So sánh muỗi bé hơn ruồi

Các nhà nghiên cứu từ Đại học Duke đã so sánh và xếp hạng thị lực của nhiều loài khác nhau để đo đạc độ sắc nét của mắt chúng. Trong vương quốc loài vật, hầu hết trong số chúng "nhìn thế giới với ít chi tiết hơn chúng ta nhìn thấy", nhà sinh thái học Eleanor Caves cho biết.

Bạn không thể yêu cầu một con ruồi hoặc một con đại bàng nhận biết được bảng đo thị lực mắt được. Thay vào đó, các nhà nghiên cứu đã xem xét giải phẫu mắt của chúng và theo dõi các hành vi để khám phá ra sự khác nhau về độ nét trong mắt của từng loài vật

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng phương pháp đo lường gọi là "chu kỳ trên mỗi độ" để xác định độ sắc nét. Sau đó họ đưa thông tin đó vào một phần mềm để cho thấy hình ảnh mà những con vật này sẽ thấy. Mắt người có thể nhận biết khoảng 60 chu kỳ trên mỗi độ - nghĩa là chúng ta có thể thấy đến 60 sọc trắng đen trong một tầm nhìn. Nếu có quá nhiều sọc trắng đen trong tầm nhìn chúng ta sẽ chỉ thấy một màu xám.

Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng tinh tinh và các loài linh trưởng có cùng khả năng nhìn như chúng ta. Thú vị thay, không có nhiều loài có thị lực tốt hơn chúng ta, ngoại trừ một số loài chim săn mồi có thể nhìn thấy rõ gấp đôi con người.

Một ví dụ các nhà nghiên cứu đề cập đến là loài đại bàng đuôi ngựa ở Úc. Nó có thể nhìn đến 140 chu kỳ trong mỗi độ - rất hữu ích trong việc săn các loài thú có túi nhỏ rải rác trên mặt đất trong khi những con chim bay cao hàng ngàn mét trên bầu trời.

Ngoài ra, họ còn phát hiện rằng các loài cá và phần lớn loài chim chỉ nhìn thấy khoảng 30 chu kỳ, còn loài voi thì chỉ có 10 chu kỳ - vốn là mức độ mà con người có thể xem như bị mù nhưng hầu hết các loài động vật và côn trùng thực tế rơi xuống dưới mức đó.

Ruồi là côn trùng thuộc bộ Diptera (theo tiếng Hy Lạp di có nghĩa là "hai" và pteron là "cánh"), chúng có một cặp cánh đơn trên đốt ngực giữa và một cặp bộ phận thăng bằng ở cánh sau, trên đốt ngực cuối. Một số con ruồi không có cánh như trong họ Hippoboscoidea.

Nằm trong một bộ lớn, tổng số hơn 240.000 loài gồm muỗi, ruồi nhuế và các loài khác, mặc dù chỉ dưới ½ đã được nghiên cứu. Đó là một bộ chính xét về lĩnh vực sinh thái lẫn tầm quan trọng đối với con người (về y học và kinh tế). Bọ hai cánh, xét riêng loài muỗi (Culicidae), là một nguồn truyền bệnh chủ yếu bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, virus sông Nil, sốt vàng da và một số bệnh lây truyền nhiễm khác.

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Các bộ phận của ruồi

Giải phẫu ruồi nhà. I: đầu; II: ngực III: bụng. 1: mảnh lưng trước (prescutum). 2: lỗ thở trước 3: mảnh lưng giữa (scutum) 4: basicosta (sườn gốc) 5: mũ (calypter) 6: scutellum (vảy nhỏ) 7: gân cánh 8: cánh 9: mảnh bụng 10: haltere 11: lỗ thở sau 12: xương đùi (femur) 13: đốt ống (tibia) 14: cựa 15: khối xương cổ chân 16: mảnh bên ngực trước (propleuron) 17: tấm ngực trước (prosternum) 18: mảnh bên ngực giữa (mesopleuron) 19: tấm ngực giữa (mesosternum) 20: mảnh bên ngực sau (metapleuron) 21: tấm ngực sau (metasternum) 22: Mắt phức 23: arista 24: lông mũi 25: xúc tu hàm trên 26: môi dưới (labium) 27: phần cuối môi dưới (labellum) 28: khí quản giả (pseudotracheae)

Bộ côn trùng hai cánh rất đa dạng về mặt sinh thái học. Ruồi sống ký sinh, bao gồm nội ký sinh như loài bot fly và ngoại ký sinh như muỗi, ruồi đen, ruồi cát hoặc rận mu. Rất nhiều loài ruồi ăn xác những sinh vật chết.

Một số loài hút máu để sinh tồn như muỗi hoặc horse fly. Cũng có những loài ruồi giúp cho công việc thụ phấn của thực vật dễ dàng hơn, chúng là những loài ăn phấn hoa hoặc mật.

Vòng đời của ruồi bao gồm: trứng, ấu trùng (còn gọi là giòi), nhộng và trưởng thành (có cánh). Thức ăn cho những con ấu trùng khác với khi chúng trưởng thành. Ví dụ như ấu trùng muỗi sống trong nước và ăn các mảnh vụn trong khi muỗi đực trưởng thành ăn mật hoa và muỗi cái hút máu.

Loài ruồi phụ thuộc nhiều vào thị lực để sinh tồn. Chúng có mắt kép bao gồm hàng ngàn thấu kính rất nhạy cảm với chuyển động. Một vài loài ruồi nhìn được hình ảnh 3D rõ nét. Một vài loài khác như Ormia ochracea có cơ quan thính giác tiến hóa.

Ruồi ăn tất cả các loại thức ăn như thực phẩm và chất thải của người, động vật, đặc biệt là các chất thải có mang mầm bệnh truyền nhiễm như đờm, dãi, chất nôn, phân, máu, tổ chức hoại tử... Cấu tạo mồm ruồi thích nghi với liếm hút thức ăn, mồm ruồi có cấu tạo như đế giày, chúng vừa liếm, vừa hút thức ăn dạng lỏng. Ruồi vừa ăn, vừa nôn, vừa thải ra thức ăn và trong chất nôn/phân có thể chứa nhiều mầm bệnh, đó là chưa kể những mầm bệnh bám trên cơ thể ruồi mà chúng vận chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, chúng được gọi là môi giới truyền bệnh.

Giòi[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Giòi

Giòi là phần đầu cuộc sống của ruồi, cũng gọi là ấu trùng. Một số loài giòi tìm thấy trên các xác chết rất hữu ích cho các nhân viên pháp lý. Dựa vào quá trình phát triển của giòi, người ta có thể xác định được thời điểm và địa điểm chết. Kích cỡ của một con giòi ruồi là 10–20 mm. Với nhiệt độ cao của mùa hè, loài ruồi có vòng đời từ 12-14 ngày.

Giòi được nhân giống với mục đích thương mại, dùng làm mồi câu cá, thức ăn cho các động vật nuôi ăn thịt như bò sát và chim chóc, hoặc cũng có những loài giòi có ích quen thuộc như ong ruồi. Vì tính phổ biến của giòi ngày càng tăng người ta đã cho lắp đặt các máy bán hàng tự động ở thành phố Northampton của Anh.

Phần lớn nhiều loài giòi gây thiệt hại về mùa màng, đặc biệt là cho súc vật bởi đời sống ký sinh của nó nhưng cũng còn được dùng trong việc chế thuốc, sản xuất thực phẩm đặc biệt là phô mai.

Loài giòi lạ nhất từ xưa tới nay là loài có đuôi chuột. Nó có thể sống lâu trong môi trường ô nhiễm. Cơ thể nó có một chiếc ống dài nổi lên mặt nước để thở.

Bay[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả các loài ruồi chỉ có duy nhất một cặp cánh để bay. Cánh sau của chúng rất nhỏ, dùng để giữ thăng bằng khi bay. Nhiều loại ruồi đập cánh rất nhanh. Ruồi nhà đập cánh 200 lần/s, muỗi khoảng 600 lần/s và các loài muỗi vằn càng nhỏ thì có tốc độ đập cánh càng cao, nhất là khoảng 1000 lần/s.

Con ruồi và con muỗi khác nhau như thế nào?

Ruồi: Ruồi nhà (housefly) thường là loại côn trùng phổ biến trong nhà. Chúng thường xuất hiện và bu quanh thức ăn và đặc biệt là các chất thải hữu cơ. Ruồi có thể truyền bệnh như tiêu chảy và vi khuẩn gây nhiễm trùng khác. Muỗi: Muỗi là loại côn trùng nhỏ gắn liền với môi trường ẩm và có khả năng chích để hút máu.

Ruồi giấm có tác hại gì?

Ruồi giấm là một trong những côn trùng gây hại cần tiêu diệt bởi chúng gây hại cho sức khỏe của chúng ta. Tác động tiêu cực đầu tiên mà ruồi giấm mang lại là làm mất vệ sinh cho thực phẩm và không gian sống. Chúng tụ tập và bám đậu ở khắp mọi nơi, đặc biệt là trong khu vực chứa thực phẩm, trái cây hoặc vùng nước đọng.

Con ruồi từ đâu mà có?

Ruồi nhà có khả năng trưởng thành nhanh từ trứng đến ruồi trưởng thành. Chúng sinh sản ở trên rau thối rữa ẩm như trong thùng rác không đậy nắp hay thức ăn của thú cưng. Trứng được đẻ thành các mẻ từ 120 đến 150 trứng và có thể nở trong vòng 8 - 72 tiếng. Ấu trùng Ruồi nhà có thể mất 3 - 60 ngày để trưởng thành.

Con ruồi thuộc họ gì?

Ruồi là côn trùng thuộc bộ Diptera (theo tiếng Hy Lạp di có nghĩa là "hai" và pteron là "cánh"), chúng có một cặp cánh đơn trên đốt ngực giữa và một cặp bộ phận thăng bằng ở cánh sau, trên đốt ngực cuối. Một số con ruồi không có cánh như trong họ Hippoboscoidea.

Chủ đề