10 chẩn đoán hàng đầu trong chăm sóc sức khỏe ban đầu năm 2022

Chúng tôi cung cấp dịch vụ chăm sóc chất lượng, lấy bệnh nhân làm trung tâm thông qua mạng lưới bệnh viện và bệnh viện tích hợp của chúng tôi. Bước đầu tiên là kết nối với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc chính trong “nhà y tế”.

Nhà y tế của bạn là nơi có đội ngũ chuyên gia chăm sóc sức khỏe tận tâm đáp ứng nhu cầu sức khỏe và sức khỏe hàng ngày của bạn. Nhà y tế của bạn là một phần của mạng lưới lớn hơn gồm các bác sĩ chuyên khoa, bệnh viện, khoa cấp cứu và trung tâm chăm sóc khẩn cấp cùng nhau cung cấp cho bạn quyền truy cập vào một số dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất trong khu vực của chúng tôi.

Sử dụng tìm kiếm bên dưới để tìm một phòng khám y tế tại nhà hoặc gọi cho chúng tôi theo số 844-804-0055.

Chúng tôi cũng làm việc với một mạng lưới các phòng khám phi lợi nhuận, gọi là Đối tác Cộng đồng thông qua một chương trình có tên Sức khỏe của tôi LA.

Thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức về sức khỏe, bao gồm từ sự bùng phát của các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc-xin như sởi và bạch hầu, gia tăng mầm bệnh kháng thuốc, gia tăng tỷ lệ béo phì và không hoạt động thể chất, cho đến tác động sức khỏe của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu và nhiều khủng hoảng nhân đạo tại một số khu vực trên thế giới. Để giải quyết những vấn đề này và các mối đe dọa khác, năm 2019, Tổ chức Y tế Thế giới khởi động Kế hoạch chiến lược mới trong 5 năm tới.

Kế hoạch này tập trung vào mục tiêu ba tỷ: (1) thêm 1 tỷ người được hưởng lợi từ việc tiếp cận chăm sóc sức khoẻ toàn dân, (2) thêm 1 tỷ người được bảo vệ khỏi các tình huống khẩn cấp về sức khỏe và (3) thêm 1 tỷ người được hưởng sức khỏe tốt hơn.

Đạt được mục tiêu này đòi hỏi phải giải quyết các mối đe dọa đối với sức khỏe từ nhiều góc độ khác nhau.Dưới đây là 10 vấn đề sức khoẻ trọng tâm mà TCYTTG đã đặt ra trong năm 2019.

1) Ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu:

Chín trên mười người hít thở không khí ô nhiễm mỗi ngày. Năm 2019, ô nhiễm không khí được TCYTTG coi là nguy cơ môi trường lớn nhất đối với sức khỏe. Các chất ô nhiễm trong không khí có thể xâm nhập hệ thống hô hấp và tuần hoàn, gây hại cho phổi, tim và não, gây ra 7 triệu người chết sớm mỗi năm do các bệnh như ung thư, đột quỵ, bệnh tim và phổi. Khoảng 90% số ca tử vong này là ở các nước thu nhập thấp và trung bình, với lượng khí thải lớn từ công nghiệp, giao thông và nông nghiệp, cũng như bếp lò và nhiên liệu bẩn trong nhà.

Nguyên nhân chính gây ô nhiễm không khí (đốt nhiên liệu hóa thạch) cũng là tác nhân chính gây ra biến đổi khí hậu, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân theo nhiều cách khác nhau. Từ năm 2030 đến 2050, biến đổi khí hậu dự kiến sẽ gây ra thêm 250.000 ca tử vong mỗi năm, do suy dinh dưỡng, sốt rét, tiêu chảy và stress nhiệt.

Vào tháng 10/2018, lần đầu tiên, TCYTTG đã tổ chức Hội nghị toàn cầu về ô nhiễm không khí và sức khỏe tại Geneva. Các quốc gia và tổ chức đã thực hiện hơn 70 cam kết cải thiện chất lượng không khí. Năm 2019, Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu của Liên hợp quốc sẽ diễn ra vào tháng 9 nhằm tăng cường hành động cho khí hậu trên toàn thế giới. Ngay cả khi tất cả các cam kết của các quốc gia đã đạt được, thế giới vẫn đang trong quá trình làm nóng hơn 3°C trong thế kỷ này.

2) Bệnh không lây nhiễm

Các bệnh không lây nhiễm, như bệnh tiểu đường, ung thư và bệnh tim mạch là nguyên nhân chính cho hơn 70% tổng số ca tử vong trên toàn thế giới, tương đương 41 triệu người. Trong đó, bao gồm 15 triệu người chết sớm ở độ tuổi tuổi từ 30 đến 69.

Hơn 85% số ca tử vong sớm này là ở các nước thu nhập thấp và trung bình. Sự gia tăng của các bệnh này đã được thúc đẩy bởi 5 yếu tố nguy cơ chính: sử dụng thuốc lá, không hoạt động thể chất, uống nhiều rượu bia, chế độ ăn uống không lành mạnh và ô nhiễm không khí. Các yếu tố nguy cơ này cũng làm trầm trọng thêm các vấn đề về sức khỏe tâm thần, có thể bắt đầu từ khi còn nhỏ: một nửa số bệnh tâm thần bắt đầu từ năm 14 tuổi, nhưng hầu hết các trường hợp không được phát hiện và không được điều trị, tự tử là nguyên nhân hàng đầu thứ hai gây tử vong trong độ tuổi từ 15 đến 19 tuổi.

Năm 2019, TCYTTG sẽ hợp tác với chính phủ các nước để giúp đạt được mục tiêu toàn cầu là giảm 15% số người không hoạt động thể chất vào năm 2030, thông qua các hành động như triển khai bộ công cụ chính sách để giúp nhiều người hoạt động hơn mỗi ngày.

3) Đại dịch cúm toàn cầu:

Thế giới sẽ phải đối mặt với một đại dịch cúm khác, nhưng điều duy nhất là chúng ta không biết là khi nào nó sẽ xảy ra và mức độ nghiêm trọng của nó sẽ như thế nào. Phòng thủ với đại dịch cúm toàn cầu.

TCYTTG liên tục theo dõi sự lưu hành của vi-rút cúm để phát hiện các chủng gây đại dịch tiềm tàng, hiện đã có 153 tổ chức ở 114 quốc gia giám sát và ứng phó toàn cầu.

Hàng năm, TCYTTG đều có khuyến cáo những chủng nào nên được đưa vào vắc-xin cúm để bảo vệ mọi người khỏi bệnh cúm theo mùa. Trong trường hợp một chủng cúm mới phát triển tiềm năng gây đại dịch, TCYTTG đã thiết lập mối quan hệ đối tác với tất cả những bên có liên quan để đảm bảo tiếp cận hiệu quả và công bằng với chẩn đoán, vắc-xin và thuốc kháng vi-rút, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.

4) Những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương

Hơn 1,6 tỷ người (22% dân số toàn cầu) sống ở những nơi có khủng hoảng kéo dài do sự kết hợp của các thách thức như hạn hán, nạn đói, xung đột và dịch chuyển dân số và các cung ứng các dịch vụ y tế yếu khiến họ không được chăm sóc cơ bản, và đây là nơi một nửa các mục tiêu chính trong các mục tiêu phát triển bền vững, bao gồm cả sức khỏe của trẻ em và bà mẹ, vẫn chưa được đáp ứng.

TCYTTG sẽ tiếp tục làm việc tại các quốc gia này để tăng cường các hệ thống y tế để họ được chuẩn bị tốt hơn trong phát hiện và ứng phó với dịch bệnh, cũng như có thể cung cấp các dịch vụ y tế chất lượng cao, bao gồm tiêm chủng.

5) Đề kháng kháng sinh:

Sự phát triển của kháng sinh, thuốc chống siêu vi và thuốc chống sốt rét là một số thành công lớn nhất của y học hiện đại. Hiện nay, tình trạng đề kháng những loại thuốc này đang gia tăng, đe dọa sẽ đưa chúng ta trở lại thời điểm không thể dễ dàng điều trị các bệnh nhiễm trùng như viêm phổi, lao, lậu và nhiễm khuẩn salmonella.

Kháng thuốc chống lao là một trở ngại ghê gớm, khiến khoảng 10 triệu người mắc bệnh và 1,6 triệu người tử vong mỗi năm. Trong năm 2017, khoảng 600.000 trường hợp mắc bệnh lao đã kháng với rifampicin - loại thuốc đầu tiên hiệu quả nhất - và 82% trong số những người này mắc bệnh lao đa kháng thuốc.

