy định về thành phần hội đồng xét xử giải quyết vụ việc dân sự (gồm vụ án dân sự và việc dân sự) sẽ bao gồm như sau:

1. Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

Điều 63 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự như sau:

  • Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, trừ trường hợp quy định tại Điều 65 (Điều 65: Xét xử vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn) của Bộ luật này. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân.
  • Đối với vụ án có đương sự là người chưa thành niên thì phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác tại Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em.
  • Đối với vụ án lao động thì phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác trong tổ chức đại diện tập thể lao động hoặc người có kiến thức về pháp luật lao động.

2. Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự

Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự tại điều 64 gồm:

  • Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự gồm ba Thẩm phán, trừ trường hợp quy định tại Điều 65 của Bộ luật này (Điều 65: Xét xử vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn)

Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm tối đa là bao nhiêu người

Thành phần hội đồng xét xử

3. Thành phần hội đồng xét xử vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn

Gồm:

     “Điều 65. Xét xử vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn

     Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành.”

4. Thành phần hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự 

Điều 66 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

“Điều 66. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự

     1. Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán hoặc toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao.

     2. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán hoặc toàn thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.”

5. Thành phần giải quyết việc dân sự theo quy định

Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về thành phần giải quyết việc dân sự gồm:

  • Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại khoản 5 Điều 27, khoản 9 Điều 29, khoản 4 và khoản 5 Điều 31, khoản 2, 3 và 4 Điều 33 của Bộ luật này hoặc việc xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định giải quyết việc dân sự do tập thể gồm ba Thẩm phán giải quyết.
  • Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này do một Thẩm phán giải quyết.
  • Thành phần giải quyết yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 2 Điều 31 của Bộ luật này được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.

Bài viết tham khảo:

Trên đây là ý kiến tư vấn pháp luật của chúng tôi về Nhiệm vụ, quyền hạn của Thành phần hội đồng xét xử vụ việc dân sự mới nhất theo Bộ luật tố tụng dân sự . Nếu còn bất cứ vướng mắc nào, bạn vui lòng liên hệ tới Tổng đài tư vấn luật dân sự miễn phí 24/7: 19006500 để gặp trực tiếp luật sư tư vấn và  để  yêu cầu  cung cấp dịch vụ. Hoặc Gửi nội dung tư vấn qua email: . Chúng tôi rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của bạn. Chúng tôi luôn mong nhận được ý kiến đóng góp của mọi người để chúng tôi ngày càng trở lên chuyên nghiệp hơn.

     Xin chân thành cảm ơn sự đồng hành của mọi người.

     Trân trọng.

  Liên kết ngoài tham khảo:

Hội đồng xét xử phúc thẩm là gì? Quyền hạn của hội đồng xét xử phúc thẩm? Quy định về xét xử ở cấp phúc thẩm? Thủ tục nghị án trong phiên tòa phúc thẩm dân sự? Đặc trưng của xét xử phúc thẩm dân sự?

Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568

1. Hội đồng xét xử phúc thẩm là gì?

Xét xử phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, trong đó Tòa án cấp trên thực tiếp xét xử lại những bản án hoặc xét lại các quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Và Hội đồng xét xử phúc thẩm là chủ thể có vai trò trực tiếp thực hiện việc xét xử tại Tòa án cấp phúc thẩm. Hội đồng xét xử là “Hội đồng bao gồm các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân do Tòa án có thẩm quyền lập ra để nhân danh nhà nước trực tiếp xét xử tại phiên tòa các vụ án và ra các bản án hoặc quyết định đối với các vụ án”.

Những vấn đề thành phần, chức năng, thẩm quyền của Hội đồng xét xử đều được quy định cụ thể trong pháp luật TTHS. Hội đồng xét xử không phải là Hội đồng có các thành viên cố định, chỉ những thẩm phán và hội thẩm nhân dân được phân công mới tập hợp lại thành Hội đồng xét xử trong mỗi vụ án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc.

