Giúp học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả năm 2024

Wellness Here’s what actually happens in your brain if you get a good night’s sleep – and if you don’t

  • KY NANG HOC TAP Why do Study Skills Matter
  • Negative Effects of Parental Stress on Students
  • Bài kiểm tra chương 1-3 - dsadsadsa
  • C - asdasdsad
  • JD - Thành VIÊN BAN TRUYỀN Thông - Copy
  • Tài liệu CTXH ca nhan va gia dinh
  • Trần Ngọc Nguyên Hạnh - Reading P2 - page 16 - Texts
  • 009 – Ôn tập - bsdfbsdf
  • B2000 436 Nguyen Thanh Vinh

Preview text

1. MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài: Như chúng ta đã biết, mục tiêu của bộ môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học là “Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt; về tự nhiên, xã hội và con người; về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho học sinh”. Nằm trong môn Tiếng Việt, Phân môn Tập làm văn không chỉ dừng lại ở mức độ dạy học sinh biết nói, viết đủ câu, diễn đạt trọn ý trong giao tiếp. Dạy Tập làm văn không phải chỉ giúp học sinh biết cách thức hình thành bài tập làm văn, tạo lập được văn bản mà còn phải tiếp tục bồi dưỡng tâm hồn, phát triển năng lực tư duy cho các em. (1) Thực tế giảng dạy, dạy cho học sinh biết làm tập làm văn quả là rất khó, việc bồi dưỡng để các em có được kỹ năng viết các bài văn đúng và hay ở các thể loại nói chung và văn miêu tả nói riêng là việc không đơn giản. Bởi những sản phẩm của phân môn Tập làm văn là những bài viết, bài nói thể hiện năng lực của từng cá nhân học sinh. Thế nhưng ở học sinh Tiểu học, khả năng diễn đạt của các em còn nhiều hạn chế, chưa biết chọn lọc từ ngữ cho bài viết của mình, hầu như các em nghĩ thế nào thì viết thế ấy làm cho hiệu quả bài viết chưa cao. Mặt khác, để thực hiện được mục tiêu là xây dựng các văn bản (nói và viết), học sinh phải huy động tất cả kiến thức mà các em đã tiếp thu được qua việc học tập ở phân môn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện... Trong khi vốn sống của các em chưa nhiều, vốn từ chưa phong phú. Vậy để đạt được các yêu cầu trên thì việc rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh là điều hết sức cần thiết. Điều đó đặt ra cho giáo viên tiểu học – những người trực tiếp giảng dạy trong đó có bản thân tôi là phải thường xuyên nghiên cứu, tìm tòi các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học làm văn miêu tả cho học sinh. Xuất phát từ những yêu cầu đó, là một giáo viên trực tiếp dạy lớp 5 nhiều năm, tôi luôn trăn trở làm thế nào để nâng cao hiệu quả trong các tiết làm tập văn giúp học sinh viết văn tốt hơn đặc biệt là văn miêu tả. Với tâm huyết nghề nghiệp, vì tương lai tươi sáng của các em, trong quá trình giảng dạy, tôi đã đi sâu nghiên cứu tài liệu và mạnh dạn áp dụng “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn miêu tả. ” và đã áp dụng vào thực tế giảng dạy tại đơn vị mình thấy có kết quả khả quan**_._** 1. Mục đích nghiên cứu: Đề xuất một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn miêu tả. **1. Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn miêu tả.

