Vị đại tướng thứ hai trong quân đội nhân dân việt nam là ai?

Vị tướng binh nghiệp ấy - “Người anh Cả” của Quân đội Nhân dân Việt Nam, dù trải qua biết bao trận chiến lớn nhỏ, dù đã quá quen với thương vong nhưng lại là người luôn cân nhắc để làm sao từng chiến sĩ của mình ít phải đổ máu nhất. Trí - Dũng - Nhân của ông chính là ở đó. Đại tướng thường tâm sự với đội ngũ cán bộ thuộc quyền rằng: Chiến tranh không phải là vấn đề thể diện, không được phiêu lưu, mạo hiểm, không cho phép đánh đổi bằng bất cứ giá nào. Một người chỉ huy giỏi là một người đánh thắng kẻ thù nhưng ta thương vong thấp nhất, đổ xương máu ít nhất. Sinh mạng của con người là vô giá và không gì có thể bù đắp được nỗi đau mất mát trong chiến tranh. Dĩ công vi thượng, khiêm tốn, sống giản dị, thanh cao, quyết đoán, dân chủ và bao dung, nhân hậu - đó là nhân cách Võ Nguyên Giáp - một thiên tài quân sự.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn lấy dĩ công vi thượng làm phương châm để hành động. Lấy tình thương yêu đồng đội, đồng chí để làm lẽ sống. Lấy chữ nhân, chữ nhẫn, chữ trí để làm phương châm ứng xử. Tư tưởng và con người của "Anh Văn"  đã góp phần hình thành, xây dựng, củng cố sức mạnh của lực lượng vũ trang Nhân dân Việt Nam. 

Từ Phay khắt - Nà Ngần tới chiến dịch Điện Biên Phủ - Chiến dịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khiến cả thế giới nhận ra ông không chỉ có tài cầm quân, mà còn là nhà lý luận quân sự uyên thâm, tác giả hàng đầu về học thuyết quân sự Việt Nam hiện đại. Tư tưởng và lý luận của ông về vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng Quân đội Nhân dân, về khởi nghĩa vũ trang, về chiến tranh Nnhân dân trong thời đại mới, không chỉ được người Việt Nam mà nhiều lãnh tụ và tướng lĩnh trên thế giới nghiên cứu, học tập. Ông đã đưa chiến tranh Nhân dân Việt Nam  trở thành nghệ thuật quân sự được cả thế giới ngưỡng mộ.

Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam là cấp quân hàm sĩ quan quân đội cao cấp nhất trong Quân đội Nhân dân Việt Nam với cấp hiệu 4 ngôi sao vàng. Theo quy định hiện hành, theo Điều 88 Hiến pháp Việt Nam 2013, quân hàm Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam do Chủ tịch nước, kiêm Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh Quốc gia quyết định phong cấp. Quân hàm Đại tướng thường được phong cho các sĩ quan cấp cao nắm giữ các chức vụ: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Ngoại lệ là (Đại tướng Hoàng Văn Thái được phong năm 1980 khi đang là Thứ trưởng kiêm Phó Tổng Tham Mưu trưởng thứ nhất dù ông là TTMT đầu tiên từ 1945-1954 và quyền TMTT 1 thời gian ngắn 1954 và năm 1974) Và Lê Đức Anh năm 1984 khi đang là Thứ trưởng kiêm tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.

Tính đến ngày 5 tháng 10 năm 2015, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có 14 quân nhân được phong quân hàm Đại tướng. Có 2 quân nhân được đặc cách phong quân hàm Đại tướng không qua các cấp trung gian là Võ Nguyên Giáp (1948) và Nguyễn Chí Thanh (1959). Hiện tại (tháng 4 năm 2017), có 2 Đại tướng giữ quân hàm hiện đang công tác là Ngô Xuân Lịch, đương kim Bộ trưởng Quốc phòng, Đỗ Bá Tỵ, Phó Chủ tịch Quốc hội phụ trách quốc phòng - an ninh

Theo sắc lệnh số 33 ngày 22 tháng 3 năm 1946 do Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký, cấp bậc Đại tướng Quân đội Quốc gia Việt Nam được quy định lần đầu tiên với cấp hiệu cầu vai 3 sao vàng trên nền đỏ. Tuy nhiên, tại thời điểm đó chưa có quân nhân được phong quân hàm này. Mãi đến ngày 20 tháng 1 năm 1948, Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân tự vệ Võ Nguyên Giáp là người đầu tiên được phong quân hàm này.