Quyền hạn của hội đồng xét xử phúc thẩm trong thủ tố tụng dân sự. Xét xử phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, trong đó Tòa án cấp trên thực tiếp xét xử lại những bản án hoặc xét lại các quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Và Hội đồng xét xử phúc thẩm là chủ thể có vai trò trực tiếp thực hiện việc xét xử tại Tòa án cấp phúc thẩm.

Hội đồng xét xử phúc thẩm là Hội đồng bao gồm các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân do Tòa án có thẩm quyền lập ra để nhân danh nhà nước trực tiếp xét xử tại phiên tòa phúc thẩm.

2. Quyền hạn của hội đồng xét xử phúc thẩm:

Theo quy định tại Điều 275 Bộ Luật tố tụng dân sư, hội đồng xét xử phúc thẩm có các quyền hạn sau đây:

a. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Hội đồng phúc thẩm bác kháng cáo hoặc kháng nghị trong trường hợp kháng cáo kháng nghị không có căn cứ và tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng.

b. Sửa bản án sơ thẩm.

Nếu qua việc xét xử phúc thẩm, hội đồng xét xử phúc thẩm xét xử thấy tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng pháp luật, thì hội đồng xét xử có thể sửa 1 phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm. Theo Điều 276 Bộ luật tố tụng dân sự, hội đồng xét xử phúc thẩm sửa 1 phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu tòa án cấp sơ thẩm quyết định không đúng pháp luật trong những trường hợp sau đây:

–  Việc chứng minh và thu thập chứng cứ đã được thực hiện đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật;

–   Việc chứng minh và thu thập chứng cứ chưa thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại phiên tòa phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ.

c. Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án dân sự.

Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ thực hiện đầy đủ quyền hạn này trong một số trường hợp sau đây:

–  Việc chứng minh và thu thập chứng cứ không theo đúng quy định tại chương VIII Bộ luật tố tụng dân sự  hoặc chưa thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thực hiện bổ sung được;

Xem thêm: Thẩm quyền xét xử của Tòa án theo Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015

–  Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm không đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự  hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng Điều 277 Bộ luật tố tụng dân sự .

d. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

Theo quy định tại Điều 278 Bộ luật tố tụng dân sự , hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc 1 trong các trường hợp quy định tại Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự .

e. Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự khi có căn cứ tại Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự.

Theo quy định tại các Điều 259, 265 Bộ luật tố tụng dân sự , khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự  thì hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự.

f. Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự khi có căn cứ tại Điều 260 Bộ luật tố tụng dân sự.

Theo quy định tại Điều 260 Bộ luật tố tụng dân sự , khi có một trong những căn cứ quy định tại Điều 260 Bộ luật tố tụng dân sự thì hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền đình chỉ xét xử vụ án dân sự.

3. Quy định về xét xử ở cấp phúc thẩm:

Dễ thấy, không phải tất cả các vụ án xét xử qua cấp sơ thẩm đều bị phúc thẩm, chỉ những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án mới bị xét xử phúc thẩm. Như vậy cơ sở pháp lí làm phát sinh xét xử phúc thẩm là dựa trên kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm dân sự  khi các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị là các bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Phải chăng quy định mọi bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị đã làm giảm hiệu quả của việc xét xử cũng như hao tổn về thời gian, sức lực, tốn kém các chi phí.    

Xem thêm: Vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng dân sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 256 Bộ luật tố tụng dân sự: “Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết”.

Tuy nhiên quy định không rõ ràng, cụ thể như thế nào là không vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu dẫn đến khó khăn cho các tòa án khi áp dụng áp dụng quy định này.    

Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm là Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao cụ thể quy định tại Điều 30 Luật tổ chức Tòa án nhân dân.

Theo quy định tại Điểm a, Điều 24 Luật tổ chức TAND:

“Các Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng”.