  1. Phương pháp nghiên cứu:** (1) Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học - Lê Phương Nga, Nguyễn Trứ ( Nhà xuất bản GD)
  2. Phương pháp tổng hợp vấn đề lý thuyết: Nghiên cứu giáo trình tâm lý học, giáo dục học, ngôn ngữ học.
    • Phương pháp phỏng vấn, khảo sát: phỏng vấn giáo viên dạy, cán bộ quản lý nhà trường.
    • Phương pháp thực nghiệm: giảng dạy để khảo sát đối chứng. **2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
  3. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:** Tập làm văn là phân môn trong chương trình Tiếng Việt của bậc Tiểu học, đây là một phân môn mang tính chất thực hành tổng hợp. Chính những văn bản nói viết các em có được từ phân môn Tập làm văn theo các nghi thức lời nói, thuyết trình... đã thể hiện những hiểu biết thực tế, những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt mà các em đã được học ở phân môn Tập làm văn. Các kiểu bài miêu tả được học nhiều nhất, nó giúp cho HS tái hiện lại cuộc sống con người, phong cách thiên nhiên hiện lên như một bức tranh nhiều màu sắc. Nó giúp các em có tâm hồn văn học, có tình yêu quê hương đất nước và cuộc sống con người. (2) Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trò phải soạn giảng và học tập tích cực, nghiêm túc, hiệu quả, mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học. Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học và phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 896” của Bộ GD-ĐT đã đề ra. Như chúng ta đã biết, văn miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và cảm xúc cho người đọc, người nghe hình dung một cách rõ nét, cụ thể người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Qua đó người ta gửi gắm những suy nghĩ, cảm xúc và tình yêu thương của mình với những gì mà mình miêu tả. Trong chương trình Tập làm văn lớp 5: Cả năm có 62 tiết trong đó Tập làm văn miêu tả 33 tiết (chiếm hơn 50% số tiết) với mục tiêu là trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần cùng với các môn học khác làm giàu vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Trong một tiết học tối đa có 40 phút mà kiến thức phải cung cấp quá nhiều nên giáo viên chỉ hay quan tâm đến đối tượng học sinh khá giỏi để tiết dạy thành công. Ngoài ra do việc thay đổi nội dung chương trình sách giáo khoa khiến cho giáo viên còn lúng túng trong việc nắm bắt nội dung và phương pháp giảng dạy, từ đó dẫn đến kết quả học tập môn Tập làm văn chưa cao nhiên phải thừa nhận một điều rằng thực tế hiện nay, việc dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng còn có rất nhiều hạn chế và chưa đạt kết quả như mong muốn. Lý do này là do nhiều nguyên nhân. Trong đó đa số giáo viên chưa định hình được phương pháp giảng dạy cũng như trình tự tiến hành dạy một bài tập làm văn như thế nào cho phù hợp với mục đích và nội dung của bài đặt ra. Mặt khác HS (2) Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học - Lê Phương Nga, Nguyễn Trứ ( Nhà xuất bản GD)
  4. Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả.
  5. Khi quan sát thì các em không được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan sát những gì, quan sát từ đâu? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả.
  6. Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả khi quan sát.
  7. Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật, về một con người cụ thể nào đó.
  8. Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân môn Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay người giáo viên (nhất là giáo viên lớp 4, lớp 5) chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý tiếng Việt, ham thích học tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ. Vào đầu năm nhận lớp, tôi đã tổ chức khảo sát học sinh với đề văn như sau: “ Em hãy tả một cây cho bóng mát trên sân trường em”. Kết quả bài làm của các em đạt được như sau : B¶ng kh¶o s ̧t chÊt lîng häc sinh n ̈m häc 2017 - 2018 Số học sinh cả lớp

Số học sinh làm văn hay, có hình ảnh.

Hoàn thành bài Chưa hoàn thành

26 em

SL TL SL TL SL TL

3 11,5 19 73,1 4 15,

Sau khi nhận được kết quả khảo sát, tôi căn cứ vào quá trình học tập hằng ngày, kết hợp với những ý kiến tham khảo thêm ở các giáo viên cũ và phụ huynh học sinh để phân loại học sinh lớp 5A thành các nhóm theo khả năng. Từ các nhóm phân chia đó, trong quá trình giảng dạy, tôi sẽ đề ra các yêu cầu cần đạt cho mỗi nhóm giúp các em hoàn thành bài văn đạt kết quả hơn. Đứng trước những khó khăn không dễ giải quyết như trên, tôi không khỏi có nhiều băn khoăn, trăn trở. Làm thế nào để có thể giúp các em yêu thích môn học, các em làm được bài văn miêu tả hay không phải là việc làm ngày một ngày hai mà nó đòi hỏi một quá trình tìm tòi, suy nghĩ lâu dài. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn miêu tả”. 2. C ̧c giải ph ̧p đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực trạng dạy học trên, tôi đã đưa ra các giải pháp sau để giúp học sinh làm tốt loại văn miêu tả nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Tập làm văn và đã thực hiện có hiệu quả tại đơn vị mình công tác. Giải pháp 1: Nắm vững yêu cầu, nội dung từng tiết dạy của dạng văn miêu tả. Trước hết người giáo viên phải hiểu: Văn miêu tả là loại văn giúp người đọc, người nghe hình dung những đặc điểm, tính chất nổi bật của một sự vật, sự

việc, con người, phong cảnh.... làm cho đối tượng miêu tả như hiện lên trước mắt người đọc, người nghe. GV nắm được các loại bài học dạng văn miêu tả:

