Nhà văn nổi tiếng nhất việt nam là ai

Hiện nay, trong làng văn học nước ta có nhiều cây bút đặc sắc với những tác phẩm thu hút được sự quan tâm của độc giả. Dưới đây là các nhà văn nổi tiếng Việt Nam được nhiều yêu thích nhất.

Bạn đang xem: Các nhà văn nổi tiếng việt nam


Các nhà văn nổi tiếng Việt Nam hiện nay

Nguyễn Nhật Ánh

Nguyễn Nhật Ánh là một nhà văn nổi tiếng nhất Việt Nam được biết đến qua nhiều tác phẩm văn học về đề tài tuổi mới lớn với những câu chuyện hồn nhiên, trong sáng. Mỗi một cuốn sách của ông phát hành đều được đông đảo độc giả ưa chuộng và trong đó có nhiều tác phẩm đã được chuyển thể thành phim. 

Những tác phẩm của ông sáng tác đều hết sức gần gũi, mang hơi hướng gia đình, tuổi thơ, những điều rất đỗi bình dị, do đó dễ chạm đến con tim của độc giả. Mỗi cuốn sách của Nguyễn Nhật Ánh như một bức tranh mở ra trước mắt người đọc những khung cảnh chân phương, đầy ắp tiếng cười.

Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm nổi tiếng được công chúng đón nhận như Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Tôi là Bêtô, Mắt biếc, Cô gái đến từ hôm qua, Lá nằm trong lá, Bảy bước tới mùa hè, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh… Sách của Nguyễn Nhật Ánh liên tục được tái bản và chưa bao giờ giảm sức hút với những người yêu mến chất văn trong sáng, dí dỏm của nhà văn.

Nhà văn nổi tiếng nhất việt nam là ai

Các nhà văn nổi tiếng Việt Nam hiện nay

Trang Hạ

Nhà văn Trang Hạ tên thật là Hạ Trịnh Minh Trang. Cô từng là bút thế hệ đầu của Hội bút Hương đầu mùa do báo Hoa học trò thành lập vào những năm đầu của thập niên 1990. Trang Hạ là một cây bút nữ viết truyện ngắn và dịch truyện nổi đình đám ở Hà Nội. Các tác phẩm của cô luôn đề cao giá trị nhân cách của người phụ nữ và đề cập đến những số phận phụ nữ bất hạnh nên luôn được nhiều độc giả đón nhận. 

Trang Hạ còn được biết đến trong vai trò là dịch giả của Xin lỗi, em chỉ là con đĩ, tác phẩm này được đông đảo bạn trẻ Việt Nam yêu thích với lối viết phóng khoáng, giọng điệu đanh thép và mạnh mẽ. Bên cạnh đó, những tác phẩm bán chạy của cô có thể kể đến như Đàn bà 30 hay Tình nhân không bao giờ đòi cưới. Ngoài những cuốn sách “hot” trên thị trường, Trang Hạ còn gây sốc bởi những phát ngôn để đời, chủ yếu là mắng nhiếc đàn ông và phơi bày những thói hư tật xấu của đấng mày râu.

Gào

Nhà văn Gào tên thật là Vũ Phương Thanh, sinh năm 1988, cô là một nữ blogger nổi tiếng với hàng triệu lượt người theo dõi. Năm 2015, cô đã nhận được giải Nữ tác giả được yêu thích nhất của Tiki Book Awards. 

Từ những truyện ngắn đăng trên mạng xã hội như Yahoo, 360 Blog cho đến những bản in ra thành sách đều trở thành sách bán chạy nhất trong những năm gần đây. Có thể kể đến một số tác phẩm nổi tiếng của cô như Nhật ký son môi, Tự sát, Cho em gần anh thêm chút nữa… Sáng tác của Gào là những câu chuyện giản dị về tình cảm, tình yêu, gia đình, hay cả những trăn trở lo toan trong cuộc sống thường nhật. Chính vì vậy, những tác phẩm này dễ dàng đi sâu vào lòng mỗi độc giả, đặc biệt là những người trẻ tuổi.