Cấp bậc Đại tướng một lần nữa được quy định lại với Luật Quy định chế độ phục vụ của Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày 31 tháng 5 năm 1958. Và Nghị định 307-TTg ngày 20 tháng 6 năm 1958 cũng quy định quân hàm Đại tướng mang 4 ngôi sao vàng trên cấp hiệu. Và ngày 31 tháng 8 năm 1959 Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh là người thứ 2 được thụ phong quân hàm Đại tướng.

Cấp hiệu này ổn định từ đó cho đến nay.

Danh sách các Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam

Những chi tiết đáng chú ý

Có 8 người gốc miền Bắc (Văn Tiến Dũng - Hà Nội, Hoàng Văn Thái - Thái Bình, Lê Trọng Tấn - Hà Nội (Hà Tây cũ), Nguyễn Quyết - Hưng Yên, Phạm Văn Trà - Bắc Ninh, Phùng Quang Thanh - (Hà Nội), Đỗ Bá Tỵ - Hà Nội (Hà Tây cũ), Ngô Xuân Lịch - Hà Nam); 5 người gốc miền Trung (Võ Nguyên Giáp - Quảng Bình, Nguyễn Chí Thanh - Thừa Thiên Huế, Chu Huy Mân - Nghệ An, Lê Đức Anh - Thừa Thiên Huế, Đoàn Khuê - Quảng Trị). Chỉ duy nhất có 1 người gốc miền Nam (Lê Văn Dũng - Bến Tre).

Hà Nội là địa phương xuất thân nhiều đại tướng nhất (4 người). Kế đó là Thừa Thiên Huế (2 người). Các tỉnh Hưng Yên, Hà Nam, Bắc Ninh, Thái Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Bến Tre, mỗi tỉnh xuất thân một người.

Có 9 người tham gia Quân đội Nhân dân Việt Nam từ năm 1945. Xuất thân nghề nghiệp trước khi gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam, có 1 người là trí thức (Võ Nguyên Giáp), 4 công nhân (Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Lê Đức Anh, Nguyễn Quyết), 3 nông dân (Nguyễn Chí Thanh, Chu Huy Mân, Đoàn Khuê) và 1 là binh sĩ thuộc địa (Lê Trọng Tấn). Năm người còn lại tham gia sau năm 1945 là Phạm Văn Trà (1953), Lê Văn Dũng (1963), Phùng Quang Thanh (1967), Đỗ Bá Tỵ (1972), Ngô Xuân Lịch (1973) và đều theo binh nghiệp từ năm 18 tuổi.

Về các cương vị trong quân đội

Dưới đây là thống kê những chức vụ chủ chốt trong quân đội do các đại tướng từng nắm giữ

  • Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang: 1 người (Võ Nguyên Giáp)
  • Bí thư Quân ủy Trung ương: 2 người (Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng)
  • Bộ trưởng Quốc phòng: 7 người (Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Phạm Văn Trà, Phùng Quang Thanh, Ngô Xuân Lịch)
  • Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị: 5 người (Nguyễn Chí Thanh, Chu Huy Mân, Nguyễn Quyết, Lê Văn Dũng, Ngô Xuân Lịch)
  • Tổng Tham mưu trưởng: 9 người (Hoàng Văn Thái, Văn Tiến Dũng, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Phạm Văn Trà, Lê Văn Dũng, Phùng Quang Thanh, Đỗ Bá Tỵ)

Có 2 người từng nắm giữ 3 chức vụ chủ chốt là Võ Nguyên Giáp (Tổng tư lệnh, Bí thư Quân ủy, Bộ trưởng Quốc phòng) và Văn Tiến Dũng (Bí thư Quân ủy, Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng), 6 người từng nắm giữ 2 chức vụ là Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Phạm Văn Trà, Phùng Quang Thanh (đều cùng nắm giữ Tổng Tham mưu trưởng rồi Bộ trưởng Quốc phòng), Lê Văn Dũng (Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị) và Ngô Xuân Lịch (Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng). Sáu người còn lại chỉ giữ một chức vụ là Nguyễn Chí Thanh, Chu Huy Mân, Nguyễn Quyết (đều là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị), Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn và Đỗ Bá Tỵ (đều là Tổng Tham mưu trưởng).

Về các chức vụ Đảng, tất cả 14 người đều từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó có 9 người được bầu vào Bộ Chính trị, 3 người vào Ban Bí thư.

Đến thời điểm này, có 9 người đã được trao tặng Huân chương Sao vàng, huân chương cao quý nhất của nhà nước Việt Nam. Hai người được trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Về thời điểm thụ phong

Có 3 người được phong trong thời gian Chiến tranh Việt Nam, 5 người được phong trong thời gian xung đột biên giới Phía Bắc và Tây Nam. Sáu người còn lại được phong vào thời bình.

Độ tuổi trung bình của các đại tướng khi thụ phong là 60 tuổi.

Có 9 người được phong tướng trước năm 1975, trong đó có 5 người thụ phong hàm tướng vượt cấp gồm Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh (thụ phong thẳng hàm Đại tướng), Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân (thăng vượt cấp từ Thiếu tướng lên Thượng tướng) và Lê Đức Anh (thăng vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng).

Các năm 1984, 1990, 2007, 2015 đều có 2 đại tướng được phong trong năm.

Giai đoạn 1984-1986 có nhiều đại tướng tại nhiệm nhất: 6 người (Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Chu Huy Mân, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Văn Tiến Dũng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Tổng Tham mưu trưởng Thứ nhất Hoàng Văn Thái, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia Lê Đức Anh)

Các kỷ lục cá nhân

  • Người nắm giữ chức vụ nhà nước cao nhất: Lê Đức Anh, Chủ tịch nước (1992-1997)
  • Người nắm giữ chức vụ quân đội cao nhất: Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và dân quân (1946-1975)
  • Người giữ chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên: Võ Nguyên Giáp, nhậm chức ngày 3 tháng 11 năm 1946
  • Người giữ chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng lâu nhất: Võ Nguyên Giáp, 32 năm 96 ngày
  • Người giữ chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng ngắn nhất: Lê Đức Anh, 4 năm 175 ngày
  • Người giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên: Hoàng Văn Thái, nhậm chức ngày 2 tháng 3 năm 1946
  • Người giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng lâu nhất: Văn Tiến Dũng, 24 năm 165 ngày
  • Người giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng ngắn nhất: Lê Đức Anh, 63 ngày
  • Người giữ chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đầu tiên: Nguyễn Chí Thanh, nhậm chức ngày 11 tháng 7 năm 1950
  • Người giữ chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị lâu nhất: Nguyễn Chí Thanh, 10 năm 248 ngày
  • Người giữ chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị ngắn nhất: Nguyễn Quyết, 3 năm 309 ngày
  • Người giữ quân hàm hiện dịch dài nhất: Võ Nguyên Giáp, 32 năm 18 ngày
  • Người giữ quân hàm hiện dịch ngắn nhất: Lê Trọng Tấn, 1 năm 343 ngày
  • Người thụ phong trẻ nhất: Võ Nguyên Giáp, 36 tuổi 148 ngày
  • Người thụ phong già nhất: Lê Trọng Tấn, 70 tuổi 352 ngày
  • Người có tuổi thọ cao nhất: Võ Nguyên Giáp, 102 tuổi 40 ngày
  • Người có tuổi thọ cao nhất còn sống: Lê Đức Anh, 95 tuổi 512 ngày
  • Người có tuổi đời nhỏ nhất: Nguyễn Chí Thanh, 53 tuổi 186 ngày
  • Người có tuổi đời nhỏ nhất còn sống: Đỗ Bá Tỵ, 61 tuổi 512 ngày
  • Người có nhiều yếu tố nhất: Võ Nguyên Giáp (6 yếu tố)