Đánh giá chất lượng tinh trùng động vật năm 2024

Phân tích tinh dịch,"semen analysis/seminogram" đánh giá một số đặc tính của tinh dịch nam giới và tinh trùng chứa trong đó. Nó được thực hiện để giúp đánh giá khả năng sinh sản của nam giới, cho dù những người tìm kiếm sự mang thai hoặc xác minh sự thành công của thắt ống dẫn tinh. Tùy thuộc vào phương pháp đo, chỉ có thể đánh giá một vài đặc điểm (chẳng hạn như với bộ dụng cụ gia đình) hoặc nhiều đặc điểm có thể được đánh giá (thường là bởi phòng thí nghiệm chẩn đoán). Kỹ thuật thu thập và phương pháp đo chính xác có thể ảnh hưởng đến kết quả.

Lý do kiểm tra[sửa | sửa mã nguồn]

Những lý do phổ biến nhất để phân tích tinh dịch trong phòng thí nghiệm ở người là một phần của cuộc điều tra vô sinh của một cặp vợ chồng và sau khi thắt ống dẫn tinh để xác minh rằng thủ thuật đã thành công. Nó cũng thường được sử dụng để thử nghiệm các nhà tài trợ nhân lực cho tặng tinh trùng, và cho phân tích tinh dịch động vật thường được sử dụng trong môi trường trang trại gia súc chăn nuôi.

Thỉnh thoảng một người đàn ông sẽ có một phân tích tinh dịch được thực hiện như một phần của xét nghiệm trước khi mang thai thông thường. Ở cấp độ phòng thí nghiệm, điều này rất hiếm, vì hầu hết các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ không kiểm tra tinh dịch và tinh trùng trừ khi có yêu cầu cụ thể hoặc có sự nghi ngờ mạnh mẽ về bệnh lý ở một trong những khu vực được phát hiện trong lịch sử y tế hoặc trong quá trình kiểm tra thể chất. Việc kiểm tra như vậy rất tốn kém và mất thời gian, và ở Mỹ dường như không được bảo hiểm. Ở các quốc gia khác, chẳng hạn như Đức, xét nghiệm này được bảo hiểm bởi tất cả các bảo hiểm.

Liên quan đến khả năng sinh sản[sửa | sửa mã nguồn]

Các đặc điểm được đo bằng phân tích tinh dịch chỉ là một số yếu tố trong chất lượng tinh dịch. Một nguồn tin cho biết 30% nam giới có phân tích tinh dịch bình thường thực sự có chức năng tinh trùng bất thường. Ngược lại, những người đàn ông có kết quả phân tích tinh dịch kém có thể tiếp tục làm cha. Trong hướng dẫn của NICE, yếu tố vô sinh nam nhẹ được xác định là khi 2 hoặc nhiều phân tích tinh dịch có 1 hoặc nhiều biến số dưới tỷ lệ phần trăm thứ 5 và có khả năng mang thai xảy ra tự nhiên qua giao hợp âm đạo trong vòng 2 năm tương tự như những người bị lạc nội mạc tử cung nhẹ.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lozano GM, Bejarano I, Espino J, González D, Ortiz A, García JF, Rodríguez AB, Pariente JA (2009). “Density gradient capacitation is the most suitable method to improve fertilization and to reduce DNA fragmentation positive spermatozoa of infertile men”. Anatolian Journal of Obstetrics & Gynecology. 3 (1): 1–7.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • “Understanding Semen Analysis”. Stonybrook, State University of New York. 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2007.
  • RN, Kathleen Deska Pagana PhD; FACS, Timothy J. Pagana MD (ngày 22 tháng 11 năm 2013). Mosby's Manual of Diagnostic and Laboratory Tests, 5e (ấn bản 5). St. Louis, Missouri: Mosby. ISBN 978-0-323-08949-4. Khả năng sinh sản: đánh giá và điều trị cho những người có vấn đề về khả năng sinh sản. Hướng dẫn lâm sàng của NICE CG156 - Ban hành: Tháng 2 năm 2013

Hầu hết mọi người có thể nghĩ tinh trùng trông giống những con nòng nọc tí hon đang ngọ ngoạy trong tinh dịch. Tuy nhiên, trong thực tế, có sự khác biệt lớn về kích cỡ, hình dạng và số lượng "con giống" do cá thể đực của các loài động vật sản sinh ra. Nói một cách khác, dù cùng thực hiện một chức năng giống nhau (thụ tinh cho trứng) nhưng tinh trùng là loại tế bào giới tính đa dạng nhất ở cơ thể mọi động vật.

Đánh giá chất lượng tinh trùng động vật năm 2024

Sự đa dạng này là sản phẩm của quá trình tiến hóa. Tinh trùng của mọi động vật đã tiến hóa để đáp ứng các nhu cầu của cá nhân động vật sản sinh ra nó. Chẳng hạn như, một nghiên cứu mới đăng tải trên tạp chí Proceedings of the Royal Society B cho thấy, số lượng và kích cỡ "con giống" do một động vật có vú tạo ra, phụ thuộc vào kích cỡ đường sinh sản của cá thể cái. Nghiên cứu những dạng thích nghi này giúp chúng ta hiểu rõ hơn sự đa dạng tuyệt vời của tinh trùng muôn loài.

Động vật tí hon có thể sản sinh con giống "khủng"

Chiều dài của tinh trùng có thể khác xa nhau rất nhiều ở các loài động vật, từ những tinh trùng siêu nhỏ của nhím (0,0003 cm) tới con giống "khủng" của ruồi giấm (6cm), vốn gấp 20 lần chiều dài của chính động vật sản sinh ra chúng. Tinh trùng của ruồi giấm đực trông giống như một cuộn len, sẽ gỡ nối một khi chui vào đường sinh sản thậm chí còn dài hơn của ruồi cái.