Kháng thuốc được thúc đẩy bởi việc lạm dụng thuốc kháng sinh ở người, cả ở động vật, đặc biệt là những động vật được sử dụng để sản xuất thực phẩm, cũng như ở trong môi trường. TCYTTG đang hợp tác với các ngành này để thực hiện kế hoạch hành động toàn cầu nhằm khắc phục tình trạng kháng thuốc bằng cách tăng cường nhận thức và kiến thức, giảm nhiễm trùng và khuyến khích sử dụng thuốc kháng sinh thận trọng.

6) Ebola và các mầm bệnh đe dọa khác:

Năm 2018, Cộng hòa Dân chủ Congo đã trải qua 2 đợt dịch Ebola riêng biệt, cả 2 đều lan sang các thành phố với hơn 1 triệu người mắc. Điều này cho thấy bối cảnh dịch bệnh gây bệnh có nguy cơ cao như Ebola bùng phát là rất nghiêm trọng - những gì đã xảy ra trong các vụ dịch ở nông thôn trong quá khứ không phải lúc nào cũng áp dụng cho các khu vực đô thị đông dân hoặc các khu vực bị ảnh hưởng bởi xung đột.

Tại một hội nghị về Chuẩn bị cho các trường hợp khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng được tổ chức vào tháng 12/2018, những người tham gia từ các lĩnh vực y tế công cộng, thú y, giao thông và du lịch đã tập trung vào những thách thức ngày càng tăng của việc giải quyết các vụ dịch và các trường hợp khẩn cấp về sức khỏe ở khu vực thành thị. Họ kêu gọi TCYTTG và các đối tác chọn năm 2019 là năm hành động về sự chuẩn bị cho các trường hợp khẩn cấp về sức khỏe.

Kế hoạch R&D của TCYTTG chọn các bệnh và mầm bệnh có khả năng gây ra tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng nhưng thiếu phương pháp điều trị và vắc-xin hiệu quả. Danh sách theo dõi nghiên cứu và phát triển ưu tiên bao gồm Ebola, một số bệnh sốt xuất huyết khác, Zika, Nipah, hội chứng hô hấp Trung Đông coronavirus (MERS-CoV) và Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) và bệnh X, sự cần thiết phải chuẩn bị cho một bệnh chưa biết mầm bệnh có thể gây ra một dịch bệnh nghiêm trọng.

7) Chăm sóc sức khoẻ ban đầu không hiệu quả:

Chăm sóc sức khỏe ban đầu là điểm tiếp xúc đầu tiên của mọi người với hệ thống chăm sóc sức khỏe, và lý tưởng nhất là cung cấp dịch vụ chăm sóc toàn diện, giá cả phải chăng, dựa vào cộng đồng trong suốt cuộc đời.

Chăm sóc sức khỏe ban đầu có thể đáp ứng phần lớn nhu cầu sức khỏe của một người trong suốt cuộc đời của họ. Hệ thống y tế với chăm sóc sức khỏe ban đầu mạnh mẽ là cần thiết để đạt được bao phủ chăm sóc sức khoẻ toàn dân.

Tuy nhiên, nhiều quốc gia không có cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu đầy đủ. Sự lãng quên này có thể là thiếu nguồn lực ở các nước thu nhập thấp hoặc trung bình, nhưng cũng có thể là trọng tâm trong vài thập kỷ qua về các chương trình bệnh đơn lẻ. Vào tháng 10/2018, TCYTTG đã đồng tổ chức một hội nghị toàn cầu ở Astana, Kazakhstan, tại đó tất cả các quốc gia cam kết đổi mới cam kết chăm sóc sức khỏe ban đầu được đưa ra trong tuyên ngôn Alma-Ata năm 1978. Năm 2019, TCYTTG sẽ hợp tác với các đối tác để phục hồi và tăng cường chăm sóc sức khỏe ban đầu ở các quốc gia và theo dõi các cam kết cụ thể được đưa ra trong Tuyên ngôn Astana.

8) Do dự tiêm vắc-xin:

Sự do dự, miễn cưỡng hoặc từ chối tiêm vắc-xin mặc dù có sẵn vắc-xin đe dọa đảo ngược tiến trình thực hiện các bệnh có thể phòng ngừa bằng vắc-xin. Tiêm vắc-xin là một trong những cách hiệu quả nhất để tránh mắc bệnh - hiện đang ngăn ngừa 2-3 triệu ca tử vong mỗi năm và có thể tránh thêm 1,5 triệu nếu phạm vi tiêm chủng toàn cầu được cải thiện.

Ví dụ, bệnh sởi đã chứng kiến sự gia tăng 30% trong các trường hợp trên toàn cầu. Lý do cho sự gia tăng này là phức tạp, trong đó có do dự tiêm vắc-xin. Những lý do tại sao một số người không tiêm chủng là phức tạp; một nhóm tư vấn vắc-xin cho TCYTTG xác định sự tự mãn, bất tiện trong việc tiếp cận vắc-xin và thiếu tự tin là những lý do chính dẫn đến sự do dự. Nhân viên y tế, đặc biệt nhân viên y tế cộng đồng, vẫn là cố vấn và người ảnh hưởng đáng tin cậy nhất cho các quyết định tiêm chủng, và họ phải được hỗ trợ để cung cấp thông tin đáng tin cậy về vắc-xin.

Năm 2019, TCYTTG sẽ đẩy mạnh việc loại bỏ ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới bằng cách tăng độ bao phủ của vắc-xin HPV. Năm 2019 cũng có thể là năm bệnh bại liệt hoang dã sẽ chấm dứt ở Afghanistan và Pakistan. Năm 2018, gần 30 trường hợp đã được báo cáo ở cả hai nước này.

9) Sốt xuất huyết

Sốt xuất huyết, một bệnh do muỗi gây ra và có thể gây tử vong và giết chết tới 20% những người bị sốt xuất huyết nặng, là mối đe dọa ngày càng tăng trong nhiều thập kỷ.

Một số lượng lớn các trường hợp sốt xuất huyết xảy ra trong mùa mưa tại các quốc gia như Bangladesh và Ấn Độ. Bây giờ, mùa mắc bệnh sốt xuất huyết ở các quốc gia này đang kéo dài đáng kể (năm 2018, Bangladesh chứng kiến số ca tử vong cao nhất trong gần hai thập kỷ) và căn bệnh này đang lan sang các nước ít nhiệt đới và ôn đới hơn như Nepal, theo truyền thống không thấy bệnh .

Ước tính 40% trên thế giới có nguy cơ bị sốt xuất huyết, và có khoảng 390 triệu ca nhiễm mỗi năm. Chiến lược kiểm soát sốt xuất huyết của TCYTTG nhằm mục đích giảm 50% tử vong vào năm 2020.

10) HIV:

Đã có nhiều tiến bộ chống lại HIV trong việc giúp mọi người được xét nghiệm, cung cấp cho họ thuốc kháng retrovirus (22 triệu đang điều trị) và cung cấp quyền tiếp cận các biện pháp phòng ngừa như điều trị dự phòng phơi nhiễm trước (PrEP, khi mọi người có nguy cơ mắc bệnh HIV dùng thuốc kháng retrovirus để ngăn ngừa nhiễm trùng).

Tuy nhiên, dịch bệnh vẫn tiếp tục hoành hành với gần 1 triệu người mỗi năm tử vong vì HIV/AIDS. Kể từ khi dịch bệnh bắt đầu, hơn 70 triệu người đã mắc bệnh và khoảng 35 triệu người đã chết. Ngày nay, khoảng 37 triệu người trên toàn thế giới sống chung với HIV. Tiếp cận những người như gái mại dâm, những người trong tù, những người đàn ông quan hệ tình dục với nam giới hoặc những người chuyển giới là những thách thức vô cùng lớn. Một nhóm ngày càng bị ảnh hưởng bởi HIV là các cô gái và phụ nữ trẻ (15 – 24 tuổi), những người đặc biệt có nguy cơ cao và chiếm 1/4 ca nhiễm HIV ở châu Phi cận Sahara (mặc dù chỉ chiếm 10% dân số).

Năm 2019, TCYTTG sẽ làm việc với các quốc gia để hỗ trợ giới thiệu biện pháp tự kiểm tra để nhiều người nhiễm HIV biết tình trạng của họ và có thể được điều trị (hoặc các biện pháp phòng ngừa trong trường hợp kết quả xét nghiệm âm tính).

