Ví dụ về hợp đồng vô hiệu toàn bộ

Khi nào hợp đồng bị xem là vô hiệu vì lý do hình thức?

Nguyên tắc tự do ý chí trong quan hệ hợp đồng dẫn tới một hệ quả là hợp đồng có thể được giao kết dưới bất kỳ hình thức nào theo sự thỏa thuận giữa các bên. Tuy nhiên, nhằm mục đích bảo đảm an toàn pháp lý cho một số giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị, hoặc để bảo vệ cho một đối tượng chủ thể nào đó, trong một số trường hợp, luật pháp quy định những hình thức, thủ tục bắt buộc các bên phải tuân thủ. Song, cũng xuất phát từ nguyên tắc tự do ý chí, pháp luật các nước thường không quy định hình thức hợp đồng như là một trong các điều kiện chủ yếu của hiệu lực hợp đồng. Vì vậy, một hợp đồng chỉ vô hiệu về hình thức nếu điều luật quy định hình thức hợp đồng đó chỉ rõ chế tài này. Lấy ví dụ, Điều 931 BLDS Pháp quy định: “mọi chứng thư tặng cho phải được lập trước công chứng viên theo hình thức thông thường của hợp đồng và được công chứng viên lưu bản chính. Nếu không tuân thủ các quy định này, chứng thư tặng cho sẽ vô hiệu”.

 Khác với luật pháp các nước, trước đây, BLDS 1995 quan niệm hình thức là một trong các điều kiện thiết yếu của hiệu lực hợp đồng (Điều 131, khoản 4) và hậu quả là trên thực tế, có rất nhiều giao dịch bị tuyên vô hiệu vì lý do hình thức. Nhằm khắc phục tình trạng này, các nhà làm luật đã đưa vào BLDS những quy định hoàn toàn mới về hình thức hợp đồng thể hiện cách tiếp cận của BLDS Pháp. Thực vậy, khoản 2 Điều 122 BLDS quy định: “hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Phải hiểu tinh thần điều luật này như thế nào? Cần đọc điều luật này trong mối liên hệ với các Điều 124, 134, 401 BLDS, theo đó, trong số các hình thức hợp đồng mà pháp luật bắt buộc phải tuân thủ, chỉ những hình thức nào pháp luật quy định rõ đó là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì việc không tuân thủ hình thức này mới làm cho hợp đồng vô hiệu. Chẳng hạn, căn cứ vào Điều 146 khoản 4 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003 thì thủ tục đăng ký là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng; căn cứ vào Điều 19 khoản 2 Luật Chuyển giao công nghệ, thủ tục cấp Giấy phép chuyển giao công nghệ là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng chuyển giao công nghệ thuộc Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao…  Vậy, những trường hợp hợp đồng vi phạm hình thức nhưng hình thức đó không phải là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì hậu quả pháp lý là gì? Án lệ và học thuyết các nước theo truyền thống dân luật (civil law) phân biệt ba loại hình thức hợp đồng sau:

luat su

- Hình thức chỉ có ý nghĩa là chứng cứ chứng minh sự tồn tại của hợp đồng, ví dụ như văn bản;

luật sư

- Hình thức chỉ có ý nghĩa thông báo cho bên thứ ba (hiệu lực đối với bên thứ ba còn gọi là opposabilito), ví dụ, các giao dịch liên quan đến bất động sản ở Pháp đều phải công chứng, nếu không công chứng hợp đồng vẫn có hiệu lực giữa các bên nhưng được coi là không có hiệu lực đối với các bên thứ ba. Ý nghĩa cụ thể của việc công chứng như sau: Giả sử A bán nhà cho B, hợp đồng được công chứng, sau đó A lại bán tiếp nhà cho C trong khi C không hề biết A đã bán nhà cho B, B vẫn được sở hữu nhà vì hợp đồng này, C chỉ có thể kiện A yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ngược lại, nếu giao dịch giữa A và B không được công chứng  trong khi giao dịch giữa A và C lại được công chứng thì C được bảo vệ quyền sở hữu và B chỉ có thể kiện A đòi bồi thường thiệt hại;

tư vấn hợp đồng

- Hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng (văn bản, công chứng hoặc xin phép). Như đã nói ở trên, chỉ khi nào pháp luật nói rõ hình thức này là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì việc không tuân thủ mới làm cho hợp đồng vô hiệu.

Thiết nghĩ, để việc áp dụng luật được dễ dàng và thống nhất, Việt Nam nên xây dựng học thuyết về hình thức hợp đồng và pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể nhằm xác định rõ loại hình thức bắt buộc nào chỉ có ý nghĩa chứng cứ, loại hình thức bắt buộc nào có ý nghĩa thông báo cho bên thứ ba, loại hình thức bắt buộc nào là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.