Số lượng tinh binh do các loài động vật khác nhau sản sinh ra cũng khác biệt rất nhiều. Chẳng hạn như, con người tạo ra gần 100 triệu tinh trùng mỗi lần xuất tinh, trong khi cừu đực có thể sản sinh tới 100 tỉ tinh binh cho mỗi lần phóng.

Đánh giá chất lượng tinh trùng động vật năm 2024
Tinh trùng của ruồi giấm giống như một cuộn len, dài gấp 20 lần kích thước cơ thể của "khổ chủ" và sẽ gỡ nối khi chui vào đường sinh dục của cá thể cái. Ảnh: Science Daily

Các nhóm tinh trùng thậm chí có thể hợp sức với nhau. Tinh trùng ở một số loài đã được ghi nhận phối hợp thành một "đoàn tàu", bơi nhanh hơn mỗi tinh trùng đơn lẻ trong cuộc đua tìm tới trứng.

Cá thể cái lang chạ đồng nghĩa nhiều tinh binh hơn

Phần lớn sự đa dạng về kích cỡ, hình dạng và số lượng tinh trùng ở các loài mà chúng ta quan sát thấy, được cho là sản phẩm của cuộc cạnh tranh thụ tinh giữa các cá thể đực khác nhau. Đây là một dạng chọn lọc tình dục, mới được miêu tả gần đây và còn được biết đến như "sự cạnh tranh tinh trùng".

Ở các loài có cá thể cái giao phối bừa bãi nhất, tồn tại áp lực rất lớn, buộc các cá thể đực phải chú trọng đầu tư hơn vào "con giống" để đảm bảo rằng một trong các tinh binh của chúng sẽ chiến thắng trong cuộc chiến giành quyền thụ tinh. Điều này dẫn tới sự đa dạng về chiến lược cạnh tranh tinh trùng.

Nhìn chung, các loài này sản sinh ra nhiều tinh binh hơn để tạo lợi thế về số lượng. Việc sản sinh ra các "con giống" lớn hơn và bơi nhanh hơn cũng là lợi thế giúp các con đực đánh bại những cá thể khác cùng loài trong cuộc đua tới trứng.

Cá thể cái lớn hơn đồng nghĩa "con giống" nhỏ hơn

Tinh trùng cũng có thể biến đổi theo kích cỡ và hình dạng cơ thể của con cái. Điều này nhằm bảo đảm các "con giống" có thể bơi đủ xa và nhanh để tiếp cận trứng thành công. Nhìn chung, tinh trùng lớn hơn bơi nhanh hơn, nên các cá thể đực phải nỗ lực sản sinh ra vô số "con giống" to lớn hơn.

Tuy nhiên, các cá thể đực chỉ sở hữu các nguồn hạn chế để phục vụ việc sản sinh tinh binh và có thể phải đánh đổi. Điều này đồng nghĩa, áp lực tiến hóa nhằm gia tăng kích cỡ tinh trùng chắc chắn sẽ dẫn tới việc suy giảm về số lượng tinh binh và ngược lại.

Đánh giá chất lượng tinh trùng động vật năm 2024

Như đã đề cập ở trên, nghiên cứu gần đây phát hiện, ở các động vật có vú, cá thể đực của các loài sở hữu cơ thể nhỏ hơn có xu hướng tạo ra ít tinh trùng hơn nhưng chúng lại có kích cỡ lớn hơn, trong khi cá thể đực của các loài lớn hơn dường như sản sinh ra nhiều tinh trùng bé nhỏ hơn. Điều này được cho là vì, cá thể cái của các loài lớn hơn sở hữu đường sinh sản "khủng" hơn, nên nhiều tinh trùng bé hơn có thể dàn hàng bơi trong khoảng cách lớn hơn và có nhiều cơ hội tiếp cận trứng thành công hơn.

Con đực kiểm soát số lượng tinh binh

Đáng kinh ngạc là, các cá thể đực dường như có khả năng kiểm soát lượng tinh trùng mà chúng sản sinh ra. Có bằng chứng cho thấy, các cá thể đực thay đổi số lượng tinh binh ở các lần xuất tinh khác nhau, phụ thuộc vào chất lượng cá thể cái hoặc nguy cơ cạnh tranh tinh trùng. Nghiên cứu hé lộ, ở người, những nam giới được cho xem ảnh nhạy cảm của 2 người đàn ông và một phụ nữ (các hình ảnh "cạnh tranh tinh trùng") đã sản sinh ra nhiều "con giống" di động hơn so với những nam giới chỉ xem ảnh nóng của 3 phụ nữ.

Các cá thể cái của những loài động vật giao phối với hơn 1 một bạn tình cũng được cho là có khả năng kiểm soát nào đó đối với tinh trùng thụ tinh cho trứng của chúng. Hiện tượng "sự lựa chọn bí ẩn của cá thể cái" xảy ra khi các con cái sử dụng những cơ chế sinh học hoặc hóa học để kiểm soát cơ hội thụ tinh của mỗi con đực, và do đó có thể kiểm soát kết quả sinh sản. Chẳng hạn như, ở một số loài, các con cái sẽ giao phối với nhiều con đực và sau đó chọn lọc để trứng chỉ kết hợp với tinh trùng lớn nhất hoặc tinh trùng từ những con đực có gen miễn dịch tương hợp hơn.