  • Đang tải số liệu

Mở truy cập

Peer-reviewed

Bài viết nghiên cứu

  • Emily MacLean,
  • Nathaly aguilera vasquez,
  • Lavanya Huria,
  • Mikashmi kohli,
  • Genevieve Gore,
  • Emma Hannay,
  • Madhukar pai,,
  • Pierrick Adam

Những lý do phổ biến nhất cho các chuyến thăm chăm sóc chính ở các nước thu nhập thấp và trung bình: Đánh giá có hệ thống

  • Jacob Bigio, & NBSP;
  • Emily MacLean, & NBSP;
  • Nathaly Aguilera Vasquez, & NBSP;
  • Lavanya Huria, & NBSP;
  • Mikashmi Kohli, & nbsp;
  • Genevieve Gore, & NBSP;
  • Emma Hannay, & NBSP;
  • Madhukar Pai, & NBSP;
  • Pierrick Adam

x

  • Xuất bản: ngày 2 tháng 5 năm 2022
  • //doi.org/10.1371/journal.pgph.0000196

Số liệu

trừu tượng

Với đại dịch COVID-19 và giới thiệu Danh sách chẩn đoán thiết yếu (EDL) của WHO, việc tăng sự chú ý toàn cầu tập trung vào vai trò quan trọng của chẩn đoán trong việc đạt được bảo hiểm sức khỏe toàn cầu. Để tạo ra các EDL quốc gia và hỗ trợ lập kế hoạch hệ thống y tế, điều quan trọng là phải hiểu các điều kiện phổ biến nhất mà mọi người có mặt tại các cơ sở y tế chăm sóc chính. Chúng tôi đã thực hiện một đánh giá có hệ thống về những lý do phổ biến nhất cho các chuyến thăm chăm sóc chính ở các nước thu nhập thấp và trung bình. Sáu cơ sở dữ liệu đã được tìm kiếm các bài báo được xuất bản từ tháng 1 năm 2009 đến tháng 12 năm 2019, với việc tìm kiếm được cập nhật trên Medline đến tháng 1 năm 2021. Dữ liệu về các lý do bệnh nhân phổ biến nhất cho cuộc gặp gỡ (RFEs) và chẩn đoán nhà cung cấp đã được thu thập. 17 trong số 22.279 bài báo được sàng lọc được bao gồm. Hầu hết các nghiên cứu đã sử dụng các hệ thống phân loại chẩn đoán chưa được đánh giá cao hoặc trình bày dữ liệu chẩn đoán nhà cung cấp được nhóm theo hệ thống cơ quan, thay vì trình bày các chẩn đoán cụ thể. Không có nghiên cứu bao gồm dữ liệu từ các nước thu nhập thấp. Chỉ có bốn nghiên cứu (từ Brazil, Ấn Độ, Nigeria và Nam Phi) bằng cách sử dụng hệ thống phân loại ICPC-2 có chứa dữ liệu chẩn đoán RFE và nhà cung cấp và có thể được gộp lại. Năm RFE hàng đầu từ bốn nghiên cứu là đau đầu, sốt, sau hoặc triệu chứng lưng, ho và đau đa/nhiều vị trí. Năm chẩn đoán hàng đầu là tăng huyết áp không biến chứng, nhiễm trùng đường hô hấp trên, tiểu đường loại 2, sốt rét và duy trì/phòng ngừa sức khỏe. Không có triệu chứng tâm lý nằm trong số 10 RFE gộp hàng đầu. Có nhiều sự thay đổi trong các chẩn đoán hàng đầu giữa các nghiên cứu hơn các RFE hàng đầu, cho thấy tầm quan trọng của việc tạo ra các danh sách các chẩn đoán thiết yếu cụ thể về vị trí cho chăm sóc chính. Các nghiên cứu trong tương lai nên nhằm mục đích lấy mẫu các cơ sở chăm sóc chính từ khắp quốc gia nghiên cứu và sử dụng ICPC-3 của họ để báo cáo cả RFE và chẩn đoán của nhà cung cấp bệnh nhân.

Trích dẫn: Bigio J, MacLean E, Vasquez NA, Huria L, Kohli M, Gore G, et al. (2022) Lý do phổ biến nhất cho các chuyến thăm chăm sóc chính ở các nước thu nhập thấp và trung bình: một đánh giá có hệ thống. PLOS GLOB PUBLIC Sức khỏe 2 (5): E0000196. //doi.org/10.1371/journal.pgph.0000196Bigio J, MacLean E, Vasquez NA, Huria L, Kohli M, Gore G, et al. (2022) Most common reasons for primary care visits in low- and middle-income countries: A systematic review. PLOS Glob Public Health 2(5): e0000196. //doi.org/10.1371/journal.pgph.0000196

Biên tập viên: Joel Msafiri Francis, Đại học Witwatersrand, Nam PhiJoel Msafiri Francis, University of the Witwatersrand, SOUTH AFRICA

Nhận được: ngày 28 tháng 9 năm 2021; Được chấp nhận: ngày 19 tháng 1 năm 2022; Xuất bản: ngày 2 tháng 5 năm 2022September 28, 2021; Accepted: January 19, 2022; Published: May 2, 2022

Bản quyền: © 2022 Bigio et al. Đây là một bài viết truy cập mở được phân phối theo các điều khoản của giấy phép phân bổ Creative Commons, cho phép sử dụng, phân phối và sao chép không giới hạn trong bất kỳ phương tiện nào, với điều kiện là tác giả và nguồn gốc được ghi có. © 2022 Bigio et al. This is an open access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution License, which permits unrestricted use, distribution, and reproduction in any medium, provided the original author and source are credited.

Tính khả dụng của dữ liệu: Tất cả dữ liệu trong đánh giá hệ thống này được bao gồm trong các bảng, số liệu và phụ lục.All data in this systematic review is included in the tables, figures and appendices.

Tài trợ: Các tác giả không nhận được tài trợ cụ thể cho nghiên cứu này.The authors received no specific funding for this study.

Sở thích cạnh tranh: Tôi đã đọc chính sách của tạp chí và các tác giả của bản thảo này có các lợi ích cạnh tranh sau đây E.H. hiện đang làm việc bởi Find và M.P. Phục vụ như một cố vấn để tìm. Tìm là một nền tảng phi lợi nhuận hỗ trợ phát triển, đánh giá và thực hiện một số chẩn đoán. Find có thỏa thuận đánh giá sản phẩm với một số công ty khu vực tư nhân thiết kế chẩn đoán cho sức khỏe toàn cầu. Các thỏa thuận này xác định chặt chẽ tính độc lập và tính trung lập của các công ty có các sản phẩm được đánh giá và mô tả vai trò và trách nhiệm. Find là đồng phụ trách Acceler Trình truy cập truy cập vào COVID-19 (ACT), một quan hệ đối tác để tăng tốc quyền truy cập vào các công cụ chẩn đoán cần thiết trong phản hồi CoVID-19. MP là tổng biên tập của PLOS Global Public Health và phục vụ trong ban biên tập của PLOS Medicine. Không có tác giả nào khác có lợi ích cạnh tranh để tiết lộ. I have read the journal’s policy and the authors of this manuscript have the following competing interests E.H. is currently employed by FIND, and M.P. serves as an advisor to FIND. FIND is a not-for-profit foundation that supports the development, evaluation and implementation of several diagnostics. FIND has product evaluation agreements with several private sector companies that design diagnostics for global health. These agreements strictly define FIND’s independence and neutrality vis-a-vis the companies whose products get evaluated and describe roles and responsibilities. FIND is co-convener of the Access to COVID-19 Tools (ACT) Accelerator, a partnership to accelerate access to the diagnostics tools needed in the COVID-19 response. MP is editor-in-chief of PLOS Global Public Health and serves on the editorial board of PLOS Medicine. None of the other authors have competing interests to disclose.

Giới thiệu

Chăm sóc sức khỏe ban đầu (PHC) là một điểm chính của việc tham gia vào các hệ thống chăm sóc sức khỏe cho những người tìm kiếm sự chăm sóc. Được định nghĩa bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) là một cách tiếp cận toàn xã hội đối với sức khỏe tập trung vào nhu cầu của mọi người càng sớm càng tốt cùng với sự liên tục của sức khỏe và gần như khả thi với môi trường hàng ngày của họ [1], PHC được công nhận là Một nền tảng của việc đạt được phạm vi bảo hiểm y tế toàn cầu (UHC) và đáp ứng các mục tiêu phát triển bền vững liên quan đến sức khỏe [1, 2]. Theo WHO, việc tăng cường các can thiệp PHC trên các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình (LMIC) có thể cứu được 60 triệu người và tăng tuổi thọ trung bình lên 3,7 năm vào năm 2030 (2).