Bản chất pháp lý của hợp đồng vô hiệu vì lý do hình thức

luat su tu van hop dong

Điều 134 BLDS quy định: “Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”.

soan thao hop dong dan su

Như vậy, xét về bản chất, vô hiệu về hình thức có thể được hiểu là một hình thức vô hiệu “treo”, mang một nữa tính chất của vô hiệu tương đối, một nửa tính chất của vô hiệu tuyệt đối. Tại sao? Đó là hình thức vô hiệu “treo” vì pháp luật dành cho các bên một khoản thời gian để khắc phục khiếm khuyết về hình thức đó. Đó là hình thức vô hiệu nửa tương đối vì chủ thể của quyền được yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu là một hoặc cả hai bên trong quan hệ hợp đồng. Cuối cùng, đó cũng là hình thức vô hiệu nửa tuyệt đối, vì nếu sau thời hạn buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch mà các bên không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.

Xét về bản chất của vô hiệu vì lý do hình thức có thể thấy tinh thần điều luật trên không khác xa Điều 139 BLDS 1995, tuy nhiên từ trước đến nay, thực tiễn xét xử đã có nhiều hướng không nhất quán nhau. Nhiều trường hợp Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu hình thức mà không tính đến khả năng dành cho các bên một thời gian để các bên hoàn thành thủ tục về hình thức. Có một vài bản án đã tuyên quyết định buộc các bên phải thực hiện hình thức hợp đồng nhưng lại thiếu cơ chế cưỡng chế như thế nào. Năm 2003, TANDTC đã có hướng dẫn cụ thể vấn đề hợp đồng vô hiệu về hình thức, theo đó, theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án ra quyết định buộc một hoặc các bên phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn một tháng, kể từ ngày Tòa án ra quyết định để hoàn thiện hình thức hợp đồng. Quá thời hạn một tháng mà họ không hoàn thiện các thủ tục hình thức thì Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại. Nhưng ngay cả trong trường hợp việc hoàn tất thủ tục hình thức là có thể thực hiện được nhưng một trong các bên không muốn thực hiện (vì thấy giá tài sản, chẳng hạn, giá nhà đất tăng cao, bán sẽ thiệt lớn) thì hợp đồng vẫn vô hiệu. Tại sao Tòa án không áp dụng biện pháp cưỡng chế hoàn tất thủ tục chính thức? Đó là bởi hiện nay, nhà làm luật Việt Nam chưa chấp nhận thuyết hợp đồng tiền hợp đồng (avant-contrat). Ví dụ, một thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được chứng thực, đăng ký nhưng đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chí của hợp đồng (về năng lực hành vi, nội dung, sự ưng thuận) được xem là một hợp đồng tiền hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nếu chấp nhận thuyết hợp đồng tiền hợp đồng thì mới có cơ chế rõ ràng để xử lý người bội ước. Hợp đồng tiền hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khác hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở chỗ nó chưa làm phát sinh nghĩa vụ chuyển quyền sử dụng đất (vì đây là nghĩa vụ của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất) nhưng làm phát sinh nghĩa vụ phải thực hiện một việc: hoàn tất thủ tục hình thức để chính thức ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Vì vậy, nếu một trong các bên không chịu thực hiện thủ tục hình thức thì lẽ ra quyết định trên của Tòa án đã có thể là cơ sở để bên ngay tình hoàn tất thủ tục chuyển nhượng.

soạn thảo hợp đồng

Chúng tôi khuyến nghị áp dụng thuyết hợp đồng tiền hợp đồng bởi lẽ, xét về mặt lôgic, thỏa thuận vi phạm về hình thức vẫn là một thỏa thuận – được coi là bản chất, căn bản của hợp đồng. Hơn nữa, đề nghị giao kết hợp đồng, mới chỉ thể hiện ý chí của một bên cũng đã bị ràng buộc pháp lý (Điều 396 BLDS), thì tại sao khi đề nghị này đã nhận được chấp nhận từ phía bên kia lại không chịu sự ràng buộc nào? Cuối cùng, xét về phương diện xã hội, quy định này sẽ có ý nghĩa xã hội lớn vì bảo vệ được bên giao kết hợp ngay tình, góp phần làm ổn định các giao dịch dân sự.

luật sư giỏi

Pháp luật cho phép mọi người tự do giao dịch dân sự hợp pháp với nhau, không hạn chế quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau mà vẫn xảy ra rất nhiều các giao dịch dân sự không hợp pháp, bị Tòa án tuyên vô hiệu. Bài viết sau đây sẽ đưa ra các trường hợp giao dịch dân sự bị tuyên vô hiệu được quy định theo Bộ luật dân sự 2015 hiện hành.

Giao dịch dân sự là gì?

Điều 116 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.

Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự?