  • Dạy bài lí thuyết: các bài học làm văn miêu tả và biên bản đều có cấu tạo gồm ba phần: Nhận xét, Ghi nhớ, Luyện tập.
  • Hướng dẫn thực hành: các bài hướng dẫn thực hành thường gồm 2-3 bài tập nhỏ hoặc một đề bài tập làm văn kèm theo gợi luyện tập theo hai hình thức nói và viết. Giáo viên phải nắm vững và giúp HS phân biệt hai loại văn miêu tả là văn tả người và văn tả cảnh. (3) a) Đối với dạng văn tả người: Tả người là gợi tả về các nét ngoại hình, tư thế, tính cách, hành động, lời nói.... của nhân vật được miêu tả. GV phải hướng dẫn HS phân biệt đối tượng miêu tả theo yêu cầu:
    • Tả chân dung nhân vật( cần tả nhiều về ngoại hình, tính nết...)
    • Tả người trong tư thế làm việc( tả người trong hành động: chú ý các chi tiết thể hiện cử chỉ, trạng thái cảm xúc)
  • Cách miêu tả:
  • Mở bài: Giới thiệu người được tả ( chú ý đến mối quan hệ của người viết với nhân vật được tả, tên, giới tính và ấn tượng chung về người đó.)
  • Thân bài: + Miêu tả khái quát hình dáng tuổi tác, nghề nghiệp...
  • Tả chi tiết: ngoại hình, cử chỉ, hành động, lời nói...( chú ý tả người trong công việc cần quan sát tinh tế vào các động tác của từng bộ: khuôn mặt thay đổi, trạng thái cảm xúc, ánh mắt...)
  • Thông qua tả để khơi gợi tính cách nhân vật: qua tả các chi tiết người đọc có thể cảm nhận được tính cách của đối tượng và thái độ người miêu tả đối với đối tượng đó.
  • Kết bài: Nhận xét hoặc nêu cảm nghĩ của người viết về người được miêu tả. Ví dụ : Hãy tả một cụ già mà em yêu quý và kính trọng. Mở bài : Giới thiệu người được tả.
  • Cụ già đó là ai? Quan hệ với em như thế nào?
  • Hoặc hoàn cảnh, lí do em gặp và quen biết cụ già. Thân bài: Tả từng phần hoặc kết hợp.
  • Ngoại hình: tầm vóc, cách ăn mặc, khuôn mặt, mái tóc, cặp mắt, hàm răng, nụ cười...ó đặc điểm gì nổi bật.
  • Tính tình, hoạt động: Lời nói, cử chỉ, thói quen hoạt động hằng ngày( VD: ăn, ngủ, nghỉ ngơi, làm việc,...) cách cư xử với người khác,..ó đặc điểm gì làm em yêu quý, kính trọng? Kết bài : Nêu cảm nghĩ về người được miêu tả.
  • Vì sao em yêu quý, kính trọng cụ già?
  • Hoặc : cụ già đó đem đến cho em những tình cảm gì đẹp đẽ, đáng quý trọng? Em biểu lộ tình cảm của mình với cụ ra sao?... b) Đối víi dạng văn tả cảnh: (3) Dạy văn cho học sinh Tiểu học - Nguyễn Hòa Bình - Nhà xuất bản GD

Ví dụ : Bài Tập đọc: Quang cảnh làng mạc ngày mùa. Tiết 1: Dạy cách làm bài Tập làm văn tả cảnh từ bài Tập đọc Quang cảnh làng mạc ngày mùa. 1êu cầu của tiết dạy :