In recent years and especially with the ongoing Covid-19 pandemic, increasing global attention has been focused on the crucial role of diagnostics in high-quality healthcare systems, including PHC, with the introduction of the WHO’s annual Essential Diagnostics List (EDL) [3] and the formation of the Lancet Commission on Diagnostics [4]. Poor access to diagnostics, particularly in LMICs, can lead to lack of trust in health services and under-utilization of services, patients being started on presumptive or empiric treatment, which can lead to poor health outcomes, waste resources and contribute to antimicrobial resistance in the case of infectious diseases [4, 5]. Lack of diagnostics is also a major concern for managing common non-communicable diseases.

The Covid-19 pandemic has further highlighted the importance of diagnostics in curbing transmission of the virus. There has been unprecedented global collaboration through mechanisms such as the Access to Covid-19 Tools (ACT)-Accelerator Diagnostics Pillar, which is co-convened by the Foundation for Innovative New Diagnostics (FIND) and the Global Fund and aims to accelerate development, equitable allocation and delivery of diagnostic tests for Covid-19 worldwide [6].

The WHO EDL acts as a policy tool for countries to create their own national EDLs based on local contexts and needs, a process so far undertaken by Bangladesh, India, Nigeria and Pakistan [7, 8]. To create such a national EDL, and to aid health system planning, resource allocation and the training of healthcare workers, it is vital to understand both the most common symptoms with which patients present to primary care, often known as patient reasons for encounter (RFEs), and the most common provider diagnoses. Along with other sources of data such as the major causes of death and disability in a country, this information will guide the range of diagnostics required at the primary care level. Knowing the most common reasons for primary care will allow WHO, FIND and country governments to develop a package of essential tests for primary care.

The WHO is currently in discussions with other LMICs, mostly in Africa, to create their own national EDLs [7]. However, little published information is available on the reasons for primary care visits in LMICs. To our knowledge, only one systematic review, published in 2018, has summarized data on reasons for primary care visits globally [9]. It included data from only three LMICs (India, Serbia and South Africa) and pooled all studies together so the most common reasons for PHC visits in LMICs could not be distinguished from the global data which mostly focused on high-income countries (HICs). Our systematic review provides an updated summary of the reasons for primary care visits, focusing exclusively on LMICs.

Methods

The protocol for this review was registered at the International Prospective Register of Systematic Reviews (PROSPERO), identifier CRD42020159469 [10]. Patients or the public were not involved in the design, or conduct, or reporting, or dissemination plans of our research.

Search strategy

In our initial searches, MEDLINE, EMBASE, Global Health, Web of Science Core Collection, CINAHL, LILACS were searched for papers published between 1st January, 2009 and 12th December, 2019. Subsequently, we updated the search on MEDLINE until 1st January 2021. The search strategy was developed in consultation with a librarian (GG) and based on terms relating to “primary care” and “conditions” or “reasons” for the visit [S1 Appendix]. No restrictions on language were applied to the search. We also reviewed the papers included in the previous systematic review on this topic [9].

Study selection

Four reviewers (JB, NAV, LH and PA) conducted the title/abstract screening, with each title/abstract independently screened by a combination of two of the four reviewers. Full text screening of included titles/abstracts was independently conducted by two reviewers (JB and PA). Articles were assessed using pre-defined inclusion and exclusion criteria, with conflicts resolved through discussion between reviewers.

Quantitative observational studies and mixed-methods studies with a quantitative observational component were included. Qualitative studies, modelling studies, economic evaluations, interventional studies and case-control studies were excluded. Studies conducted in primary care settings in LMICs (defined using the World Bank classification system [11]) reporting a minimum of five distinct RFEs or provider diagnoses were included. Studies with a data collection period of at least three months were included, though data collection did not have to occur continuously throughout the three months. Studies focusing only on specific types of visits (e.g. follow-up visits for acute conditions, referred visits, routine examinations) were excluded. Studies that selected the population based on particular symptoms (e.g. patients with fever, children with respiratory symptoms) were excluded. Studies that selected the population based on particular morbidities (e.g. HIV-positive patients, diabetic patients) or were conducted exclusively in specialized care settings (e.g. sexually transmitted infection clinics, specialized medical departments) were excluded. Studies in which data collection occurred before 1st January, 2009 were excluded. Studies not published in English or French were excluded. Editorials, commentaries, conference abstracts and grey literature were excluded.

Khai thác dữ liệu

Dữ liệu được trích xuất bằng mẫu trích xuất được tiêu chuẩn hóa trong các biểu mẫu của Google, đã được thí điểm trước. Ba người đánh giá (JB, EM và PA) đã tiến hành trích xuất dữ liệu, với dữ liệu từ mỗi bài báo được trích xuất độc lập bởi sự kết hợp của hai trong số ba người đánh giá. Dữ liệu được trích xuất được so sánh và bất kỳ sự khác biệt nào đã được giải quyết thông qua thảo luận giữa những người đánh giá. Dữ liệu được trích xuất bao gồm: Quốc gia nghiên cứu, thời gian thu thập dữ liệu, loại cơ sở chăm sóc sức khỏe, loại nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, ngành chăm sóc sức khỏe, nhân khẩu học bệnh nhân, nguồn dữ liệu kết quả, hệ thống phân loại được sử dụng, tổng số lần thăm khám hoặc bệnh nhân, số lượng điều kiện được báo cáo, tần suất của các điều kiện khác nhau.

Đánh giá chất lượng

Một công cụ đánh giá chất lượng đã được điều chỉnh từ công việc của Hoy et al [12] để sử dụng trong nghiên cứu này. Công cụ này có bảy lĩnh vực, đánh giá: liệu dân số mục tiêu nghiên cứu có phải là đại diện chặt chẽ của dân số quốc gia hay không; Liệu các cơ sở PHC được lấy mẫu có phải là một đại diện chặt chẽ của các cơ sở PHC trong khu vực mục tiêu hay không; Làm thế nào mẫu của các lần khám bệnh nhân được chọn; Làm thế nào mẫu của nhân viên chăm sóc sức khỏe được chọn; Liệu cùng một chế độ thu thập dữ liệu được sử dụng cho tất cả các đối tượng; liệu các biện pháp kết quả có được ghi lại một cách nhất quán và hợp lệ hay không; và liệu các tử số và mẫu số có phù hợp hay không. [Phụ lục S2].

Đánh giá chất lượng được thực hiện độc lập bởi hai nhà phê bình (JB và PA) cho tất cả các nghiên cứu bao gồm. Những bất đồng đã được giải quyết thông qua thảo luận giữa các nhà phê bình. Tất cả các nghiên cứu được đánh giá đã được đưa vào, bất kể kết quả đánh giá chất lượng.

Phân tích dữ liệu

Các nghiên cứu khác nhau đã sử dụng các hệ thống phân loại bệnh khác nhau, bao gồm phân loại quốc tế về chăm sóc chính phiên bản 2 (ICPC-2), phân loại quốc tế về sửa đổi thứ 10 (ICD-10) và các hệ thống phân loại nội bộ. ICD-10 phân loại các bệnh theo chẩn đoán của nhà cung cấp, chẳng hạn như tăng huyết áp (nguyên phát) (I10). ICPC-2 phân loại các bệnh theo RFE của bệnh nhân, chẳng hạn như sốt (A03) và bằng chẩn đoán của nhà cung cấp, chẳng hạn như tăng huyết áp, không biến chứng (K86).

Cả ICD-10 và ICPC-2 đều được tổ chức thành các chương dựa trên các hệ thống cơ thể, chẳng hạn như Chương IX: Bệnh của hệ thống tuần hoàn và một số nghiên cứu trình bày tổng số tổng số của số lượng chẩn đoán nhà cung cấp trong mỗi chương. Tổng số được tổng hợp theo chương không được coi là hữu ích cho các mục đích của tổng quan này, vì chúng không cung cấp đủ chi tiết về các chẩn đoán hoặc RFE của nhà cung cấp chính xác để giúp thông báo cho việc lập kế hoạch hệ thống y tế hoặc tạo ra các EDL quốc gia, và vì vậy chúng không được gộp lại.

Các nghiên cứu được gộp lại nếu ít nhất ba nghiên cứu sử dụng cùng một hệ thống phân loại đã trình bày dữ liệu về chẩn đoán hoặc RFE. Dữ liệu từ các nghiên cứu sử dụng các hệ thống phân loại khác nhau không được gộp lại, vì không thể chuyển đổi đáng tin cậy giữa các hệ thống phân loại khác nhau mà không truy cập vào dữ liệu bệnh nhân riêng lẻ. Các nghiên cứu sử dụng các hệ thống phân loại nội bộ không được gộp chung.

