Bác Tôn học nghề thợ máy ở đầu tại Sài Gòn

Thứ hai, 25/06/2012 21:42

Tiểu sử Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20/8/1888 - 30/3/1980)

Đồng chí Tôn Đức Thắng, sinh ngày 20 tháng 8 năm 1888 trong một gia đình nông dân khá giả tại Cù lao Ông Hổ, làng Mỹ Hòa Hưng, Tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên(nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang).

Năm1906, sau khi học xong bậc sơ học ở trường tiểu học Long Xuyên, Tôn Đức Thắng rời quê lên Sài Gòn và đến với giai cấp công nhân đang trong quá trình hình thành. Truyền thống quật cường của quê hương đất nước và cuộc sống giai cấp công nhân đã sớm rèn luyện nhiệt tình yêu nước trong Tôn Đức Thắng. Từ đây, Tôn Đức Thắng đã hòa nhập trong phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp.

Tại Sài Gòn, Tôn Đức Thắng học việc và làm thợ ở nhiều nơi. Năm 1912, tổ chức cuộc bãi khóa của học sinh trường Cơ khí Á Châu (còn gọi là trường Bá Nghệ- nay là trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng) đòi thực hành quy chế của trường, chống đánh đập học sinh, phong trào này đã được công nhân Ba Son hưởng ứng.

Năm 1915 – 1917, học thợ máy ở trường Bá Nghệ, nhưng chưa học xong đã bị động viên sang Pháp làm lính thợ phục vụ chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tôn Đức Thắng làm việc trên chiến hạm France, xưởng Arsenal, quân cảng Toulon.

Năm 1919, Tôn Đức Thắng bị điều động tới một đơn vị hải quân được lệnh tiến công Xêvaxtôpôn trên bờ Hắc Hải trấn áp nước Nga Xô Viết mới ra đời. Tôn Đức Thắng đã cùng các bạn lính thợ tham gia phản chiến bằng hành động kéo lá cờ đỏ lên cột cờ chiến hạm.

Năm 1920, sau cuộc binh biến, Tôn Đức Thắng bị trục xuất khỏi nước Pháp. Trở về Sài Gòn, Tôn Đức Thắng vận động những người có cùng chí hướng thành lập Công hội bí mật. Dưới sự lãnh đạo của Công hội mà đồng chí Tôn Đức Thắng là Hội Trưởng phong trào công nhân Sài Sòn- Chợ Lớn phát triển mạnh mẽ, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân ở Ba Son, tháng 8 năm 1925.

Năm 1926, đồng chí tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên- tổ chức tiền thân của Đảng. Năm 1927, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn- Chợ Lớn và Kỳ bộ Nam Kỳ.

Cuối năm 1929, đồng chí bị thực dân Pháp bắt trong vụ án Bac-bi-ê. Tòa án thực dân Pháp kết án 20 năm khổ sai, đày ra Côn Đảo.

Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí trở về đất liền trong lúc thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Đồng chí bắt tay ngay vào cuộc chiến đấu mới của đồng bào Nam Bộ và nhân dân cả nước.

Ngày 06 tháng 01 năm 1946, trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên đồng chí được nhân dân Sài Gòn- Chợ Lớn bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Năm 1947, đồng chí được cử làm Tổng thanh tra của Chính phủ và quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

Năm 1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc, đồng chí được bầu làm Trưởng Ban vận động thi đua ái quốc Trung ương.

Năm 1950, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Xô.

Năm 1951, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Được cử làm Phó trưởng Ban Dân vận- Mặt trận Trung ương.

Năm 1955 , được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tháng 7, được bầu là Chủ tịch danh dự Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam và được Đại hội Hòa bình thế giới bầu làm Ủy viên Hòa bình thế giới. Ngày 20/9, kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa I bầu làm Trưởng Ban Thường trực Quốc hội.