Theo Điều 117 Bộ luật dân sự 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự cần có đầy đủ 3 điều kiện sau đây:– Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Giao dịch dân sự vô hiệu trong trường hợp nào?

Điều 122 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”.

Như vậy, có thể chia giao dịch dân sự vô hiệu thành các trường hợp sau:
1. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều 123 Bộ luật dân sự 2015)Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

Ví dụ: Giao dịch mua bán và vận chuyển vũ khí vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, cụ thể là vi phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự được quy định tại Điều 304 Bộ luật hình sự 2015.

2. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124 Bộ luật dân sự 2015)Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.

Ví dụ: A bán cho B một căn nhà, các bên thỏa thuận giá trị của ngôi nhà là 1.500.000.000 đồng. Nhưng hai bên đã lập một hợp đồng trong đó chỉ ghi giá trị của ngôi nhà là 1.000.000.000 đồng để gian lận việc nộp phí trước bạ sang tên. Như vậy, hợp đồng ghi giá trị ngôi nhà là 1.000.000.000 đồng bị coi là hợp đồng giả tạo.

3. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125 Bộ luật dân sự 2015)Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ những trường hợp sau:a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

Ví dụ: Anh A bị tâm thần do tai nạn từ tháng 9/2015. Ngày 15/06/2016, do biết anh A có sở hữu một mảnh đất ngay trung tâm thành phố nên anh B (bạn anh A) đã lợi dụng và dụ dỗ anh A ký vào hợp đồng mua bán mảnh đất đó. Biết được sự việc, gia đình anh A đến gặp anh B để nói chuyện nhưng anh B không những không hủy hợp đồng mà còn dọa sẽ kiện lại gia đình anh A. Trong trường hợp này, mặc dù hợp đồng mua bán quyền sử dụng đất có chữ ký của chủ sở hữu là anh A, nhưng anh A là người mất năng lực hành vi dân sự nên hợp đồng vô hiệu. Mảnh đất vẫn thuộc quyền sở hữu của anh A.

4. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 126 Bộ luật dân sự 2015)Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp sau:Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.

Ví dụ: A kí hợp đồng mua 100 bộ chén của B, hai bên đã có sự thỏa thuận về giá cả và thời điểm giao hàng. Đến ngày giao hàng, do khác biệt về ngôn ngữ vùng miền nên thay vì nhận được chén (là loại bát nhỏ dùng ăn cơm theo cách gọi của người miền Nam) thì A lại nhận được 100 bộ chén uống trà (theo cách gọi chén của người miền Bắc ) từ B. Trong trường hợp này, A và B có thể khắc phục bằng cách giữ nguyên hàng hóa và thống nhất lại đối tượng của giao dịch. Nếu cả 2 bên không đồng ý điều này, giao dịch bị tuyên bố vô hiệu.

5. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127 Bộ luật dân sự 2015)Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

Ví dụ: Anh A được bố mẹ mua cho 1 chiếc xe máy đời mới với giá 200 triệu đồng. Sau 1 tháng, anh B ngỏ ý muốn mua lại với giá 100 triệu nhưng anh A không đồng ý. Anh B dọa nếu không bán cho anh ta với giá này, anh ta sẽ nói chuyện bố anh A ngoại tình với mọi người. Anh A sợ ảnh hưởng đến gia đình nên đã bán chiếc xe cho anh B với giá 100 triệu. Trong trường hợp này, giao dịch bán xe vô hiệu vì anh A không tự nguyện thực hiện hợp đồng. Anh A bán xe do anh B đe dọa đưa thông tin cá nhân làm ảnh hưởng xấu đến gia đình anh A ra ngoài.

6. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (Điều 128 Bộ luật dân sự 2015)Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Ví dụ: trong khi say rượu A đã ký hợp đồng với B bán quyền sử dụng đất mà A đang sở hữu cho B với giá chỉ bằng 1/3 giá thị trường tại thời điểm đó. Trong trường hợp này, giao dịch vô hiệu do tại thời điểm xác lập giao dịch, A không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

7. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129 Bộ luật dân sự 2015)Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:a) Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.b) Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Ví dụ: A góp vốn vào công ty của B bằng quyền sử dụng đất của mình. Tuy nhiên, hợp đồng góp vốn kinh doanh chỉ có chữ ký của 2 bên mà không được chứng thực. Trong trường hợp này, hợp đồng góp vốn vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức tại điểm a khoản 3 Điều 167 Luật đất đai 2013: “Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này”. Vậy, để đảm bảo được quyền lợi của mình cũng như tránh các rủi ro có thể gặp sau này, A cần phải công chứng/ chứng thực hợp đồng này.


Người thực hiện giao dịch dân sự cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật để tránh trường hợp giao dịch bị tuyên bố vô hiệu xảy ra.

Bài viết liên quan