Dữ liệu được gộp qua một hệ thống tổng xếp hạng. Đối với mỗi nghiên cứu, chẩn đoán nhà cung cấp và RFE bệnh nhân được xếp hạng từ hầu hết đến ít phổ biến nhất. Số lượng chẩn đoán nhà cung cấp được xếp hạng được xác định bởi nghiên cứu báo cáo số lượng chẩn đoán nhà cung cấp thấp nhất. Ví dụ, trong số các nghiên cứu sử dụng ICPC-2, số lượng chẩn đoán nhà cung cấp thấp nhất được báo cáo là 10 vì vậy 10 chẩn đoán nhà cung cấp hàng đầu trong mỗi nghiên cứu được xếp hạng. Chẩn đoán nhà cung cấp phổ biến nhất trong mỗi nghiên cứu được chỉ định thứ hạng 10, chương phổ biến thứ hai được chỉ định xếp hạng 9, v.v. Xếp hạng từ mỗi nghiên cứu được kết hợp và xếp hạng trung bình được xác định. Quá trình tương tự đã được theo dõi để xếp hạng RFE.

Kết quả

Lựa chọn học tập

Sau khi sao chép, 22.279 hồ sơ đã được xác định. Tổng cộng có 21.938 hồ sơ đã được loại trừ sau khi sàng lọc tiêu đề và trừu tượng. Trong số 341 nghiên cứu còn lại, không thể lấy được ba văn bản đầy đủ và thêm 321 lần nữa sau khi xem xét toàn văn. Ba lý do hàng đầu để loại trừ toàn văn là thu thập dữ liệu diễn ra trước ngày 1 tháng 1 năm 2009, các nghiên cứu báo cáo ít hơn năm chẩn đoán hoặc lý do cho các lần khám và nghiên cứu là thiết kế sai (ví dụ: nghiên cứu kiểm soát trường hợp) [Hình 1]. 17 nghiên cứu đã được đưa vào đánh giá. Đặc điểm nghiên cứu chi tiết được thể hiện trong Bảng 1.

Các nghiên cứu bao gồm đại diện cho bảy LMIC: Bangladesh (n = 1), Brazil (n = 3), Campuchia (n = 1), Ấn Độ (n = 7), Malaysia (n = 1), Nigeria (n = 2) và Nam Phi (n = 2). Mỗi quốc gia này là một quốc gia có thu nhập trung bình (MIC) Các nghiên cứu có dữ liệu từ các quốc gia có thu nhập thấp (LIC).

Số lượng các cơ sở chăm sóc sức khỏe cho mỗi nghiên cứu dao động từ một đến 204 (trung bình một, phạm vi liên vùng (IQR) 1 Vang4). Số lượng lượt truy cập được báo cáo trong mỗi nghiên cứu dao động từ 310 đến 73.236 (trung bình 3.294, IQR 487 Phản17.672) và không được báo cáo cho năm nghiên cứu. Số lượng chẩn đoán được báo cáo trong mỗi nghiên cứu dao động từ 310 đến 107.016 (trung bình 5.692, IQR 546, 31,451) và không được báo cáo cho hai nghiên cứu. Các nguồn dữ liệu là hồ sơ y tế cho 10 nghiên cứu [15 Ném19, 21, 23, 25, 26, 28], Câu hỏi của nhà cung cấp cho năm nghiên cứu [13, 20, 22, 27, 29], phỏng vấn bệnh nhân cho một nghiên cứu [14 ] và không rõ ràng cho một nghiên cứu [24].

Đánh giá chất lượng

Bảng 2 cho thấy các đánh giá chất lượng cho các nghiên cứu bao gồm. Nguy cơ sai lệch cao đối với 16 trong số 17 nghiên cứu trong lĩnh vực dân số quốc gia do các nghiên cứu chỉ được thực hiện ở một tỉnh hoặc khu vực của một quốc gia, và do đó không phải là đại diện chặt chẽ của dân số quốc gia. Nguy cơ sai lệch cao đối với 12 trong số 17 nghiên cứu trong lĩnh vực lấy mẫu cơ sở do các cơ sở chăm sóc sức khỏe được lấy mẫu không phải là đại diện chặt chẽ của tỉnh hoặc khu vực mà chúng được rút ra. Nguy cơ sai lệch là thấp đối với 13 nghiên cứu trong lĩnh vực đo lường kết quả, 14 nghiên cứu trong lĩnh vực lấy mẫu truy cập, 16 nghiên cứu trong lĩnh vực lấy mẫu nhân viên chăm sóc sức khỏe và cho tất cả các nghiên cứu trong việc thu thập dữ liệu và tử số và mẫu số.

Dữ liệu gộp

Các hệ thống phân loại được sử dụng là ICPC-2 cho sáu nghiên cứu [14, 22, 25, 27 Ném29], ICD-10 cho bốn nghiên cứu (17 Ném19, 24), trong nhà hoặc không rõ ràng cho sáu nghiên cứu [13, 15, 16, 20, 21, 23] và từ điển y tế cho lớp cơ quan hệ thống hoạt động điều tiết cho một nghiên cứu [26]. Trong số bốn nghiên cứu sử dụng ICD-10, ba nghiên cứu đã trình bày tổng số về số lượng chẩn đoán nhà cung cấp trong mỗi chương và chỉ có một người bao gồm chẩn đoán nhà cung cấp cụ thể. Kết quả không được giải quyết từ các nghiên cứu bao gồm chẩn đoán nhà cung cấp cụ thể (một người sử dụng ICD-10 [19] và ba [29] được hiển thị trong Phụ lục S3.

Bốn nghiên cứu (Chueiri 2020 [14], Mash 2012 [22], Olagundoye 2016 [25] và Swain 2017 [28]) sử dụng dữ liệu chứa ICPC-2 trên cả RFE và chẩn đoán nhà cung cấp ở người lớn và được gộp lại. Chín RFE hàng đầu đã được xếp hạng. Năm RFE phổ biến nhất là đau đầu (N01), sốt (A03), triệu chứng lưng/triệu chứng lưng thấp (L02, L03), ho (R05) và đau đa dạng/nhiều vị trí (A01).

10 chẩn đoán nhà cung cấp hàng đầu đã được xếp hạng. Năm chẩn đoán nhà cung cấp phổ biến nhất là tăng huyết áp, không biến chứng (K86), nhiễm trùng đường hô hấp trên (R74), tiểu đường loại 2 (T90), sốt rét (A73) và duy trì/phòng ngừa sức khỏe (A98). [Bàn số 3]. Dữ liệu thô từ các nghiên cứu gộp được trình bày trong Phụ lục S3 để tham khảo.

Thảo luận

Hiểu các RFE của bệnh nhân và chẩn đoán nhà cung cấp trong chăm sóc chính trong LMIC có tầm quan trọng về sức khỏe toàn cầu quan trọng, vì thông tin này sẽ hướng dẫn phạm vi chẩn đoán cần thiết ở cấp độ chăm sóc chính của mỗi quốc gia. Ví dụ, bệnh sốt rét thường bị chẩn đoán quá mức ở những bệnh nhân mắc bệnh sốt trong các cơ sở trong LMIC, không tiếp cận được với chẩn đoán và điều trị giả định thích hợp được đưa ra, dẫn đến kết quả kém và sự phát triển của kháng kháng sinh [30. Ngoài ra, việc thu thập thông tin như vậy có thể giúp xác định các yêu cầu chẩn đoán của các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe chăm sóc chính trong các môi trường khác nhau và do đó hướng dẫn trọng tâm của nghiên cứu và phát triển trong tương lai trong các công nghệ chẩn đoán. Ngoài việc hướng dẫn sự lựa chọn chẩn đoán thiết yếu, RFE có một loạt các mục đích sử dụng khác. Họ có thể giúp hướng dẫn sự lựa chọn các loại thuốc thiết yếu, để hiểu các mô hình tìm kiếm chăm sóc trong các cài đặt khác nhau và chúng có thể là một đầu vào có giá trị cho các nỗ lực cải thiện chất lượng nhu cầu. Năm RFE gộp hàng đầu ở người lớn là đau đầu, sốt, sau hoặc các triệu chứng lưng, ho và đau đa dạng/nhiều vị trí. Năm chẩn đoán nhà cung cấp gộp hàng đầu là tăng huyết áp không biến chứng, nhiễm trùng đường hô hấp trên, tiểu đường loại 2, sốt rét và duy trì/phòng ngừa sức khỏe. Đáng chú ý là 10 chẩn đoán hàng đầu khác nhau giữa các nghiên cứu nhiều hơn đáng kể so với 10 RFE hàng đầu. Các chẩn đoán về HIV/AIDS và bệnh lao chỉ xuất hiện trong Mash 2012 [22] từ Nam Phi trong khi bệnh sốt rét chỉ xuất hiện ở Olagundoye 2016 [25] từ Nigeria, trong đó nó là chẩn đoán phổ biến nhất. Mang thai chỉ xuất hiện trong Chueiri 2020 [14], mặc dù tỷ lệ mang thai trong chăm sóc chính phụ thuộc vào nhân khẩu học của khu vực hoặc quốc gia và tổ chức các dịch vụ y tế bà mẹ.