Minh Nhật

Minh Nhật tên đầy đủ là Nguyễn Minh Nhật, sinh 1987, anh là cây bút được rất nhiều bạn đọc trẻ yêu thích. Bên cạnh đó, anh còn được biết đến với bút danh Sky khi còn làm việc cho báo Hoa học trò, anh được mệnh danh là “hoàng tử teenstory” với những câu chuyện lãng mạn và nhẹ nhàng rung động lứa tuổi học trò.

Các tác phẩm của Minh Nhật đã được xuất bản như Hà Nội chờ, Những đêm không ngủ, Sự lựa chọn của bầu trời, Lạc lối giữa cô đơn… Đặc biệt, với cuốn Chúng ta rồi sẽ ổn thôi là tập tản văn hợp tác của Minh Nhật và Gào đã tạo nên cơn sốt trong ngày đầu ra mắt với hơn một vạn cuốn được bán ra chỉ sau 24 giờ phát hành.

Xem thêm: Bàn Phím Số Laptop Dell - Sửa Lỗi Bàn Phím Bị Lỗi Gõ Số Ra Chữ

Phan Ý Yên

Phan Ý Yên tên thật Nguyễn Hoàng Phương Thảo, cô là một trong các các nhà văn nổi tiếng Việt Nam hiện nay, với nhiều cuốn sách được giới trẻ yêu thích. Cô là một nhà văn trẻ với những tác phẩm viết cho người trẻ và viết về cuộc sống của người trẻ. Chính vì vậy, khi đọc những tác phẩm của chị cũng có thể dễ dàng bắt gặp chính mình. 

Mỗi truyện ngắn trong Hãy nói yêu thôi đừng nói yêu mãi mãi, Lạc mất và tìm thấy, Em là để yêu, Người lớn cô đơn, Cà phê với người lạ… đều phản ánh những câu chuyện xoay quanh cuộc sống của người trẻ. Đó có thể là những ước mơ, hoài bão, những cung bậc cảm xúc, là nỗi cô đơn, hay đau khổ trong tình yêu, nhưng vẫn ánh lên niềm tin tưởng vào tình yêu.

Đặc biệt, tác phẩm Tình yêu là không ai muốn bỏ đi của Phan Ý Yên gồm 27 tản văn và 8 truyện ngắn. Trong đó là những câu chuyện mang đậm màu sắc của hoài niệm về tình bạn, tình yêu và dư vị ngọt ngào đến tận những trang cuối của cuốn sách. 

Nhà văn nổi tiếng nhất việt nam là ai

Các nhà văn nổi tiếng Việt Nam hiện nay

Tờ Pi

Tờ Pi tên thật là Trang Hà Trang, sinh năm 1988 tại Hà Nội. Cô cũng là một trong các nhà văn nổi tiếng Việt Nam với những tác phẩm viết về gia đình, tình yêu và cuộc sống. Lần đầu tiên cô viết sách với nhiệt huyết của tuổi trẻ, đã được đông đảo bạn bè đón nhận và yêu mến. 

Chính vì lẽ đó mà tác phẩm Tạm biệt, em ổn đã động vào sâu thẳm trái tim của các cô gái đã và đang yêu. Cuốn sách này giúp bạn đọc nhìn nhận lại bản thân mình, nhìn nhận lại mọi thứ xung quanh mình và nhận ra đâu mới là giá trị đích thực của cuộc sống. Tờ Pi muốn cho người đọc biết được kinh nghiệm vượt qua đau thương, muốn nhắn nhủ tới người đã phản bội cô và gửi lời cảm ơn đến những người đã luôn bên cạnh giúp đỡ cô. 

Với nhiều cung bậc cảm xúc chân thực và gần gũi, cuốn sách đã chinh phục được nhiều độc giả, đặc biệt là những cô gái trẻ. Cuốn sách dành này dạy các cô nàng sống thật, biết cách vượt qua nỗi để đứng lên mạnh mẽ và giúp các cô thức tỉnh, đừng bao giờ nghĩ cuộc sống chỉ màu hồng. Qua đó, giúp các cô hiểu rằng, điều quan trọng nhất là biết tìm ra và yêu thương chính bản thân mình.

Kawi Hồng Phương

Kawi Hồng Phương tên thật là Lê Thị Hồng Phương, cô cũng là một cây bút tạo khá nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc tuổi teen. Những sáng tác của cô đã từng “dậy sóng” trong cộng đồng một thời. Cô còn có hẳn một “Hội những người mê mệt truyện của Kawi Hồng Phương” với gần 6000 người yêu thích.

Những tác phẩm của Kawi Hồng Phương đã được xuất bản gồm: tiểu thuyết Shock Tình, truyện dài Tôi không phải là công chúa, Bạn gái của thiếu gia, Hoàng tử Online, Không phải là cổ tích, Khúc mưa tan và một số truyện ngắn, truyện dài đã được in chung thành sách.

Born

Born là một nữ tác giả văn học khá kì bí trong giới trẻ, hiện nay vẫn chưa có bất kỳ thông tin nào về cô ngoài bút danh Born và Granty. Cô đã đem đến và chinh phục được độc giả của mình bằng chính những câu chuyện trong sáng, tràn ngập thanh xuân. 

Hàng loạt các tác phẩm của cô được xuất bản và gây ấn tượng lớn đối với giới trẻ như: Sẽ để em yêu anh lần nữa, Đợi chờ ký ức, Tìm lại yêu thương ngày xưa, Nói yêu em 7 lần, Nếu như yêu, Mong manh tình đầu, Nơi ấy có anh, Khoảng cách tình yêu, Hương vị đồng xanh… 

Đề tài sáng tác của Born chủ yếu là tình yêu giữa nam và nữ, xen vào đó là tình bạn và tình cảm gia đình. Cô luôn lấy đề tài từ cuộc sống bên ngoài khi vô tình bắt gặp, do đó các tác phẩm của cô đều mang giá trị hiện thực. Bên cạnh đó cô còn thích tô đậm hoàn cảnh nhân vật một cách khắc nghiệt khiến các nhân vật của mình trở nên đáng thương khiến độc giả cảm động. Đặc biệt thích đặt mình vào vị trí từng nhân vật và diễn tả cảm xúc của họ một cách chân thật, chứ không giấu diếm.

Trên đây là những nhà văn nổi tiếng Việt Nam được đông đảo độc giả quan tâm, hy vọng sẽ giúp các bạn tìm được tác giả và tác phẩm mà mình yêu thích.

Nguyễn Tường Tam (chữ Hán: 阮祥三 hay 阮祥叄; 1906[1] - 7 tháng 7 năm 1963) là một nhà văn, nhà báo với bút danh Nhất Linh (一靈), Tam Linh, Bảo Sơn, Lãng du, Tân Việt, Đông Sơn (khi vẽ); và cũng là chính trị gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 20.

Nhà văn nổi tiếng nhất việt nam là ai

Nhất Linh

Sinh1906
Cẩm Giàng, Hải DươngMất1963 (56 – 57 tuổi)
Sài GònBút danhNhất Linh, Đông Sơn, Tam Linh, Bảo Sơn, Lãng du, Tân Việt.Nghề nghiệpNhà văn, chính kháchQuốc tịchViệt NamGiai đoạn sáng tác1924 - 1963Chủ đềHiện thực xã hội, lãng mạnTác phẩm nổi bậtGánh hàng hoa, Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Nho phong, Anh phải sống, Thương chồng...

Ông là người thành lập Tự Lực văn đoàn và là cây bút chính của nhóm, và từng là Chủ bút tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay. Về sau, ông còn là người sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến.

Ông sinh ra tại phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Nguyên quán của ông là làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.[2]

Ông nội Nguyễn Tường Tam là Nguyễn Tường Tiếp, làm tri huyện Cẩm Giàng, gọi là Huyện Giám, rồi về hưu tại đây. Cụ có người con trai duy nhất là Nguyễn Tường Chiếu (húy Nhu) làm Thông phán, nên được gọi là Thông Nhu, hay Phán Nhu. Ông Nhu mất năm 1918 khi mới 37 tuổi. Ông lập gia đình với bà Lê Thị Sâm,[3] và có được 7 người con, trong đó có 6 con trai và 1 con gái:

  • Nguyễn Tường Thụy, tổng giám đốc bưu điện
  • Nguyễn Tường Cẩm, kỹ sư canh nông
  • Nguyễn Tường Tam, tức nhà văn Nhất Linh
  • Nguyễn Tường Long, tức nhà văn Hoàng Đạo
  • Nguyễn Thị Thế
  • Nguyễn Tường Lân, tức nhà văn Thạch Lam
  • Nguyễn Tường Bách, bác sĩ.

Gia đình Nguyễn Tường Tam sống ở Cẩm Giàng, một huyện nhỏ. Cha ông mất sớm, cả nhà lâm vào cảnh khó khăn. Từ bé, anh em Nguyễn Tường Tam đã tiếp xúc với những người nông dân nghèo khổ, điều đó ảnh hưởng đến văn học của Nhất Linh và Thạch Lam sau này.

Thuở nhỏ, Nguyễn Tường Tam theo học tiểu học ở Cẩm Giàng, học trung học tại trường Bưởi ở Hà Nội. Năm 16 tuổi, Nguyễn Tường Tam làm thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn, và năm 18 tuổi ông có bài "Bình Luận Văn Chương về Truyện Kiều" trên Nam Phong tạp chí .

Cuối năm 1923 ông đậu bằng Cao tiểu. Nhưng vì chưa đến tuổi vào trường cao đẳng, nên ông làm thư ký ở sở tài chính Hà Nội. Ông làm quen với Tú Mỡ và viết cho tờ Nho Phong. Thời gian đó, ông lập gia đình với bà Phạm Thị Nguyên.

Năm 1924, ông tiếp tục học ngành Y và Mỹ thuật, nhưng chỉ một năm rồi bỏ. Năm 1926, Nguyễn Tường Tam vào Nam, gặp Trần Huy Liệu và Vũ Đình Di định cùng làm báo. Nhưng vì tham dự đám tang Phan Chu Trinh nên hai người này bị bắt, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Campuchia, sống bằng nghề vẽ và tìm đường đi du học.

Năm 1927, Nguyễn Tường Tam sang Pháp du học. Ở nơi ấy, ông vừa học khoa học, vừa nghiên cứu về nghề báo và nghề xuất bản. Năm 1930, ông đậu bằng Cử nhân Khoa học Giáo khoa (Lý, Hóa) và trở về nước trong năm đó.

Hoạt động văn chương

Trở về nước, Nguyễn Tường Tam xin ra tờ báo trào phúng "Tiếng cười", nhưng lần nào hỏi thăm đều nghe Sở Báo chí của Phủ Thống sứ bảo rằng "chờ xét".[4] Trong thời gian chờ đợi giấy phép ra báo, ông xin dạy học tại trường tư thục Thăng Long. Ở đó ông quen biết với thầy giáo dạy Việt văn là Trần Khánh Giư (tức Khái Hưng).

Năm 1932, Nguyễn Tường Tam mua lại tờ tuần báo Phong Hóa của Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai, và trở thành Giám đốc kể từ số 14, ra ngày 22 tháng 9 năm 1932.[5] Ông chủ trương dùng tiếng cười trào phúng để đả kích các hủ tục phong kiến, hô hào "Âu hóa", đề cao chủ nghĩa cá nhân....[6] Trong năm ấy, ông và các cộng sự quyết định thành lập Tự Lực văn đoàn trên nguyên tắc "dựa vào sức mình, theo tinh thần anh em một nhà. Tổ chức không quá 10 người để không phải xin phép Nhà nước, chỉ nêu ra trong nội bộ mục đích tôn chỉ, anh em tự nguyện tự giác noi theo".[7] Về sau, tính chuyện lâu dài, văn đoàn này mới chính thức tuyên bố thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1934 (báo Phong Hóa số 87).

Tháng 6 năm 1935, báo Phong Hóa bị nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa ba tháng vì loạt bài "Đi xem mũ cánh chuồn " châm biếm Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu. Sau đó ra tiếp được hơn một năm, thì bị đóng cửa vĩnh viễn (số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936) cũng vì tội "chế nhạo".[8] Tờ tuần báo Ngày Nay,[9] trước ra kèm với Phong Hóa, tiếp tục và kế tiếp Phong Hóa. Tháng 12 năm 1936, trên báo Ngày Nay, Nguyễn Tường Tam cùng nhóm Tự Lực văn đoàn phát động phong trào Ánh Sáng, một tổ chức từ thiện với mục đích cải tạo nếp sống ở thôn quê, trong đó có việc làm nhà hợp vệ sinh cho dân nghèo...

Hoạt động chính trị

Năm 1938, Nguyễn Tường Tam thành lập Đảng Hưng Việt, rồi đổi tên là Đại Việt Dân chính Đảng năm 1939 mà ông làm Tổng Thư ký. Hoạt động chống Pháp của nhóm Tự Lực trở thành công khai.

Năm 1940, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí bị thực dân Pháp bắt và đày lên Sơn La, đến năm 1943 mới được thả. Trong thời gian này, Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày Nay. Tháng 9 năm ấy, báo Ngày Nay bị đóng cửa sau khi ra số 224.

Năm 1942 Nhất Linh chạy sang Quảng Châu. Thạch Lam mất tại Hà Nội vì bệnh lao. Đại Việt Dân chính Đảng thì đã gần như tan rã. Trong thời gian từ 1942 đến 1944, ông học Anh Văn và Hán văn.

Tại Quảng Châu và Liễu Châu ông gặp Nguyễn Hải Thần và Hồ Chí Minh mới ở tù ra. Nguyễn Tường Tam cũng bị giam bốn tháng ở Liễu Châu, được Nguyễn Hải Thần bảo lãnh mới được Trương Phát Khuê thả ra. Nguyễn Tường Tam hoạt động trong Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội, rồi về Côn Minh hoạt động trong hàng ngũ Việt Nam Quốc dân đảng, tá túc với Vũ Hồng Khanh. Tháng 3 năm 1944, tại Liễu Châu, Nguyễn Tường Tam được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, tức Việt Cách.

Giữa năm 1945, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Giang cùng quân đội, nhưng rồi lại quay lại Côn Minh và đi Trùng Khánh. Giai đoạn này đã được phản ánh trong tiểu thuyết Giòng sông Thanh Thủy. Theo lệnh của Nhất Linh từ Trung Quốc gửi về, báo Ngày Nay, với Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách, lại tục bản, khổ nhỏ, ngày 5 tháng 3 năm 1945 và trở thành cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Tháng 5 năm 1945, tại Trùng Khánh, Đại Việt Dân chính đảng sáp nhập với Việt Nam Quốc dân đảng, đồng thời Việt Nam Quốc dân Đảng liên minh với Đại Việt Quốc dân Đảng. Nguyễn Tường Tam làm Bí thư Trưởng[10] của Việt Nam Quốc dân Đảng. Cuối năm 1945, Đại Việt Quốc dân Đảng và Việt Nam Quốc dân Đảng thành lập Mặt trận Quốc dân Đảng.

Sau khi quân Tưởng vào Việt Nam, đầu năm 1946 Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội, tổ chức hoạt động đối lập chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xuất bản báo Việt Nam. Tháng 3 năm 1946, sau khi đàm phán với chính phủ, ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến.[11]

Ông cũng tham gia Quốc hội khóa I đặc cách không qua bầu cử.

Nguyễn Tường Tam được cử làm Trưởng đoàn Việt Nam dự Hội nghị trù bị Đà Lạt đàm phán với Pháp, mặc dù trên thực tế Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo phái đoàn.[12] Theo đại tướng Võ Nguyên Giáp, do bất đồng Tam đã không tham gia hầu hết các phiên họp còn theo David G. Marr Tam là người phát ngôn có năng lực và giúp giải quyết một số tranh cãi về chiến thuật đàm phán trong đoàn.[12][13] Ông được cử đứng đầu Phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau nhưng cáo bệnh không đi mà rời bỏ Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, lưu vong sang Trung Quốc tháng 5 năm 1946 và ở lại Hồng Kông cho tới 1951.

Sau đó xảy ra sự kiện vụ án phố Ôn Như Hầu, lực lượng công an khám xét các của cơ sở của Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng, bắt giữ nhiều đảng viên hai đảng này, và tịch thu được nhiều vũ khí truyền đơn khẩu hiệu chống chính quyền. Khi Nguyễn Tường Tam rời bỏ chính phủ, chính phủ đã tuyên bố ông đào nhiệm và biển thủ công quỹ, tiền chi phí cho phái đoàn sang Pháp đàm phán.[14] Tuy nhiên, theo sử gia David G. Marr, việc biển thủ công quỹ này khó xảy ra, vì ông khó lòng được giao trách nhiệm giữ tiền của phái đoàn.[12]

Năm 1947, Nguyễn Tường Tam cùng Trần Văn Tuyên, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn Hải Thần, Lưu Đức Trung thành lập Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp ủng hộ giải pháp Bảo Đại thành lập Quốc gia Việt Nam, chống cả Việt Minh lẫn Pháp, nhưng đến năm 1950 thì mặt trận này giải thể.

Năm 1951, ông từ Hồng Kông về nước, mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực văn đoàn, và tuyên bố không tham gia các hoạt động chính trị nữa. Năm 1953, Nguyễn Tường Tam lên sống tại Đà Lạt. Tuy nhiên trong Quốc dân Đảng vẫn tồn tại phái Nguyễn Tường Tam, cạnh tranh với hai phái khác.

Năm 1958, ông rời Đà Lạt về Sài Gòn, ông mở giai phẩm Văn hóa Ngày Nay ở Sài Gòn, phát hành được 11 số thì bị đình bản. Năm 1960 ông thành lập Mặt trận Quốc dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông. Đảo chính thất bại, ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm giam lỏng tại nhà riêng.

Ông bị chính phủ Ngô Đình Diệm gọi ra xử ngày mùng 8 tháng 7 năm 1963. Đêm 7 tháng 7, tại nhà riêng, nghe tin sẽ bị đưa ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam dùng thuốc độc quyên sinh để phản đối chính quyền độc tài của Ngô Đình Diệm, để lại phát biểu nổi tiếng:

"Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội những phần tử quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản. Vì thế tôi tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu là để cảnh cáo những ai chà đạp mọi thứ tự do."[15]

Vợ ông là bà Phạm Thị Nguyên (1909-1981), quê làng Phượng Dực, Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay thuộc ngoại thành Hà Nội). Tuy là người Tây học, nhưng cuộc hôn nhân này do cha mẹ ông quyết định. Vợ ông trước năm 1945 là chủ hiệu buôn cau khô có tiếng ở Hà Nội mang tên Cẩm Lợi ở số 15 phố Hàng Bè. Bà mất tại Pháp ngày 6 tháng 5 năm 1981.

Ông và bà Phạm Thị Nguyên có bảy người con, gồm năm con trai (Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Triệu, Nguyễn Tường Thạch, Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Tường Thái) và hai con gái (Nguyễn Kim Thư, Nguyễn Kim Thoa).[16]

Đêm 7 tháng 7 năm 1963, Nhất Linh đã quyên sinh bằng rượu pha thuốc độc. Theo lệnh của nhà cầm quyền lúc bấy giờ, gia đình phải chôn ông gấp tại nghĩa trang chùa Giác Minh ở Gò Vấp, không cho đợi người con cả của ông ở Pháp về dự lễ tang.

Năm 1975, Nguyễn Tường Thạch (con trai Nhất Linh) đã hỏa thiêu di cốt của cha, rồi gửi bình tro tại chùa Kim Cương, đường Trần Quang Diệu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1981, vợ ông sang Pháp đoàn tụ với các con, rồi qua đời và an táng tại đó. Năm 2001, các con của ông quyết định đưa di cốt của cha mẹ và của chị gái lớn là Nguyễn Kim Thư về trong khu mộ của dòng họ Nguyễn Tường tại Hội An (Quảng Nam).[17]

  • Gánh hàng hoa (cùng Khái Hưng, 1934), 13 chương
  • Đời mưa gió (cùng Khái Hưng, 1934), 3 chương
  • Nắng thu (1934)
  • Đoạn tuyệt (1934-1935), 28 chương
  • Lạnh lùng (1935-1936), 7 chương
  • Đôi bạn (1936-1937), 19 chương
  • Bướm trắng (1938-1939), 9 chương
  • Con đường sáng (cùng Hoàng Đạo, 1940), 19 chương
  • Xóm cầu mới (1949-1957), trường thiên, viết dở dang, 24 chương
  • Giòng sông Thanh Thủy (1960-1961). Trường thiên, tác phẩm cuối cùng, gồm ba tập:
    • Ba người bộ hành (1960), 13 chương
    • Chi bộ hai người (1960), 13 chương
    • Vọng quốc (1961), 12 chương
  • Nho phong (1924)
  • Người quay tơ (1926), 11 truyện
  • Anh phải sống (cùng Khái Hưng, 1932 - 1933), 13 truyện
  • Đi Tây (1935)
  • Tối tăm (1936)
  • Hai buổi chiều vàng (1934-1937), 6 truyện
  • Thế rồi một buổi chiều (1934-1937)
  • Thương chồng (1961), 6 truyện
  • Những ngày diễm áo (1973)
  • Viết và đọc tiểu thuyết (1952-1961), 5 bài
  • Đỉnh gió hú của Emily Bronte (đăng báo 1960, xuất bản 1974)[18]
  • Đời làm báo

Mặc dầu thời gian theo học Trường Mỹ thuật không lâu, Nhất Linh cũng đã để lại một số tranh vẽ trong đó có bức Scène de Marché de rue Indochinois (Cảnh Phố Chợ Đông Dương) vẽ trên lụa thực hiện khoảng 1926-1929. Bức tranh này năm 2010 được hãng Sotheby's bán đấu giá ở Hương Cảng với giá 596.000 Đô la Hồng Kông, tương đương với 75.000 Mỹ kim.[19]

  1. ^ Căn cứ lá số tử vi lập cho cả nhà từ cuối những năm 40, thì ông sinh vào "giờ Dậu ngày 25 tháng 7 năm Bính Ngọ, tức khoảng hơn 17 giờ ngày 13 tháng 9 năm 1906" (Vu Gia, Nhất linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, Nhà xuất bản Văn hóa, 1995, tr. 5). Trong quyển Hồi ký họ Nguyễn Tường của Nguyễn Thị Thế (em ruột Nhất Linh) do Sóng xuất bản năm 1974 tại Sài Gòn cũng ghi ông sinh năm 1906, còn thẻ căn cước số F 13108 (lập ngày 19 tháng 2 năm 1951) ghi ngày 1 tháng 2 năm 1905, là do ông làm lại giấy khai sinh để đủ tuổi dự thi. Tuy nhiên, không biết lấy nguồn từ đâu, trang web của Bộ ngoại giao Việt Nam và sách Lược truyện tác gia Việt Nam (Nhà xuất bản. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972) đều ghi ông sinh ngày 25 tháng 7 năm 1925. Sách Từ điển văn học (bộ mới, tr. 1255) cũng ghi ông sinh vào ngày 27 tháng 5, nhưng lại là năm 1906.
  2. ^ Họ Nguyễn Tường, một dòng dõi quan từ đời ông Nguyễn Tường Vân là Binh bộ Thượng thư của vua Gia Long. Chữ Tường là bởi vua Gia Long đi đến chân núi Phước Tường (Hội An) thì hỏi mọi người núi này là núi gì, ông trả lời "Thưa Chúa đây là núi Phước Tường". Vua Gia Long nói với ông Nguyễn Tường Vân đi bên cạnh là hầu cận rất thân "Phước là họ ta nhưng Tường thì ta ban cho nhà ngươi". Từ đó trở đi thì mới là họ Nguyễn Tường, trước thì chỉ Nguyễn không thôi. Nguồn: Theo nhà văn, họa sĩ Duy Lam (gọi Nhất Linh là cậu). [1].
  3. ^ Xem chi tiết ở đây [2] và thông tin về dòng họ Nguyễn Tường ở trang Thạch Lam.
  4. ^ Theo Tú Mỡ (Vu Gia dẫn lại, tr. 24).
  5. ^ Xem và download tại đây [3].
  6. ^ Theo Nguyễn Hoành Khung, mục từ "Nhất Linh" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004, tr. 1255.,
  7. ^ Theo Vu Gia, sách đã dẫn, tr. 26.
  8. ^ Theo GS. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3, Sài Gòn, 1965, tr. 442) và Khúc Hà Linh, Anh em Nguyễn Tường Tam... (Nhà xuất bản Thanh niên, 2008). Ông Linh cho biết: nhà thơ Tú Mỡ từng hồi ức rằng, dạo ấy báo Phong Hóa liên tục xoáy sâu vào chế nhạo và châm biếm triều đình Huế, nên nhà cầm quyền Pháp lấy cớ tờ báo đăng truyện "Hậu Tây du", nói cạnh khoé đến những nhân vật mới trong triều đình thân Pháp ấy mà đóng cửa báo. Xem online ở đây: [4].
  9. ^ Tuần báo Ngày Nay ra số đầu ngày 30 tháng 1 năm 1935, ra số cuối 224 ngày 7 tháng 9 năm 1940.
  10. ^ Có tài liệu nói ông giữ chức Tổng Thư ký
  11. ^ Có tài liệu gọi đây là Chính phủ liên hiệp quốc gia.
  12. ^ a b c David G. Marr, Vietnam: State, War, and Revolution (1945–1946), page 422, California: University of California Press, 2013
  13. ^ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi Ký, Những năm tháng không thể nào quên, trang 274
  14. ^ Bộ trưởng Nguyễn Tường Tam, Trang web Bộ Ngoại giao
  15. ^ Tự điển danh nhân thế giới, phần nói về Nhất Linh - sách của Trịnh Chuyết, Thế giới xuất bản năm 1970 tại Saigon.
  16. ^ Nguyễn Tường Thiết. Nhất Linh cha tôi. Gardena, CA: Văn Mới, 2006.
  17. ^ Theo sách Anh em Nguyễn Tường Tam... của Khúc Hà Linh (Nhà xuất bản Thanh niên, 2008, tr. 59) và bài viết Nắm đất đưa về tất đất xưa của nhà văn Phạm Phú Minh in trong tạp chí Thế kỷ 21, số tháng 7 năm 2002.
  18. ^ Nhất Linh bắt đầu dịch từ năm 1952, đăng một phần trên Nguyệt san Tân Phong, Sài Gòn, 1960. Bản thảo còn lại cho thấy ông vẫn tiếp tục dịch vào năm 1962 nhưng không kết thúc. Ông Nguyễn Tường Thiết nhờ nhà văn Bảo Sơn dịch bổ sung để xuất bản: Nhà xuất bản Phượng Giang, Sài Gòn, 1974. Sau 1975, ông Thiết không có ấn bản 1974 nên tự dịch lại phần bổ sung. Nguồn: Emily Bronte, Đỉnh Gió Hú, Nhất Linh, Nguyễn Tường Thiết dịch
  19. ^ "Hai vẻ đẹp của Nhất Linh" đăng trên DCV”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2011.

  • Tự Lực văn đoàn
  • Báo Phong Hóa
  • Báo Ngày Nay
  • Giòng sông Thanh Thủy - Nhất Linh
  • Nhất Linh, cha tôi - Nguyễn Tường Thiết

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nguyễn_Tường_Tam&oldid=68628101”