 Về thủ tục xét xử phúc thẩm:   

Phạm vi xét xử phúc thẩm : Điều 263 Bộ luật tố tụng dân sự quy định:

“Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị”.

Xem thêm: Sự khác nhau giữa giám đốc thẩm và tái thẩm trong thủ tục tố tụng dân sự

Điều này được hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP thì để đảm bảo quyền lợi của đương sự có kháng cáo và cho cả đương sự không có kháng cáo hay không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn có thể xem xét phần khác của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo quy định  Điều 53 Bộ luật tố tụng dân sự quy định thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gôm 3 Thẩm phán trong đó 1 Thẩm phán giữ vai trò làm chủ tọa phúc thẩm. Không có sự tham gia của hội thẩm nhân dân. Điều này là hợp lí vì mục đích của xét xử phúc thẩm thực chất là đánh giá lại kết quả hoạt động nhận thức vụ án dân sự của Hội đồng xét xử sơ thẩm nên Hội đồng xét xử phúc thẩm nên được cơ cấu chú trọng chuyên môn.

Những người tham gia phiên tòa Phúc thẩm dân sự được quy định tại Điều 264 Bộ luật tố tụng dân sự

“1. Người kháng cáo, đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải được triệu tập tham gia phiên tòa. Tòa án có thể triệu tập thêm những người tham gia tố tụng khác nếu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị.

2. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa phúc thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc đã tham gia phiên tòa sơ thẩm”.

Tuy nhiên, để đề cao chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong TTDS nên Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa phúc thầm”.

Thủ tục tiến hành PTPTDS:

Để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử, thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm được quy định giống phiên tòa sơ thẩm gồm: thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án.    

Xem thêm: Thời hạn giải quyết vụ án từ khi khởi tố đến khi xét xử sơ thẩm

4. Thủ tục nghị án trong phiên tòa phúc thẩm dân sự:

Nghị án là một bước vô cùng quan trọng trong quá trình xét xử. nghị án là việc hội đồng xét xử xem xét, quyết định giải quyết vụ án trên cơ sở kết quả của việc hỏi tranh luận tại phiên tòa. Theo Điều 236 Bộ luật tố tụng dân sự thì:

“Sau khi kết thúc phần tranh luận, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án và tuyên án”.

So với các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trước đây về thủ tục nghị án, thì Điều 236 Bộ luật tố tụng dân sự quy định khá đầy đủ và chi tiết về nguyên tắc, trình tự, căn cứ và nội dung nghị án.

Thứ nhất, về nguyên tắc và trình tự nghị án: Khoản 2 Điều 236 Bộ luật tố tụng dân sự quy định:

“Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.”

Điều đó có nghĩa là, việc nghị án là bí mật, trong quá trình nghị án, không được ai vào phòng nghị án, đảm bảo nguyên tắc xét xử độc lập và tuân theo pháp luật, đảm bảo cho các thành viên Hội đồng xét xử khi nghị án được tập trung, tránh sự chi phối tác động của các cá nhân, tổ chức khác đối với việc ra phán quyết. Khi nghị án, các thành viên trong Hội đồng xét xử độc lập, có quyền ngang nhau trong việc thảo luận và biểu quyết giải quyết vụ án. Quyết định giải quyết vụ án được thông qua theo đa số các ý kiến.

Thứ hai, về căn cứ nghị án được quy định tại Khoản 3 Điều 236 Bộ luật tố tụng dân sự, theo đó

“Khi nghị án các thành viên Hội đồng xét xử chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả hỏi tại phiên tòa và xem xét đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên”.

Xem thêm: Tố tụng dân sự là gì? Phân biệt giữa tố tụng dân sự và tố tụng hình sự?

Như vậy, có thể hiểu cơ sở của nghị án dựa trên kết quả của hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ của thủ tục hỏi và tranh luận.