These findings show the importance of creating country-specific lists of essential diagnostics for primary care, as patients presenting with similar symptoms in different parts of the world may have substantially different disease patterns which require different diagnostic tools. Disease patterns may also vary substantially within countries, based on national disease burden. The development of multiplex or multi-disease molecular or point-of-care tests for fever-causing pathogens would be highly valuable but present a range of technical challenges [34].

A previous systematic review, mostly comprising data from HICs, had cough, back or spinal pain, unspecified abdominal condition, pharyngitis and dermatitis as the top five RFEs, with fever and headache only the sixth and seventh most common RFEs, respectively [9]. Upper respiratory tract infection and hypertension appeared in the top three provider diagnoses of the previous review, showing the overlap in diseases between LMICs and HICs, although the pathogens causing upper respiratory tract infections are likely to vary between locations.

Two of the three top provider diagnoses in this review are non-communicable diseases (NCDs), reflecting the increasing burden of NCDs in LMICs [35]. Uncomplicated hypertension causes no symptoms, as does type 2 diabetes in many cases, showing the importance of screening for diseases unrelated to patient RFEs. Diagnostics for hypertension and type 2 diabetes are simple and should be available at all PHCs, but diagnosis remains the weakest link in the cascade of care for these common NCDs in LMICs [36, 37].

The lack of psychological symptoms or disorders in the pooled lists of RFEs is striking. Despite mental and addictive disorders causing an estimated 7% of the entire global burden of disease [38], none of the top 9 pooled RFEs were psychological symptoms. Mash 2012 [22] reported the top 56 RFEs in their study, none of which were psychological symptoms, and concluded that “providers appears to be failing to recognise and treat mental health problems such as depression and anxiety disorders” in the four provinces they studied in South Africa. Swain 2017 [28] suggested that the lack of psychological RFEs among the 17 reported in their study may be due to stigma and culturally influenced health-seeking behaviour among the communities in their context in India. Chueiri 2020 [14] noted the unexpectedly low rate of psychological RFEs in their national survey of Brazil when compared to data from the Global Burden of Disease Study for Brazil [39] but did not suggest a reason for this finding.

The four studies which reported RFEs and provider diagnoses using ICPC-2 were at low risk of bias in most domains. However, three of the four were at high risk of bias in the national population domain, making comparison of their results problematic in a global perspective as they cannot be said to be representative even of their own national populations.

Where possible, future studies should aim to randomly sample primary care facilities from across their country of study, or to provide countrywide data from a national primary care database, if available. Ideally, studies should use ICPC-3 as it is designed for classifying primary care encounters, it allows reporting of both RFEs and specific diagnoses and unlike in-house classification systems, it is easily comparable between studies. ICPC-3 codes should be included with RFEs and specific diagnoses, with the numbers of included patients, visits, diagnoses and RFEs clearly identified. Data for each code should be presented separately, with no combining of codes. An electronic version of ICPC-3 is available for free on the ICPC-3 website [40]. If ICPC-3 cannot be used, another validated classification system such as ICD-11 should be used instead.

Strengths of this systemic review include a comprehensive literature search, detailed data on the characteristics of each study and an analysis of the strengths and limitations of different classification systems for recording reasons for primary care visits in LMICs. Additionally, using a non-parametric approach to pooling data, involving ranking RFEs and provider diagnoses and summing the ranks, enabled comparison of highly heterogenous data.

Limitations are that the variations in the classification systems used between studies made it difficult to directly compare most of the studies with each other. Only three studies could be pooled but even within these three, problems emerged with pooling. For example, in the RFEs Mash 2012 [23] provided combined data for back symptom (L02) and low back symptom (L03) whereas Olagundoye 2016 [18] and Swain 2017 [20] presented the two categories separately. Similarly, for provider diagnoses Mash 2012 combined the gastroenteritis presumed (D73) and diarrhoea (D11) categories whereas Olagundoye 2016 presented gastroenteritis presumed (D73) separately. It is unclear why Mash 2012 combined codes in a few select instances but presented most codes separately. Of the four pooled studies, one reported data from a three-month period so may not account for seasonal variation in disease presentation [25]. Additionally, we restricted our search to articles in English and French and did not include grey literature.

Với sự không đồng nhất đáng kể trong số các lý do phổ biến nhất cho các chuyến thăm chăm sóc chính cả giữa và trong các quốc gia, phân tích theo quốc gia hoặc địa phương có thể được ưu tiên hơn để xem xét toàn cầu để thông báo cho các EDL cụ thể của quốc gia. Ngoài ra, thông tin quốc gia hoặc địa phương có thể được lưu trữ trong các hệ thống thông tin y tế quốc gia, thay vì được công bố trên các tạp chí đánh giá ngang hàng. Tuy nhiên, chất lượng của dữ liệu được thu thập thường xuyên từ các cơ sở y tế là một mối quan tâm, trong khi các nghiên cứu nghiên cứu có thể cung cấp dữ liệu đáng tin cậy hơn. Ngoài ra, các phát hiện từ nghiên cứu này cho thấy rằng thông tin như vậy được công bố trên các tạp chí đánh giá ngang hàng, thường có dữ liệu từ hàng chục ngàn cuộc gặp gỡ của bệnh nhân và các đánh giá có hệ thống như điều này có giá trị để biên dịch và tóm tắt dữ liệu có sẵn.

Tổng quan hệ thống này đã tìm thấy 17 nghiên cứu từ bảy LMIC, không ai trong số đó LIC, báo cáo dữ liệu về RFE và chẩn đoán nhà cung cấp trong chăm sóc chính. Tuy nhiên, dữ liệu từ hầu hết các nghiên cứu không thể được gộp lại. Nhức đầu, sốt, các triệu chứng lưng hoặc lưng thấp, ho và đau tổng quát/nhiều vị trí là RFE gộp phổ biến nhất nhưng các bệnh gây ra các triệu chứng này thay đổi đáng kể giữa các cài đặt, cho thấy tầm quan trọng của việc tạo ra danh sách chẩn đoán cần thiết cụ thể về vị trí đối với chăm sóc chính. Các nghiên cứu trong tương lai nên nhằm mục đích lấy mẫu các cơ sở chăm sóc chính từ khắp quốc gia nghiên cứu và sử dụng ICPC-3 của họ để báo cáo cả RFE và chẩn đoán của nhà cung cấp bệnh nhân. Cụ thể, các nghiên cứu về lý do các chuyến thăm chăm sóc chính trong LIC là bắt buộc.