  • Biết cách làm bài văn từ bài tập đọc.
  • Biết các biện pháp nghệ thuật, nhờ các biện pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng để học sinh biết cách vận dụng khi làm bài văn tả cảnh. 2. Các bước tiến hành chính: a. Bước tìm hiểu, phân tích đề:
  • Tôi gọi 1 em đọc to câu đầu của bài văn.
  • Sau đó tôi hỏi: Câu văn này cho em biết điều gì?
  • Học sinh trả lời: Tác giả giới thiệu màu sắc bao trùm cảnh làng quê ngày mùa là màu vàng.
  • Dựa vào câu trả lời đó, tôi giới thiệu cho học sinh: “Đây chính là phần mở bài của vài văn miêu tả .” b_._ Lμm giμu vèn tõ cho häc sinh th«ng qua tiÕt TËp ®äc.
  • Câu hỏi 1 : Kể tên những sự vật Học sinh nêu nối tiếp trong bài có màu vàng và từ chỉ màu vàng đó? *Câu hỏi 2 : Hãy chọn một từ chỉ Mỗi học sinh chọn một sự màu vàng trong bài và cho biết vật,tưởng tượng sự vật đó từ đó gợi cho em cảm giác gì? và trả lời
  • Sau đó tôi giảng: Sự khác nhau của sắc vàng cho ta những cảm nhận riêng về đặc điểm của từng cảnh vật. Đây chính là một trong những yêu cầu của cách làm bài văn miêu tả.
  • Từ đây, tôi hướng dẫn học sinh: "Để có một bài văn, chân thực, ta phải biết cách quan sát thật tỉ mỉ từng cảnh tả, cảm nhận sự vật bằng nhiều giác quan: xúc giác, thị giác và đôi khi là sự liên tưởng”. *Tôi hỏi : H: Nêu tên những sự vật trong bài * Nêu nối tiếp có màu vàng và từ chỉ màu vàng đó? H: Phân tích cách dùng vài từ chỉ màu * 2-3 HS nêu vàng để thấy tác giả quan sát tinh tế và dùng từ rất gợi cảm? Tôi giảng:
  • Ở đây tác giả đã sử dụng một loạt từ đồng nghĩa để chỉ các màu vàng khác nhau của sự vật làm cho việc miêu tả rất đa dạng và phong phú. Đây chính là nghệ thuật dùng từ rất hay để làm một bài văn tả cảnh mà các em cần phải học tập.
  • Nhưng để bộc lộ được sự đa dạng và phong phú như thế, tác giả đã quan sát rất cụ thể cảnh tả mới thấy được vẻ đẹp khác nhau của từng màu vàng cụ thể.

Hoạt đông của giáo viêṇ Hoạt đông của học sinḥ

  • Ngoài ra, tác giả đã dùng từ rất gợi cảm như:" vàng giòn"gợi tả hạt thóc đã được phơi khô,"vàng mượt" gợi lên sự béo tốt, mượt mà của con gà và con chó.
  • Câu hỏi này tôi hướng dẫn học sinh: " Để bài văn tả cảnh được sinh động và gợi cảm các em cần sử dụng các từ đồng nghĩa để gợi tả các màu sắc và hình dáng khác nhau của sự vật nhằm làm nổi bật sắc thái riêng của từng cảnh tả". H: Ngoài màu vàng, tác giả còn nói Màu đỏ tới màu sắc gì nữa của cảnh vật? Cách viết như thế có hay không và Rất hay, gợi lên vẻ nhiều màu sắc hay như thế nào? -Tôi giảng kết luận: Cách viết như thế không những rất hay mà còn gợi lên vẻ đẹp muôn màu của sự vật đồng thời thể hiện một bút pháp nghệ thuật tài hoa phối sắc (phối hợp các màu sắc khác nhau) làm cho bức tranh "Quang cảnh làng mạc ngày mùa" mang vẻ đẹp rực rỡ, tươi sáng và vô cùng hấp dẫn.
  • Từ đây tôi hướng dẫn học sinh:" Để bộc lộ vẻ đẹp cảnh tả trong bài văn tả cảnh các em cần sử dụng các từ gợi tả âm thanh, hình ảnh khác nhau để miêu tả cụ thể vẻ đẹp của từng cảnh vật". H: Ngoài việc miêu tả bằng thị giác, t ̧c Cảm giác: tất cả đượm giả còn miêu tả sự vật bằng những một "màu vàng trù phú" giác quan nào? Khứu giác: hơi thở của đất trời, mÆt nước thơm th¬m, nhÌ nhÌ.
  • Ở câu hỏi này tôi hướng dẫn HS:" Khi quan sát cảnh tả,các em cần quan sát bằng tất cả các giác quan để miêu tả hết vẻ đẹp của cảnh vật ".
  • Câu hỏi 3 : Những chi tiết nào về thời tiết và con người đã làm cho bức tranh làng quê thêm đẹp và sinh động? Câu hỏi này yêu cầu các em trả lời từng phần cụ thể theo cảnh tả nên tôi chia thành 2 câu hỏi nhỏ như sau:
  • Những chi tiết nào về thời tiết Học sinh trả lời các chi đã làm cho bức tranh làng quê tiết theo từng cảnh tả. thêm đẹp và sinh động?
  • Những chi tiết nào về con người đã làm cho bức tranh làng quê thêm đẹp và sinh động?
  • Tôi giảng: Cảnh tả về thời tiết và con người giúp ta cảm nhận được bức tranh làng mạc ngày mùa rất hữu tình (thời tiết đẹp, con người siêng năng) gợi lên cảnh làng quê thật ấm no và tràn trề sức sống. Bài này tác giả tả cảnh đồng quê vào ngày mùa theo từng phần của cảnh tả.
  • Từ đây tôi cung cấp cho HS: " Thời gian, thời tiết và con người góp phần làm cho bài tả sâu hơn. Vì vậy, khi làm bài văn tả cảnh vật các em cần xen tả hoạt động của con người và thời tiết để làm cho bài tả thêm đẹp và sinh động đồng thời làm cho bài văn giàu sắc thái biểu cảm".
  • Kết luận : Sau các tiết luyện này học sinh đã biết được: Viết được bài văn tả quang cảnh làng mạc ngày mùa như nội dung của bài tập đọc. Viết được bài văn tả quang cảnh làng mạc ngày mùa ở quê em. Giải pháp 3: Rèn kỹ năng quan sát, tìm ý, sắp xếp ý. Hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý, sắp xếp ý trước khi làm bài tập làm văn thực sự là một vấn đề cần thiết và quan trọng. Giáo viên phải tạo điều kiện cho các em đến tận nơi, quan sát trực tiếp đối tượng được miêu tả. Quan sát đối tượng được miêu tả là một công việc thuộc nguyên tắc dạy học tập làm văn miêu tả cho học sinh tiểu học. Tuy vậy giáo viên cần phải hướng dẫn các em khi quan sát phải huy động vốn sống, khả năng tưởng tượng và cảm xúc rồi ghi chép lại. Vì vậy, khi dạy văn miêu tả, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả theo các trình tự hợp lý: (4) a. Tả theo trình tự không gian: Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại). Ở lớp 4, lớp 5 trình tự này được vận dụng khi miêu tả loài vật, đồ vật, cảnh vật,... Ví dụ 1: Tả từ ngoài vào trong: “ Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. Trước đền, những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiều màu sắc bay dập dờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ vàng Nam Quốc Sơn Hà uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa.” Ví dụ 2: Tả từ dưới lên trên “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy hơn cành khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành” (Rừng hồi xứ Lạng). b. Tả theo trình tự thời gian: Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau) thì miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả cảnh vật hay tả cảnh sinh hoạt của người. Ví dụ: “Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương thơm lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả gieo trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một năm sau nữa, từ một thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao mà mạnh mẽ vậy.” ( Mùa thảo quả- TV5- Tập 1- tr113). c. Tả theo trình tự tâm lí: Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau của đối tượng. Ví dụ: (4) Dạy văn cho học sinh Tiểu học - Nguyễn Hòa Bình - Nhà xuất bản GD.