Thứ ba, về nội dung nghị án: Khoản 2 Điều 236 có quy định: “Khi nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án.” Đối với phiên tòa xét xử phúc thẩm thì các thành viên Hội đồng xét xử phải giải quyết các vấn đề trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị và những vấn đề có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị Khoản 4 Điều 236 Bộ luật tố tụng dân sự cũng quy định:

“Nghị án phải có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được các thành viên của Hội đồng xét xử ký tên tại phòng nghị án trước khi quyên án.”

Thứ tư, về thời gian nghị án, khoản 5 Điều  236 có quy định;

“Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án, nhưng không quá 5 ngày làm việc kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa.”

Đây là điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự so với các quy định trước đây.

5. Đặc trưng của xét xử phúc thẩm dân sự:

Theo quy định tại Điều 257 Bộ luật Tố tụng dân sự thì trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, tòa án phải thông báo bằng văn bản cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp về việc tòa án đã thụ lý vụ án. Quy định này tạo điều kiện cho đương sự biết được vụ án đã được thụ lý theo trình tự phúc thẩm và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm.

Bởi lẽ, theo quy định cũ thì Tòa án cấp phúc thẩm không phải thông báo thụ lý vụ án cho đương sự và Viện kiểm sát dẫn đến việc các đương sự nhất là đương sự kháng cáo không biết được vụ án của mình đã được thụ lý hay chưa, chỉ khi có giấy triệu tập của Tòa án cấp phúc thẩm thì đương sự mới biết; đối với một số vụ án mà chứng cứ đã đầy đủ, thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án thì khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và giao cho đương sự thì đương sự mới biết vụ án được giải quyết tại cấp phúc thẩm, nhiều đương sự đã lấy lý do chưa chuẩn bị kịp tài liệu, chứng cứ và xin hoãn phiên tòa nhiều lần, gây khó khăn trong việc xét xử, giải quyết vụ án kịp thời.

Xem thêm: Quy định của pháp luật về người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự

Xét xử phúc thẩm vụ án dân sự nói chung và lao động nói riêng có những đặc điểm sau:

– Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ kiểm tra việc tuân theo pháp luật trong khi xét xử của tòa án cấp dưới mà còn kiểm tra tính đúng đắn, tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm sẽ xác định rõ nội dung tranh chấp, sự việc liên quan, kiểm tra, xác minh chứng cứ có đầy đủ, chính xác không, thẩm tra xem pháp luật liên quan được áp dụng có đúng không?

– Tòa án cấp phúc thẩm không bị ràng buộc, hạn chế bởi những nội dung kháng cáo hoặc kháng nghị mà có thể kiểm tra những vấn đề khác có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị đối với tất cả các đương sự, kể cả những người không kháng cáo và không bị kháng nghị.

– Những người tham gia tố tụng có quyền, nghĩa vụ tương tự như ở tòa án cấp sơ thẩm. Để chứng minh cho yêu cầu của mình, người kháng cáo, kháng nghị có quyền xuất trình những tài liệu, chứng cứ mới chưa được xem xét tại tòa án cấp sơ thẩm.

Việc thu thập chứng cứ tại cấp phúc thẩm còn gặp nhiều vướng mắc. Phạm vi xét xử phúc thẩm chỉ xem xét các vấn đề có kháng cáo, kháng nghị và vấn đề liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào các chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập được để giải quyết vụ án mà không chú trọng đến việc xác minh, thu thập thêm chứng cứ; nhận thức như vậy là cứng nhắc. Tòa án cấp phúc thẩm khi tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ thường tiến hành theo hai cách:

Thứ nhất, trước khi mở phiên tòa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thực hiện việc xác minh, thu thập chứng cứ (xác minh, thẩm định tại chỗ, lấy lời khai người làm chứng hoặc xác minh ý kiến của cơ quan chuyên môn…)

Thứ hai, tại phiên tòa, trên cơ sở trình bày, tranh luận tại phiên tòa nếu thấy cần thiết phải xác minh thu thập, chứng cứ thì hoãn phiên tòa để xác minh, thu thập chứng cứ.