Thông tin hỗ trợ

Người giới thiệu

  1. 1. Tổ chức Y tế Thế giới UNCSFU. Tầm nhìn chăm sóc sức khỏe ban đầu trong thế kỷ 21: Hướng tới bảo hiểm y tế toàn cầu và các mục tiêu phát triển bền vững. 2018.World Health Organization UNCsFU. A vision for primary health care in the 21st century: towards universal health coverage and the Sustainable Development Goals. 2018.
    • Xem bài viết
    • Học giả Google
  2. 2. Tổ chức Y tế Thế giới. Chăm sóc sức khỏe ban đầu 2021. Có sẵn từ: //www.who.int/news-room/fact-heets/detail/primary-tealth-care.World Health Organization. Primary health care 2021. Available from: //www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/primary-health-care.
    • 3. Tổ chức Y tế Thế giới. Việc lựa chọn và sử dụng chẩn đoán in vitro cần thiết: Báo cáo về cuộc họp thứ ba của nhóm chuyên gia tư vấn chiến lược của WHO về chẩn đoán in vitro, năm 2020 (bao gồm danh sách người thứ ba mô hình chẩn đoán in vitro cần thiết). Geneva: Tổ chức Y tế Thế giới, 2021.World Health Organization. The selection and use of essential in vitro diagnostics: report of the third meeting of the WHO Strategic Advisory Group of Experts on In Vitro Diagnostics, 2020 (including the third WHO model list of essential in vitro diagnostics). Geneva: World Health Organization, 2021.
      • 4. Wilson ML, Atun R, Destigter K, Flanigan J, Fleming KA, Horton S, et al. Ủy ban chẩn đoán Lancet: thúc đẩy tiếp cận công bằng vào chẩn đoán. Đầu ngón. 2019; 393 (10185): 20182020. PMID: 31106735Wilson ML, Atun R, DeStigter K, Flanigan J, Fleming KA, Horton S, et al. The Lancet Commission on diagnostics: advancing equitable access to diagnostics. The Lancet. 2019;393(10185):2018–20. pmid:31106735
        • Xem bài viết
        • Học giả Google
        • Học giả Google
      • 2. Tổ chức Y tế Thế giới. Chăm sóc sức khỏe ban đầu 2021. Có sẵn từ: //www.who.int/news-room/fact-heets/detail/primary-tealth-care.Kohli M, Walia K, Mazumdar S, Boehme CC, Katz Z, Pai M. Availability of essential diagnostics in primary care in India. The Lancet Infectious Diseases. 2018;18(10):1064–5. pmid:30303097
        • Xem bài viết
        • Học giả Google
        • Học giả Google
      • 2. Tổ chức Y tế Thế giới. Chăm sóc sức khỏe ban đầu 2021. Có sẵn từ: //www.who.int/news-room/fact-heets/detail/primary-tealth-care.Foundation for Innovative New Diagnostics. About the ACT-Accelerator 2021. Available from: //www.finddx.org/covid-19/act-accelerator/.
        • 3. Tổ chức Y tế Thế giới. Việc lựa chọn và sử dụng chẩn đoán in vitro cần thiết: Báo cáo về cuộc họp thứ ba của nhóm chuyên gia tư vấn chiến lược của WHO về chẩn đoán in vitro, năm 2020 (bao gồm danh sách người thứ ba mô hình chẩn đoán in vitro cần thiết). Geneva: Tổ chức Y tế Thế giới, 2021.World Health Organization. WHO publishes new Essential Diagnostics List and urges countries to prioritize investments in testing 2021 [08/07/21]. Available from: //www.who.int/news/item/29-01-2021-who-publishes-new-essential-diagnostics-list-and-urges-countries-to-prioritize-investments-in-testing.
          • Xem bài viết
          • Học giả Google
        • 2. Tổ chức Y tế Thế giới. Chăm sóc sức khỏe ban đầu 2021. Có sẵn từ: //www.who.int/news-room/fact-heets/detail/primary-tealth-care.Indian Council of Medical Research. National Essential Diagnostics List. New Delhi: 2019.
          • 3. Tổ chức Y tế Thế giới. Việc lựa chọn và sử dụng chẩn đoán in vitro cần thiết: Báo cáo về cuộc họp thứ ba của nhóm chuyên gia tư vấn chiến lược của WHO về chẩn đoán in vitro, năm 2020 (bao gồm danh sách người thứ ba mô hình chẩn đoán in vitro cần thiết). Geneva: Tổ chức Y tế Thế giới, 2021.Finley CR, Chan DS, Garrison S, Korownyk C, Kolber MR, Campbell S, et al. What are the most common conditions in primary care? Systematic review. Can Fam Physician. 2018;64(11):832–40. Epub 2018/11/16. pmid:30429181; PubMed Central PMCID: PMC6234945.
            • Xem bài viết
            • Học giả Google
            • Học giả Google
          • 2. Tổ chức Y tế Thế giới. Chăm sóc sức khỏe ban đầu 2021. Có sẵn từ: //www.who.int/news-room/fact-heets/detail/primary-tealth-care.Adam PK, Mikashmi ; Bigio Jacob; Pai Madhukar. Most common reasons for primary care visits in low-and-middle income countries: a systematic review: PROSPERO 2020 CRD42020159469; 2020. Available from: //www.crd.york.ac.uk/prospero/display_record.php?ID=CRD42020159469.
            • 3. Tổ chức Y tế Thế giới. Việc lựa chọn và sử dụng chẩn đoán in vitro cần thiết: Báo cáo về cuộc họp thứ ba của nhóm chuyên gia tư vấn chiến lược của WHO về chẩn đoán in vitro, năm 2020 (bao gồm danh sách người thứ ba mô hình chẩn đoán in vitro cần thiết). Geneva: Tổ chức Y tế Thế giới, 2021.World Bank. World Bank Country and Lending Groups 2021. Available from: //datahelpdesk.worldbank.org/knowledgebase/articles/906519-world-bank-country-and-lending-groups.
              • 4. Wilson ML, Atun R, Destigter K, Flanigan J, Fleming KA, Horton S, et al. Ủy ban chẩn đoán Lancet: thúc đẩy tiếp cận công bằng vào chẩn đoán. Đầu ngón. 2019; 393 (10185): 20182020. PMID: 31106735Hoy D, Brooks P, Woolf A, Blyth F, March L, Bain C, et al. Assessing risk of bias in prevalence studies: modification of an existing tool and evidence of interrater agreement. J Clin Epidemiol. 2012;65(9):934–9. Epub 2012/06/30. pmid:22742910.
                • Xem bài viết
                • Học giả Google
                • Học giả Google
              • 2. Tổ chức Y tế Thế giới. Chăm sóc sức khỏe ban đầu 2021. Có sẵn từ: //www.who.int/news-room/fact-heets/detail/primary-tealth-care.Begum M, Khan MK, Hossain MT, Ali MY, Alam FS, Dipu SS, et al. Disease Pattern among Children attending Pediatric Outpatient Department in Community Based Medical College Hospital, Bangladesh. Mymensingh Med J. 2017;26(4):863–7. Epub 2017/12/07. pmid:29208876.
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Reasons for encounter in primary health care in Brazil. Fam Pract. 2020;37(5):648–54. Epub 2020/04/17. pmid:32297637.
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Doyle AM, McHunu L, Koole O, Mthembu S, Dlamini S, Ngwenya N, et al. Primary healthcare and school health service utilisation by adolescents and young adults in KwaZulu-Natal, South Africa. BMC Health Services Research. 2019;19(1):905. pmid:31779631
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Enato E, Sounyo A, Madadi P. Assessment of disease profiles and drug prescribing patterns of health care facilities in Edo State, Nigeria. Journal of Public Health in Africa. 2012;3:101–6.
                • Xem bài viết
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Gupta A, Chellaiyan V, Lohiya A, Suliankatchi R, Upadhyay R, Chinnakali P. Morbidity profile of out-patients attending a Primary Health Centre in rural Puducherry, south India. National Journal of Community Medicine. 2014;Natl J Com-munity Med 2014: 5(4);424–7.
                • Xem bài viết
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Gupta A, Reddy BV, Nagar MK, Chandel A, Bali S. Portfolio of Outpatients Attending Centre for Urban Health, Madhya Pradesh, Central India. Health Serv Res Manag Epidemiol. 2015;2:2333392815598291-. pmid:28462259.
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Kamarudin MF, Noh KM, Jaafar S. Morbidity profiles at three primary care clinics in Perlis, Malaysia. Med J Malaysia. 2012;67(4):363–8. Epub 2012/10/23. pmid:23082442.
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Kshirsagar VD, Rajderkar S, Aldar S, Wetam S. Socio-Demographic Profile and Morbidity Pattern of Patients in A Rural Field Practice Area of Government Medical College, Miraj, Maharashtra. National journal of community medicine. 2019;10:308–11.
                • Xem bài viết
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Kumar R, Kaur N, Pilania M. Morbidity Pattern of Patients Attending a Primary Healthcare Facility in an Urban Slum of Chandigarh, India. Journal of Clinical and Diagnostic Research. 2018;12:10–3.
                • Xem bài viết
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Mash B, Fairall L, Adejayan O, Ikpefan O, Kumari J, Mathee S, et al. A Morbidity Survey of South African Primary Care. PLOS ONE. 2012;7(3):e32358. pmid:22442666
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Merali HS, Morgan JF, Uk S, Phlan S, Wang LT, Korng S. The Lake Clinic—providing primary care to isolated floating villages on the Tonle Sap Lake, Cambodia. Rural Remote Health. 2014;14:2612. Epub 2014/05/09. pmid:24811837.
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Mohan M, Dharmendra M, kumar C, Singh S. Morbidity Pattern In Rural Area Of Jaipur District (Rajasthan). Journal of Research in Medical and Dental Science. 2014;2:79.
                • Xem bài viết
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Olagundoye OA, van Boven K, van Weel C. International Classification of Primary Care-2 coding of primary care data at the general out-patients’ clinic of General Hospital, Lagos, Nigeria. J Family Med Prim Care. 2016;5(2):291–7. pmid:27843830.
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Prabhune A, Manoharan A. Assessment of Healthcare Utilization in a Community-Centric Model of Primary Healthcare for Rural Populations. Indian Journal of Public Health Research & Development. 2017;8(4).
                • Xem bài viết
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Silva V, Pereira I, Rocha M, Caldeira A. Morbidity in users of Family Health teams in the northeast of Minas Gerais based on the International Classification of Primary Care. Revista Brasileira de Epidemiologia. 2014;17:954–67. pmid:25388494
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Swain S, Pati S, Pati S. A chart review of morbidity patterns among adult patients attending primary care setting in urban Odisha, India: An International Classification of Primary Care experience. J Family Med Prim Care. 2017;6(2):316–22. Epub 2018/01/06. pmid:29302540; PubMed Central PMCID: PMC5749079.
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Torres Rde C, Marques KS, Leal Kde N, Rocha-Filho PA. Main reasons for medical consultations in family healthcare units in the city of Recife, Brazil: a cross-sectional study. Sao Paulo Med J. 2015;133(4):367–70. Epub 2015/11/01. pmid:26517148.
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 14. Chueiri PS, Gonçalves MR, Hauser L, Wollmann L, Mengue SS, Roman R, et al. Lý do gặp phải trong chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Brazil. Fam thực hành. 2020; 37 (5): 648 Từ54. EPUB 2020/04/17. PMID: 32297637.Ansah EK, Narh-Bana S, Epokor M, Akanpigbiam S, Quartey AA, Gyapong J, et al. Rapid testing for malaria in settings where microscopy is available and peripheral clinics where only presumptive treatment is available: a randomised controlled trial in Ghana. Bmj. 2010;340:c930. Epub 2010/03/09. pmid:20207689; PubMed Central PMCID: PMC2833239 at www.icmje.org/coi_disclosure.pdf
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 31. Acta Trop. 2017; 171: 58 Từ63. EPUB 2017/03/31. PMID: 28356231.Manguin S, Foumane V, Besnard P, Fortes F, Carnevale P. Malaria overdiagnosis and subsequent overconsumption of antimalarial drugs in Angola: Consequences and effects on human health. Acta Trop. 2017;171:58–63. Epub 2017/03/31. pmid:28356231.
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 31. Acta Trop. 2017; 171: 58 Từ63. EPUB 2017/03/31. PMID: 28356231.Leslie T, Mikhail A, Mayan I, Anwar M, Bakhtash S, Nader M, et al. Overdiagnosis and mistreatment of malaria among febrile patients at primary healthcare level in Afghanistan: observational study. BMJ: British Medical Journal. 2012;345:e4389. pmid:22833603
                • Xem bài viết
                • PubMed/NCBI
                • Học giả Google
              • 31. Acta Trop. 2017; 171: 58 Từ63. EPUB 2017/03/31. PMID: 28356231.Oladosu OO, Oyibo WA. Overdiagnosis and Overtreatment of Malaria in Children That Presented with Fever in Lagos, Nigeria. ISRN Infectious Diseases. 2013;2013:914675.
                • Xem bài viết
                • Học giả Google
              • 31. Acta Trop. 2017; 171: 58 Từ63. EPUB 2017/03/31. PMID: 28356231.Unitaid. Fever diagnostic technology landscape, 1st edition. 2018.
                • 32. Leslie T, Mikhail A, Mayan I, Anwar M, Bakhtash S, Nader M, et al. Việc chẩn đoán quá mức và ngược đãi sốt rét ở bệnh nhân sốt ở cấp độ chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Afghanistan: nghiên cứu quan sát. BMJ: Tạp chí Y khoa Anh. 2012; 345: E4389. PMID: 22833603Gibbs N, Kwon J, Balen J, Dodd PJ. Operational research to support equitable non-communicable disease policy in low-income and middle-income countries in the sustainable development era: a scoping review. BMJ Global Health. 2020;5(6):e002259. pmid:32605934
                  • Xem bài viết
                  • PubMed/NCBI
                  • Học giả Google
                • 31. Acta Trop. 2017; 171: 58 Từ63. EPUB 2017/03/31. PMID: 28356231.Geldsetzer P, Manne-Goehler J, Marcus ME, Ebert C, Zhumadilov Z, Wesseh CS, et al. The state of hypertension care in 44 low-income and middle-income countries: a cross-sectional study of nationally representative individual-level data from 1·1 million adults. Lancet. 2019;394(10199):652–62. Epub 2019/07/23. pmid:31327566.
                  • Xem bài viết
                  • PubMed/NCBI
                  • Học giả Google
                • 31. Acta Trop. 2017; 171: 58 Từ63. EPUB 2017/03/31. PMID: 28356231.Manne-Goehler J, Geldsetzer P, Agoudavi K, Andall-Brereton G, Aryal KK, Bicaba BW, et al. Health system performance for people with diabetes in 28 low- and middle-income countries: A cross-sectional study of nationally representative surveys. PLOS Medicine. 2019;16(3):e1002751. pmid:30822339
                  • Xem bài viết
                  • PubMed/NCBI
                  • Học giả Google
                • 31. Acta Trop. 2017; 171: 58 Từ63. EPUB 2017/03/31. PMID: 28356231.Rehm J, Shield KD. Global Burden of Disease and the Impact of Mental and Addictive Disorders. Curr Psychiatry Rep. 2019;21(2):10. Epub 2019/02/08. pmid:30729322.
                  • Xem bài viết
                  • PubMed/NCBI
                  • Học giả Google
                • 31. Acta Trop. 2017; 171: 58 Từ63. EPUB 2017/03/31. PMID: 28356231.Marinho F, de Azeredo Passos VM, Carvalho Malta D, Barboza França E, Abreu DMX, Araújo VEM, et al. Burden of disease in Brazil, 1990–2016: a systematic subnational analysis for the Global Burden of Disease Study 2016. The Lancet. 2018;392(10149):760–75. pmid:30037735
                  • Xem bài viết
                  • PubMed/NCBI
                  • Học giả Google
                • 31. Acta Trop. 2017; 171: 58 Từ63. EPUB 2017/03/31. PMID: 28356231.ICPC-3 Consortium. ICPC-3 Browser 2021 [08/07/21]. Available from: //browser.icpc-3.info/.

                  Các chẩn đoán phổ biến nhất trong chăm sóc chính là gì?

                  Năm 2021, tăng huyết áp (nguyên phát) là chẩn đoán chăm sóc chính phổ biến nhất, với hơn 28 triệu chẩn đoán được báo cáo. Thứ hai là tăng lipid máu, không xác định, với 12.659.523 chẩn đoán. Thứ ba là đái tháo đường týp 2 mà không có biến chứng, với 8,566.845 chẩn đoán.essential (primary) hypertension was the most common primary care diagnosis, with over 28 million diagnoses reported. The second was hyperlipidemia, unspecified, with 12,659,523 diagnoses. The third was type 2 diabetes mellitus without complications, with 8,566,845 diagnoses.

                  Một số bệnh phổ biến có trong một cơ sở chăm sóc chính là gì?

                  Một số bệnh phổ biến được điều trị bởi các bác sĩ chăm sóc chính bao gồm những điều sau đây:..
                  Viêm phế quản.Một bệnh tật phổ biến, viêm phế quản xảy ra khi các lối đi không khí chính của một người bị viêm.....
                  Huyết áp cao hoặc thấp.....
                  Bệnh tiểu đường.....
                  Nhức đầu và đau nửa đầu.....
                  Hen suyễn.....
                  Nhiễm trùng bàng quang.....
                  Đau đớn.....
                  Nhiễm trùng hô hấp và xoang ..

                  Chẩn đoán phổ biến nhất là gì?

                  Chẩn đoán phổ biến nhất cho các bệnh nhân nội trú.

                  Các điều kiện phổ biến nhất trong chăm sóc chính là gì?: Đánh giá có hệ thống là gì?

                  10 RFV được báo cáo lâm sàng phổ biến nhất là nhiễm trùng đường hô hấp trên, tăng huyết áp, duy trì sức khỏe thường xuyên, viêm khớp, tiểu đường, trầm cảm hoặc lo lắng, viêm phổi, viêm tai giữa cấp tính, đau lưng và viêm da.upper respiratory tract infection, hypertension, routine health maintenance, arthritis, diabetes, depression or anxiety, pneumonia, acute otitis media, back pain, and dermatitis.

                  Chủ đề