Năm 1960 , tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa II, đồng chí được bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Năm 1969 , sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, tại kỳ họp đặc biệt Quốc hội khóa III, đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Năm 1976 , tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI- Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Cả cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng chí Tôn Đức Thắng vinh dự được nhận Huân chương sao vàng- Huân chương cao quý của nước Việt Nam, Huân chương Lê-nin của nước Nga Xô Viết, Huân chương Soukhe- Bator của nước Mông Cổ và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Đồng chí Tôn Đức Thắng, hiến dâng cả đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc và cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đồng chí là một hình ảnh trong sáng của tinh thần cách mạng bất khuất và đạo đức chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: Suốt đời cần kiệm liêm chính, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”.

Do tuổi cao, sức yếu sau một thời gian bệnh nặng Người qua đời vào ngày 30/3/1980 tại Hà Nội, an táng tại nghĩa trang Mai Dịch.

Nguồn Bảo tàng Tôn Đức Thắng

Bác Tôn là tấm gương kiên cường, mẫu mực, là biểu tượng của đại đoàn kết, một nhà lãnh đạo được nhân dân rất mực kính yêu.

Bác Tôn được sinh ra ở Cù lao Ông Hổ, An Giang, trong một gia đình nông dân tương đối khá giả. Lúc nhỏ học ở trường làng, sau đó lên thị xã học xong bậc tiểu học, rồi lên Sài Gòn với ý chí tự lập, tìm việc làm, sinh sống. Tại đây, Bác Tôn bắt đầu cuộc đời làm thợ. Trong các nghề, ông thích nhất là nghề thợ máy và thợ điện. Lúc đầu, Bác Tôn làm công cho các garage, đềpô tư nhân, sau đó làm công nhân cầu đường, nhà cửa. Chứng kiến cảnh áp bức, bóc lột, Bác Tôn sớm có những hoạt động yêu nước, tham gia lãnh đạo các cuộc bãi công của công nhân.

Với mong muốn trở thành người thợ lành nghề, Bác Tôn quyết định vào học Trường Bá nghệ Sài Gòn (nay là Trường Cao Thắng). Sang năm học thứ hai, vào giữa năm 1916, Bác Tôn bị động viên vào đội lính thợ, xuống tàu Pháp làm công việc thợ máy (công nhân quốc phòng) và được điều động đến Quân cảng Toulon miền Nam nước Pháp, bên bờ Địa Trung Hải. Từ đó, Bác Tôn sống đời lính thợ, lênh đênh trên biển, trên chiến hạm France.

8 giờ sáng 20-4-1919, với sự kiện lá cờ đỏ được kéo lên trên chiến hạm, để người Nga biết là bạn, không phải là kẻ thù, chính là do Bác Tôn - người Việt Nam đầu tiên biểu thị tinh thần yêu nước, tham gia bảo vệ nước Nga, con đẻ của Cách mạng Tháng Mười vào thời điểm quan trọng. Sau khi kéo cờ phản chiến, chiến hạm France rời Xêvaxtôpôn quay mũi về Pháp. Các tàu khác nối đuôi ra khỏi Biển Đen, làm phá sản âm mưu bóp chết nước Nga Xô Viết non trẻ của đế quốc. Về Pháp một thời gian, Bác Tôn giải ngũ, bị trục xuất về Sài Gòn, mang theo hai thứ quý giá là tình cảm với Cách mạng Tháng Mười và tư tưởng tổ chức giai cấp công nhân qua các nghiệp đoàn Pháp.

Năm 1920, Bác Tôn lập Công hội bí mật ở Sài Gòn và tổ chức những cuộc bãi công, những hoạt động bênh vực công nhân. Cuộc bãi công ở Xưởng Ba Son vào tháng 8 năm 1925, với hàng ngàn người tham gia đã gây tiếng vang lớn. Theo chỉ đạo của Bác Tôn, tổ chức Công hội bí mật được tổ chức ở một số tỉnh.

Năm 1927, Bác Tôn gặp những học trò của Nguyễn Ái Quốc từ Quảng Châu về nước, được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đóng góp vào quá trình thành lập Đảng ở Nam kỳ. Tổ chức Công hội bí mật bắt nhịp cầu đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào giai cấp công nhân. Ngày 28-7-1929, Bác Tôn bị bắt, kêu án 20 năm khổ sai và sau đó một năm thì bị đày ra Côn Đảo cho đến Cách mạng Tháng Tám 1945.

Trong lao tù đế quốc ở Côn Đảo bấy giờ có gần 2.000 tù nhân, trong đó có khoảng 300 tù chính trị, Bác Tôn bị giam ở Banh I chung với tù thường phạm, với thủ đoạn mượn bàn tay những tù nhân anh chị này tiêu diệt những người Cộng sản. Không cách nào khác, Bác Tôn chấp nhận cuộc đọ sức ở Hầm xay lúa - nơi địa ngục của địa ngục. Được chỉ định làm Cặp rằng, Bác Tôn tổ chức làm việc, cải thiện đời sống, bỏ lối roi vọt, cảm hóa tù nhân. Viên cặp rằng này cũng lao động như mọi người, thậm chí làm việc nặng nhọc, không chửi bới, đánh đập hay tước đoạt của người khác. Ông còn tổ chức ra Hội Cứu tế tù nhân, tổ chức học văn hóa, giúp nhau khi ốm đau… lấy tình người thay cho hận thù, xung đột. Sau này có người ra tù đã tham gia kháng chiến. 

Khi làm việc ở Sở lưới - với công việc sửa chữa, lái ca nô, Bác Tôn phụ trách đường dây liên lạc với đất liền và tham gia tổ chức vượt ngục. Trong những lần đấu tranh tuyệt thực, Bác Tôn là một trong những người đi đầu, nhịn ăn, chịu đòn rất kiên cường. Thời gian ở trong tù, Bác Tôn đã tích cực học lý luận qua các “Giáo sư đỏ” như Trần Văn Giàu, Trần Văn Dực… Sau 17 năm bị đọa đày, Bác Tôn được trở về đất liền trong niềm vui Cách mạng Tháng Tám thành công.

Tháng 10-1945, Bác Tôn vào Xứ ủy, phụ trách Ủy ban Kháng chiến Nam bộ, chỉ huy các lực lượng vũ trang và được bầu vào Quốc hội trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên. Sau đó, Bác Tôn được điều động ra Hà Nội, cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng Đảng, Nhà nước lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc và giữ những nhiệm vụ quan trọng như Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và đảm nhận chức Chủ tịch nước cho đến khi qua đời.

Bác Tôn không phải là nhà lý luận, nhà tư tưởng mà là con người có sự lựa chọn đúng, có hành động chuẩn mực, tiên phong mang đậm chất người, chất lý tưởng, luôn sống giản dị, khiêm nhường. Là Chủ tịch nước nhưng Bác Tôn vẫn giữ cái búa, cái kìm, tự tay chữa xe đạp… Chưa một lần tỏ ra là người có quyền lực, ham quyền lực. Con người Bác Tôn chính là hiện thân cho những giá trị luân lý cao đẹp. Các đồng chí ở Văn phòng Trung ương đã từng 3 lần thu xếp, gợi ý để Bác Tôn có nhà riêng nhưng Bác Tôn đều từ chối.

Đồng chí Phạm Văn Đồng cho rằng: Di sản quý nhất mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho nhân dân là chất người Tôn Đức Thắng. Sản phẩm tổng hợp của chất hào hiệp Nam bộ, chất kiên cường, tài năng sáng tạo Việt Nam, chất tiên phong của giai cấp công nhân, chất cách mạng của người yêu nước, người cộng sản, chất nhân đạo của con người… Bác Hồ, Bác Tôn đẹp từ việc lớn đến việc nhỏ.

Hôm đám tang Bác Tôn có hàng vạn người đến viếng và người Hà Nội đứng hai bên đường đưa tiễn nhà lãnh đạo, người con ưu tú của dân tộc về nơi an nghỉ như đưa tiễn một người thân. Bác Hồ, Bác Tôn chính là ngọn cờ đại đoàn kết, bất tử trong lòng nhân dân. 

PHẠM PHƯƠNG THẢO

Video liên quan

Chủ đề