“ Bà tôi ngồi cạnh tôi chải đầu. Tóc bà đen và dày kì lạ, phủ kín cả hai vai, xoã xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tóc lên và ướm trên tay, bà đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mớ tóc dày. Giọng bà trầm bỗng, ngân nga như tiếng chuông. Nó khắc sâu vào trí nhớ tôi dễ dàng, và như những đoá hoa, cũng dịu dàng, rực rỡ, đầy nhựa sống. Khi bà mỉm cười, hai con ngươi đen sẫm nở ra long lanh, dịu hiền khó tả,...” (Bà Tôi - Tiếng Việt 5- Tập 1). Tác giả đã quan sát và tập trung tả mái tóc, giọng nói rồi đến ánh mắt. Mái tóc “dày kì lạ”. Quan sát nhằm để tìm ra những nét riêng biệt về hình dáng, khuôn mặt, mái tóc, giọng nói, tính tình của người. Phát hiện hình dáng, âm thanh, màu sắc riêng của từng sự vật hiện tượng ... Tạo điều kiện cơ sở để lột tả chính xác sự vật, thiên nhiên, cuộc sống diễn ra xung quanh các em. Gợi trí tò mò, hứng thú quan sát cho học sinh bằng những gợi ý. Ví dụ : Tả cảnh trường em trước giờ học. Tôi đã hướng dẫn các em:

  • Các em thử nghĩ lại xem, cảnh trường trước giờ học như thế nào?
  • Khi các bạn đã tập trung đầy đủ, cảnh trường có gì khác trước?
  • Học sinh chúng ta thường tụ tập thành nhóm chơi những trò chơi gì? Hoạt động của các nhóm ra sao?
  • Ngoài các nhóm chơi ra, các học sinh khác làm gì?
  • Nếu em đứng từ trên cao nhìn xuống, cảnh sân trường lúc này như thế nào? Theo tôi, những điều đó có tác dụng đem đến cho các em cái nhìn đáng yêu về ngôi trường, yêu cuộc sống từ đó giúp các em có thêm những hiểu biết để giờ tập làm văn các em làm tốt hơn. Nhưng khi hướng dẫn cho học sinh quan sát, thường thì các em thu thập được hàng loạt chi tiết. Lúc đó giáo viên phải hướng dẫn để học sinh biết chọn lọc, giữ lại chi tiết chính, loại đi những chi tiết không cần thiết. Khi đã có tài liệu, có ý nhưng việc sắp xếp các ý một cách có thứ tự vào bài quả là một công việc khó. Trên thực tế học sinh chỉ biết cách quan sát, biết tìm ý nhưng sắp xếp ý đúng trình tự hợp lý thì các em lại rất lúng túng. Các em không biết nên đưa ý nào vào trước, ý nào sắp xếp sau. Nhiều học sinh rơi vào tình trạng quan sát được gì viết nấy, nghĩ gì viết nấy mà không cần biết ý văn đó có lôgic hay không, có đi theo trình tự miêu tả hay không, dẫn đến bài viết lủng củng, lộn xộn trong cách miêu tả. Ví dụ như khi tả một cây ăn quả, đang tả bộ phận lá cây lại quay xuống tả rễ cây rồi lại vòng lên tả quả và tả thân cây. Cách tả như vậy cho thấy học sinh không biết cách sắp xếp ý. Cho nên khi dạy tôi đã đưa ra và hướng dẫn tỉ mỷ cho các em cách sắp xếp và nhất là các bài đầu của thể loại mới. Sắp xếp có thể theo thứ tự thời gian, không gian, tâm lý ... Tránh đang tả chi tiết xa lại xen tả chi tiết gần dẫn đến bài làm lộn xộn. Sắp xếp ý rồi nhưng làm sao diễn đạt ý đó thành câu văn, đoạn văn cũng là vấn đề rất quan trọng. Nếu học sinh không làm được điều này thì coi như tiết dạy

học tôi còn hướng dẫn các em kỹ hơn, cụ thể hơn các cách kết bài để làm sao sau khi đọc bài văn người đọc có ấn tượng tốt về bài văn của mình. Ví dụ: Tả một người thân ( ông, bà, cha , mẹ, anh, em ... ) của em. Các em đã có các cách kết bài như sau: _+ “ Bà của tôi như thế đấy!”. Hoặc “ Bà ơi, cháu yêu bà lắm!”.

