Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ công vụ vì vụ lợi là gì

Điều 356 Chương XXIII Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ như sau:

Điều 356. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ

1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

3. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”

2. Dấu hiệu pháp lý của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ

2.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào Nhà nước.

Mặc dù tội phạm này gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân nhưng không vì thế mà cho rằng khách thể của tội phạm này những thiệt hại thực tế xảy ra của Nhà nước, của xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân, mà những thiệt hại đó chỉ là hậu quả của hành vi phạm tội.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội phạm bao gồm 2 hành vi song song là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn và hành vi gây thiệt hại.

Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng tương tự như hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người phạm tội tham ô, tội nhận hối lộ và các tội phạm khác có việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn và đã sử dụng chức vụ, quyền hạn đó một cách trái phép nhằm mục đích mà họ đặt ra. Nếu không sử dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có thì không thực hiện được hành vi để đạt được mục đích của mình.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ để gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi gây thiệt hại đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của người phạm tội, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện được hành vi gây thiệt hại; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện hành vi gây thiệt hại  một cách dễ dàng.

Hành vi thứ hai của tội này là hành vi gây thiệt hại. Thiệt hại ở đây có thể là thiệt hại về tài sản nhưng cũng có thể là thiệt hại khác xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Thiệt hại khác ở đây không phải thiệt hại về vật chất, nó có thể là thiệt hại phi vật chất như danh dự, uy tín hoặc làm xáo trộn hoạt động bình thường của nhà nước, tổ chức, cá nhân,...

Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Tội phạm hoàn thành khi hậu quả gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng trở lên hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm cũng là các dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội; là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ với các tội phạm khác cũng có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn.

Trước hết, người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ phải là người có chức vụ, quyền hạn.

Người có chức vụ, quyền hạn là người đã được nêu ở phần khái niệm các tội phạm về chức vụ.

Sau đó, người có chức chức vụ, quyền hạn phải đang trong khi thi hành công vụ. Nếu người phạm tội lợi dụng chức vụ quyền hạn nhưng không trong thời gian thực hiện công vụ thì không phạm tội này, tùy từng trường hợp sẽ được định tội danh tương ứng.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXIII Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, người phạm tội thực hiện hành vi của mình là cố ý (cố ý trực tiếp), tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; không có trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân nào được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì người phạm tội bao giờ cũng mong muốn gây thiệt hại cho xã hội.

Mục đích của tội phạm được xác định ngay tại điếu văn của Điều 356 Bộ luật Hình sự: “Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác”.

Động cơ vụ lợi là vì lợi ích vật chất của mình, của đơn vị mình hoặc của một tổ chức mà mình tham gia... Nói chung, thực tiễn xét xử việc xác định động cơ vụ lợi không khó, nhưng khó nhất vẫn là việc xác định động cơ cá nhân khác của người phạm tội.

Động cơ cá nhân khác là vì lợi ích phi vật chất của mình, của người khác mà mình quan tâm như: vì nể nang, vì cảm tình cá nhân, vì danh vọng, địa vị xã hội...

3. Hình phạt đối với người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ

Điều 356 Bộ luật Hình sự quy định 04 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

- Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

- Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

- Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Bộ luật Hình sự

Luật Hoàng Anh

Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ là một HÀNH VI VI PHẠM pháp luật và người thực hiện hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tùy vào mức độ gây thiệt hại của hành vi mà người phạm tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ sẽ phải gánh chịu những mức hình phạt khác nhau. Bài viết dưới đây sẽ giải thích cụ thể hơn về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ để các bạn hiểu rõ hơn về tội này.

Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ

Cơ sở pháp lý tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ

Cơ sở pháp lý quy định trách nhiệm hình sự đối với tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ được quy định tại Điều 355 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

Quy định pháp luật về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ

Hình phạt chính

Theo Điều 355 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản như sau:

  • Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 06 năm:
  • Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
  • Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
  • Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 năm đến 13 năm:
  • Có tổ chức;
  • Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
  • Phạm tội 02 lần trở lên;
  • Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
  • Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng;
  • Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.
  • Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 13 năm đến 20 năm:
  • Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
  • Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng;
  • Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động;
  • Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
  • Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân:
  • Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
  • Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.

Hình phạt bổ sung

Người phạm tội với tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ còn có thể gánh chịu một hoặc một vài hình phạt sau đây:

  • Cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm;
  • Có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Quy định của pháp luật về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn

>>> Xem thêm: Trình tự thi hành cấm đảm nhiệm chức vụ

Cấu thành tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ

Chủ thể

Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là chủ thể đặc biệt. Ngoài việc chủ thể này phải đảm bảo các yếu tố về độ tuổi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, thì chủ thể của tội phạm phải là người có chức vụ, quyền hạn trong Bộ máy Nhà nước.

Khách thể

Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ đã xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước, gây thiệt hại cho lợi ích của xã hội, của Nhà nước và quyền lợi hợp pháp của công dân.

Mặt khách quan

  • Hành vi khách quan: Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là việc một người có chức vụ, quyền hạn nhưng lại lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó thực hiện một hoặc một số hành vi một cách trái phép nhằm mục đích vụ lợi. Hay nói cụ thể hơn đó là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ. Trong thực tiễn, việc làm trái công vụ có thể là không làm trong trường hợp họ buộc phải làm và có điều kiện để làm hoặc làm nhưng thực hiện không đầy đủ hoặc làm ngược lại với quy định hoặc không thực hiện đúng theo yêu cầu của công vụ.
  • Hậu quả của hành vi: Hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền hạn phải gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nếu hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chưa gây thiệt hại thì chưa cấu thành tội phạm này. Hậu quả đối với tội phạm này là dấu hiệu bắt buộc và phải nằm trong quy định của Bộ luật hình sự. Cụ thể như sau:
  • Thiệt hại về tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp tại khoản 1 Điều 335 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017;
  • Gây thiệt hại khác đến lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Mặt chủ quan

Dấu hiệu lỗi: lỗi cố ý.

Dấu hiệu động cơ phạm tội: động cơ phạm tội được pháp luật quy định là động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Động cơ vụ lợi là hành vi làm trái công vụ được thúc đẩy thực hiện nhằm có được một hoặc một số lợi ích vật chất nhất định. Còn động cơ cá nhân khác có thể là do nể tình riêng, vì tình cảm cá nhân, hoặc vì các lợi ích phi vật chất khác như danh tiếng hoặc địa vị xã hội.

>>> Xem thêm: THỜI HẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ KHOẢNG BAO LÂU?

Cấu thành tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ.

Trên đây là bài viết của chúng tôi về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Nếu bạn đọc có thắc mắc tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ hay những vấn đề phát sinh đối với tội này vui lòng liên hệ với Công ty Luật Long Phan PMT qua số hotline 1900.63.63.87 để được TƯ VẤN LUẬT HÌNH SỰ. Xin cảm ơn!

Video liên quan

Chủ đề