  • “ Chị là tất cả của tôi. Chị mãi mãi là tấm gương sáng để soi đường cho tôi, là người bạn để tôi có thể tâm sự khi vui hay lúc tôi buồn nhất. Tôi sẽ cố gắng học giỏi, vâng lời cha mẹ để chị mãi mãi yêu quý tôi”.
  • “Bây giờ tuy bà tôi đã đi xa nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những kỷ niệm thời thơ ấu bên bà. Tôi nguyện sẽ cố gắng học tập thật giỏi để làm vui lòng bà”.
  • “Mẹ ơi, con yêu mẹ lắm! Con tự hứa với lòng mình là sẽ hiếu thảo, ngoan ngoãn, nghe thầy, yêu bạn, chăm chỉ học tập để xứng đáng với những gì mẹ đã hy sinh vì chúng con”._ Nhờ hướng dẫn cẩn thận từ khâu quan sát, tìm ý, sắp xếp ý đến việc hướng dẫn cách mở bài và kết bài nên bài viết của các em ngày càng có nhiều điểm tiến bộ, nhiều em đã khắc phục được những điểm yếu kém trước đây như: Sắp xếp ý lộn xộn, tả thiếu chính xác, viết lan man không trọng tâm. Giải pháp 4: Làm giàu vốn từ cho học sinh. Do vốn từ của học sinh tiểu học còn nghèo nàn, vì vậy các em thường viết những đoạn văn khô khan, thiếu tính gợi tả, gợi cảm không hấp dẫn người đọc, người nghe. Để rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ hay trong viết văn tả cảnh cần đưa ra cho các em một số bài tập khắc phục tình trạng đó. đây là một số ví dụ minh họa: Ví dụ : Tìm những từ láy gợi tả âm thanh trên dòng sông: ( bì bọp, lăn tăn, lao xao, ì ọp, ì ầm, ào ào, xôn xao,...) Ví dụ : Tìm những hình ảnh so sánh để so sánh với con sông: ( Dòng sông như dải lụa, dòng sông như con trăn khổng lồ trườn lên bãi mía bờ khoai, dòng sông như người mẹ ôm ấp đồng lúa,...)
  • Vốn từ ngữ phong phú sẽ giúp các em diễn đạt đa dạng những điều định nói, định viết. Có thể làm giàu vốn từ cho các em bằng hình thức tìm từ ngữ theo từng đề tài nhỏ. Ví dụ : Để giúp các em có vốn từ làm bài văn tả người, trong tiết dạy đầu tiên tôi đã yêu cầu các em chuẩn bị trước bài tập sau: Em hãy tìm những từ ngữ chỉ hình dáng, khuôn mặt, màu da, vẻ đẹp, dáng đi, cử chỉ, thái độ, tính tình ... của người định tả. Ví dụ : Để làm tốt bài văn tả cảnh tôi cho học sinh làm các bài tập mở rộng vốn từ như : Tìm những từ chỉ màu sắc, những từ chỉ mức độ khác nhau của màu xanh, màu đỏ, màu vàng, màu tím, màu nâu ,...
  • Vốn từ được tích lũy từ nhiều nguồn : Giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo; xem, nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; cô giáo cung cấp.
  • Cung cấp cho các em các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề cụ thể như:
  • Các từ thường dùng trong miêu tả cây cối : xanh mướt, mơn mởn, rung rinh, um tùm, khẳng khiu, rực rỡ, mỡ màng, vàng úa, xơ xác, lác đác,...
  • Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật : tròn xoe, vuông vắn, nhỏ nhắn, xinh xắn, đo đỏ,...
  • Các từ thường dùng trong miêu tả con vật : oai vệ, rón rén, lặc lè, nhanh thoăn thoắt, chậm chạp, ì ạch, phành phạch, tinh nhanh, ranh mãnh,...
  • Các từ thường dùng trong miêu tả người : tả em bé (mịn màng, mũm mĩm; mập mạp, chập chững, bập bẹ, bi bô, mếu máo, hau háu, ngộ nghĩnh, bướng bỉnh, nghịch ngợm ), tả cụ già (nhăn nheo, hom hem, dò dẫm, đồi mồi, bỏm bẻm, móm mém, lẩm cẩm, run rẩy..) Qua các ví dụ trên học sinh sẽ tự mình làm giàu được vốn từ và sử dụng một cách có hiệu quả khi viết các đoạn văn tả cảnh khác nhau. Những cách làm như trên nhằm trang bị cho học sinh vốn từ chuẩn bị tốt điều kiện cho các em làm bài viết. _ Hướng dẫn các em luyện viết câu văn có sử dụng biện pháp tu từ._* + So sánh : Ví dụ : Hãy thêm những vế câu có hình ảnh so sánh thích hợp vào chỗ trống để mỗi dòng dưới đây trở thành một câu văn có ý mới mẻ, sinh động.
    • Ánh mắt dịu hiền của mẹ là ...
    • Mảnh trăng lưỡi liềm lơ lững giữa trời như ... + Nhân hóa : Điều đầu tiên tôi cho học sinh hiểu như thế nào là phép nhân hóa, sau đó ra các bài tập có nội dung nhân hóa sự vật để học sinh xác định được rồi dần dần mở rộng ra bằng cách cho học sinh viết đoạn văn có sử dụng biện pháp nhân hóa. Ví dụ : Hãy sử dụng biện pháp nhân hóa để diễn đạt lại những câu văn dưới đây cho sinh động, gợi cảm.
    • Những bông hoa nở trong nắng sớm.
    • Mùa xuân, sân trường mướt xanh màu lá. Ví dụ : Viết đoạn văn ( 4 đến 5 câu ) có sử dụng biện pháp nhân hóa theo yêu cầu:
    • Dùng cách xưng hô của con người để gọi sự vật.
    • Dùng từ ngữ chỉ đặc điểm của con người để tả sự vật. Như vậy qua chấm bài của học sinh, tôi thấy nhiều em khi làm bài đã biết dùng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa. VD:
    • Bé Lan nhà em có đôi mắt đen tròn như hai hạt nhãn, hai má ửng đỏ như trái chín.
    • Mặt trời thức dậy từ phía đông, vung tay gieo những tia nắng xuống cánh đồng. Khi hướng dẫn học sinh viết câu văn sinh động, gợi cảm... tôi kết hợp hướng dẫn các em kỹ năng liên kết câu. Từ những gợi ý đó, tôi thấy hầu hết các bài văn của các em đi đúng thể loại, đúng yêu cầu của đề bài, trong đó trên 2/3 các em diễn đạt tốt Giải pháp 5: Xây dựng phong trào đọc sách tích cực. Đọc sách là một việc làm hữu ích đối với các em. Qua bài văn, bài thơ hay câu chuyện sẽ giúp các em tiếp thu được ở đó nhiều điều bổ ích, lý thú. Các em sẽ
  • Tiến hành :
  • GV là người dẫn chương trình gọi một HS lên bảng tham gia trò chơi (khuyến khích HS xung phong)
  • HS được gọi lên chọn một số bất kì trên bảng phụ. Sau đó GV ( hoặc cử một bạn khác) dán bức ảnh có số tương ứng lên bảng, người chơi có nhiệm vụ miêu tả về người trong ảnh ( 2-3 câu).
  • GV gọi tiếp một số HS khác tham gia trò chơi( số lượng phụ thuộc vào thời gian dành cho trò chơi).
  • Khi trò chơi kết thúc, GV và các bạn trong câu lạc bộ bình chọn người chơi miêu tả hay nhất. HS nào có số phiếu bình chọn nhiều nhất sẽ là người thắng cuộc. Từ khi tiến hành dạy học theo hình thức câu lạc bộ, các tiết ôn luyện của trường chúng tôi đã không đi theo một lối mòn chung: giáo viên hướng dẫn – HS thực hành làm các bài tập rèn kĩ năng – nhận xét, chấm chữa nữa mà mỗi khâu tiến hành đều được đổi mới. Tham gia câu lạc bộ mỗi cô giáo là một MC duyên dáng, hài hước đến bất ngờ. Tham gia câu lạc bộ mỗi nội dung kiến thức là một phần thi hấp dẫn, thú vị đầy sức hút. Các em được ôn tập nhiều kiến thức, kỹ năng phong phú hơn và mục tiêu phân hóa đối tượng càng được đảm bảo hơn. Tham gia câu lạc bộ, các em học sinh còn được hòa mình thành những người chơi sôi nổi, nhiệt tình và tiết học nào, phần thi nào các em cũng hào hứng tích cực và chủ động tham gia. Với câu lạc bộ như thế này cơ hội để các em giao lưu, mở rộng, học hỏi lẫn nhau trong toàn khối cũng sẽ lớn hơn rất nhiều. 2. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường: Qua việc áp dụng những kinh nghiệm trên vào việc dạy văn miêu tả cho học sinh, tôi đã thu được những kết quả sau:
  • Hầu hết học sinh đều nắm được kỹ năng để làm một bài văn miêu tả. Bên cạnh miêu tả những cái chung của đối tượng, các em còn phát hiện ra những nét riêng, độc đáo.
  • Bài văn của học sinh trở nên sinh động có hình ảnh, bộc lộ cảm xúc chân thực giàu chất văn, tránh được điểm khô khan, liệt kê sự việc mà thấm đượm cảm xúc của người viết, thể hiện một cách tự nhiên tình cảm gắn bó, yêu thương đối với đối tượng được tả.
  • Các em thoát ly văn mẫu, tự tin hứng thú diễn đạt những quan sát nhận xét của mình một cách mạch lạc, trôi chảy, có sáng tạo. Với cùng một đề bài nhưng luôn có bài văn khác nhau.
  • Chất lượng viết văn được nâng lên.
  • Khi thực hiện tôi thấy học sinh rất thích học. Với phương pháp dạy như trên, tôi thấy học sinh có sự chuyển biến rõ rệt trong việc làm các bài tập làm văn. Cụ thể bài viết của các em đã có những ưu điểm sau:
  • Bài văn có ba phần rõ rệt, đúng với nội dung cấu tạo của từng thể loại văn.
  • Bài viết có bố cục rõ ràng, rành mạch, cân đối, chặt chẽ, diễn đạt rõ ý.
  • Văn viết rõ ý, rõ nghĩa, ý mạch lạc.
  • Trình tự bài tả lo-gic theo thứ tự thời gian, không gian ..ều bài viết đã biết kết hợp cả không gian và thời gian nên bài viết có bố cục hợp lí.
  • Các em đã biết sử dụng hợp lí các biện pháp nghệ thuật nên bài viết đã có nhiều hình ảnh hấp dẫn làm nổi bật trọng tâm cảnh tả và tả sâu một số hình ảnh nên bài viết sinh động.
  • Các em đã biết gửi gắm tình cảm của mình vào từng cảnh tả, biết kết hợp xen tả và thể hiện cảm xúc một cách chân thật, gắn liền với từng sự việc cụ thể nên có tác dụng lôi cuốn người đọc. Kết quả đó được thể hiện cụ thể như sau: KÕt qu¶ kh¶o s ̧t cuèi n ̈m häc 2 017 - 2018

Số học sinh cả lớp

Số học sinh làm văn hay, có hình ảnh.

Hoàn thành bài Chưa hoàn thành

26 em

SL TL SL TL SL TL

10 38,5 16 61,5 0 0

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

3. Kết luận: Thông qua các giải pháp tôi đã giảng dạy tại lớp và kết quả đạt được, tôi rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm trong quá trình hướng dẫn học sinh làm bài văn miêu tả như sau: