Sự khác nhau giữa áo dài và hanbok

Diễn Đàn SEO Top - Forum SEO - Cộng Đồng SEO Việt Nam

Trang chủ Diễn đàn > Tuyển sinh - Giáo dục - Việc làm > Du học - tuyển sinh >

(Bạn phải Đăng nhập hoặc Đăng ký để trả lời bài viết.)

Users Viewing Thread (Users: 0, Guests: 0)

Diễn Đàn SEO Top - Forum SEO - Cộng Đồng SEO Việt Nam

Trang chủ Diễn đàn > Tuyển sinh - Giáo dục - Việc làm > Du học - tuyển sinh >

Cũng như áo dài của Việt Nam, mỗi khi nhắc tới Hàn Quốc là hầu hết mọi người đều sẽ nghĩ tới Hanbok, trang phục truyền thống đồng thời cũng là quốc phục của xứ sở Kim Chi. Hanbok hiện nay cũng được rất nhiều người dân Việt Nam, đặc biệt là các bạn gái, mặc để đi chơi, chụp hình, biểu diễn,….Tuy nhiên hầu hết mọi người vẫn chưa thực sự hiểu rõ cấu tạo của bộ quần áo này cũng như ý nghĩa của trang phục truyền thống Hanbok là gì? Nếu bạn cũng đang băn khoăn về vấn đề trên thì hãy cùng chúng tôi tìm hiểu một số thông tin trong bài viết này.
 

Sự khác nhau giữa áo dài và hanbok

 

Hanbok có nghĩa là gì?

Hanbok là tên của một loại trang phục truyền thống đồng thời cũng là quốc phục của hai quốc gia nằm trên bán đảo Triều Tiên: Nam Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên. Ở Hàn Quốc, loại trang phục này được gọi là Hanbok còn ở Triều Tiên, nó lại được gọi là Chosŏn - ot hay Joseon - ot.
 

Sự khác nhau giữa áo dài và hanbok

 

Hanbok có nghĩa Hán - Việt là Hàn Phục hay “trang phục Hàn Quốc”. Tuy tên gọi của nó mang nghĩa rất rộng nhưng thực chất Hanbok chỉ được dùng để chỉ loại trang phục sử dụng trong thời kỳ Joseon (triều đại phong kiến cuối cùng của Hàn Quốc kéo dài từ năm 1392 - 1897.
 

Cấu tạo của Hanbok

Trang phục Hanbok truyền thống dành cho nữ bao gồm áo jeogori và váy chima (do đó còn có tên gọi là chima jeogori). Còn Hanbok truyền thống dành cho nam bao gồm áo jeogori và quần dài baji:

- Jeogori: Jeogori là chiếc áo dài tay bao phủ phần thân trên, được mặc bởi cả nam và nữ. Jeogori bao gồm gil (phần thân áo), git ( dải vải cắt cổ áo), dongjeong (cổ áo) và gorem (dây buộc).
 

Sự khác nhau giữa áo dài và hanbok

 

- Chima: Chima là loại váy mặc kèm với jeogori dành cho nữ. Chima có thể dài chấm đất, dài đến mắt cá chân hoặc chỉ đến bắp đùi.
 

Sự khác nhau giữa áo dài và hanbok

 

- Baji: Baji là loại quần mặc kèm với jeogori dành cho nam. Baji có thiết kế rộng rãi, mềm, nhẹ để người mặc có thể thoải mái ngồi xếp bằng trên sàn.
 

Sự khác nhau giữa áo dài và hanbok

 

Ngoài ra, Hanbok còn có thêm một số phụ kiện như: po (áo choàng hay áo khoác ngoài), jokki (áo vest) và magoja (áo khoác ngoài).
 

Hanbok làm bằng gì?

Trước khi văn hóa phương Tây du nhập vào Hàn Quốc, có rất ít sự lựa chọn về vật liệu may Hanbok. Các quý tộc thường mặc quần áo làm từ sợi gai, lụa trơn có hoa văn và các vật liệu nhẹ cao cấp khác. Còn người dân bình thường do bị hạn chế về điều kiện và pháp luật nên bông là sự lựa chọn tốt và phổ biến nhất.

Sau khi chịu ảnh hưởng từ các quốc gia bên ngoài, Hanbok bắt đầu có những sự thay đổi lớn lao. Lụa và vải lanh được sử dụng làm nguồn nguyên vật liệu chính, các kiểu Hanbok mới bắt đầu ra đời, chẳng hạn như Kwanbok (quan phục - trang phục cho quan lại). Các phụ kiện cũng bắt đầu du nhập và được sử dụng phổ biến hơn.
 

Ý nghĩa của trang phục truyền thống Hanbok

Gắn liền với rất nhiều mốc thời gian quan trọng trong lịch sử lập quốc của Hàn Phục, Hanbok do đó mang một ý nghĩa rất quan trọng đối với người dân Hàn Quốc và đã trở thành một biểu tượng văn hóa của quốc gia này. Đến nay, mỗi người Hàn Quốc vẫn còn sở hữu ít nhất một bộ Hanbok để mặc khi đi du lịch, đi chơi hay trong các dịp lễ tết, dịp quan trọng,….

Theo quan niệm truyền thống, chiếc áo jeogori được thiết kế rất rộng rãi để biểu thị cho sự ấm no cũng như tính cách của người dân Hàn Quốc. Các loại trang phục khác cũng được thiết kế rộng rãi để biểu thị sự tự do, khoáng đạt.

Bên cạnh đó, triết lý âm - dương, ngũ hành cân đối cũng được áp dụng triệt để khi thiết kế Hanbok. Chính vì vậy mà các bộ Hanbok thường có 5 màu chính là vàng, trắng, đỏ, đen và xanh da trời. Trong đó, màu trắng là được ưa chuộng nhất bởi theo người dân Hàn Quốc, màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết, trong sáng và chính trực.

Ngoài ra, người dân Hàn Quốc cũng thường trang trí Hanbok bằng các họa tiết để thể hiện mong ước của bản thân hay những điều tốt lành. Chẳng hạn như: cây nho, cây lựu, hoa mẫu đơn tượng trưng cho sự trường thọ; ngọn lửa thể hiện sự khôn ngoan;….
 

Sự khác nhau giữa áo dài và hanbok

 

Trên đây là thông tin về cấu tạo cũng như ý nghĩa của Hanbok trong văn hóa truyền thống Hàn Quốc. Hy vọng sau khi tham khảo bài viết này, các bạn đã có thêm những kiến thức thú vị và bổ ích về loại trang phục truyền thống quan trọng đồng thời là biểu tượng tượng trưng cho giá trị lịch sử, bản sắc văn hóa của quốc gia Đông Á này. Ngoài ra nếu bạn đang có nhu cầu cần sử dụng Hanbok để đi chơi, chụp ảnh,…, hãy liên hệ đến các shop cho thuê trang phục truyền thống Hanbok để được cung cấp các sản phẩm có chất lượng tốt, kiểu dáng đẹp với giá thành hợp lý.

YOMEDIA

ADSENSE

Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:

Sự khác nhau giữa áo dài và hanbok

YOMEDIA

Đang xử lý...
Sự khác nhau giữa áo dài và hanbok

20 894 KB 1 23

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Đang xem trước 10 trên tổng 20 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên

3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC ÁO DÀI VÀ HANBOK TINH HOA TRONG NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT –HÀN SVTH: Bùi Phương Anh, Nguyễn Thị Hồng Duyên, Nguyễn Linh Huệ, Phạm Thị Bích Ngọc 3H13 GVHD: Lê Thị Hương I. LỜI MỞ ĐẦU Từ ngàn xƣa, ông cha ta đã nói”Ngƣời đẹp vì lụa”- tức là mỗi bộ trang phục đều có chức năng tô điểm và làm đẹp thêm cho con ngƣời. Và đó cũng chính là nhu cầu thiết yếu của mỗi chúng ta. Bởi vậy, trang phục luôn là một trong những yếu tố hàng đầu, phát triển cùng với mỗi bƣớc đi của lịch sử. Nhƣng dù có ở giai đoạn nào thì trang phục vẫn luôn gắn liền với con ngƣời và gắn với quan niệm về cái đẹp đƣơng thời. Hay nói cách khác, trang phục là hiện thân rõ nét của cá tính, của nét đặc trƣng, của tinh hoa mỗi dân tộc từ xƣa đến nay. Và loại trang phục làm tốt nhiệm vụ ấy nhất chính là TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG. Kimono của Nhật Bản, bộ Xƣờng xám duyên dáng của Trung Quốc, bộ Hanbok ấn tƣợng xứ Kim Chi… Bạn có thể đã rất ngƣỡng mộ khi nhìn thấy những bộ trang phục ấy nhƣng chúng tôi tin chắc bạn cũng sẽ không bao giờ bạn thôi tự hào về tà áo dài Việt Nam. Đó đều là những nét đặc sắc, không chỉ thuộc về riêng một đất nƣớc, một quốc gia nào mà là tinh hoa của toàn nhân loại. 1. Lý do chọn đề tài “Có tìm hiểu dĩ vãng của chính mình thì mới quý nó đƣợc, và có quý trọng dĩ vãng thì mới tìm đƣợc hƣớng đi cho tƣơng lai”– đó chính là lời của cố học giả Nguyễn Hiến Lê gửi tới những ai yêu thích và say mê với nền văn hóa dân tộc. Việt Nam là một trong những nƣớc có nền văn hóa cổ xƣa trên thế giới. Là những sinh viên khoa tiếng Hàn Quốc, chúng em muốn đi từ gốc rễ để tìm hiểu về văn hóa của đất nƣớc mình, và đồng thời cũng muốn tìm hiểu thêm đất nƣớc Hàn Quốc nhiều màu sắc, để từ đó có những đánh giá chính xác hơn về Việt Nam và Hàn Quốc. Trang phục là một trong những yếu tố thể hiện và phản ảnh văn hóa của mỗi quốc gia một cách rõ nét nhất nên chúng em quyết định chọn”Áo dài và Hanbok – Tinh hoa trong nền văn hóa dân tộc Việt - Hàn”làm chủ đề nghiên cứu. Từ việc tìm hiểu về trang phục, chúng ta có cơ hội cùng nhìn lại lịch sử để khám phá ra những nét văn hóa tiềm ẩn củ dân tộc mình, sống dậy tình yêu quê hƣơng đất nƣớc, từ đó thêm yêu thƣơng, trân trọng, kế thừa, tiếp thu và sáng tạo có hiệu quả nét văn hóa truyền thống. Đồng thời, việc tìm hiểu về văn hóa nƣớc bạn sẽ mang lại cho chúng ta cái nhìn mới mẻ hơn, đa chiều hơn về văn hóa nhân loại. 127 3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC 2. Mục đích nghiên cứu Việc thực hiện đề tài này góp phần giúp cho mọi ngƣời có một cái nhìn toàn diện về áo dài và Hanbok cũng nhƣ là vai trò quan trọng của nó trong nền văn hóa hai đất nƣớc Việt Nam và Hàn Quốc. Thêm vào đó, việc nghiên cứu này đƣợc thực hiện với mục đích hƣớng mọi ngƣời về với cội nguồn, với lịch sử dân tôc, từ đó thêm yêu, thêm tự hào về đất nƣớc mà cố gắng gìn giữ, phát huy. Đồng thời, việc đặt tƣơng quan với trang phục truyền thống Hàn Quốc sẽ mang lại cái nhìn đa chiều hơn về trang phục truyền thống và đặc biệt là mỗi quan hệ giữa trang phục truyền thống và văn hóa của mỗi quốc gia. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp thu thập tài liệu  Thu thập thông tin về đề tài nghiên cứu thông qua sách vở, tài liệu và các công trình nghiên cứu liên quan.  Thông qua các tạp chí, trang web - Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu và chứng minh II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận 1.1. Khái niệm và các thuật ngữ liên quan 1.1.1. Khái niệm Trang phục hay y phục là những đồ để mặc nhƣ quần, áo, váy…; để đội nhƣ mũ, nón, khăn… và để đi nhƣ giầy, dép, ủng. Ngoài ra, trang phục còn có thêm thắt lƣng, gang tay, đồ trang sức. Chức năng thiết yếu nhất của trang phục chính là bảo vệ con ngƣời. Nói một cách khác, trang phục chính là một nhu cầu vật chất quan trọng trong đời sống mỗi con ngƣời. Với tính chất thực dụng nó là là một sản phẩm, nhƣng xét dƣới góc độ thẩm mỹ nó lại là một tác phẩm. Trong”Ngàn năm áo mũ”của Trần Quang Đức có đƣa ra một khái niệm về trang phục, đó là: “trang phục không chỉ là một nhân tố của sinh hoạt đời thƣờng mà trang phục đƣợc hiểu là một phần của văn hiến nƣớc nhà”. Truyền thống: chính là những đức tính, phong tục tập quán, tƣ tƣởng, lối sống... đƣợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác của mỗi quốc gia, dân tộc. Văn hoá: là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên qua n đến mọi mặt về cả tinh thần, vật chất của con ngƣời. Có thể hiểu,”Văn hoá là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo để làm cho cuộc sống mỗi ngày một đẹp 128 3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC hơn”. Bản chất của văn hoá là mang đặc trƣng của một cộng đồng ngƣời chính vì vậy văn hoá không có tính cá nhân riêng biệt. Bên cạnh đó văn hoá là kết tinh của thiên tính và cá tính nên nó có rất nhiều cung bậc. Cung bậc ở đây ta có thể hiểu một cách khái quát là: thanh âm, màu sắc, và cũng có thể là giai điệu. Tất cả đều đƣợc xƣớng lên từ cội nguồn sâu xa của vă hoá truyền thống. Theo nhƣ Trần Ngọc Thêm,”văn hóa”đƣợc cho là một hệ thống hữu cơ các giá trị vất chất và tinh thần do con ngƣời tạo ra, tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tƣơng tác giữa con ngƣời và môi trƣờng tự nhiên, xã hội. 1.1.2. Các thuật ngữ liên quan Áo dài là loại trang phục truyền thống của Việt Nam, che thân ngƣời từ cổ đến chân hoặc quá đầu gối, dành cho cả nam lẫn nữ. Áo dài thƣờng đƣợc mặc vào các dịp lễ hội trang trọng, hoặc nữ sinh mặc khi đi học. hễ nói đến phụ nữ Việt Nam thì không thể không nói đến áo dài. Hanbok – là trang phục truyền thống của Hàn Quốc, đại diện cho một trong những nét điển hình nhất trong văn hóa xứ Hàn. Cũng giống nhƣ trang phục truyền thống của Việt Nam. Hanbok là trang phục truyền thống của Hàn Quốc, không thể thiếu trong những lễ hội và đƣợc sử dụng trong những dịp quan trọng. Trang phục han-bok (한복)có đặc điểm là đƣờng may đơn giản, không có túi. Bộ han-bok cho phụ nữ gồm có một váy quấn và một áo vét kiểu bô-le-rô, thƣờng đƣợc gọi là ch''ima(치마)chogori (조고리).”Ch''ima”trong tiếng Hàn có nghĩa là”váy”còn”chogori”có nghĩa là”áo vét”. Bộ han-bok của nam giới thì gồm một áo vét ngắn và một chiếc quần, và đƣợc gọi là”paji”(바지). Thông thƣờng, hanbok nam rộng rãi và có viền ở gấu. Cả hai bộ y phục này đều có thể đƣợc mặc với một chiếc áo choàng dài có đƣờng nét tƣơng tự (gọi là turumagi) trùm ra bên ngoài. 1.2. Vai trò, vị trí của trang phục truyền thống trong nền văn hóa dân tộc Theo nhƣ Các Mác, trang phục là đối tƣợng của thị giác, một trong hai giác quan dễ cảm nhận cái đẹp một cách tinh tế phải là một biểu hiện bên ngoài và một của nội dung bên trong mang đầy đủ những chuẩn mực lành mạnh, hài hòa, thanh lịch và thực tiễn. Nếu nhƣ”trang phục”chỉ đơn giản là đồ để mặc lên ngƣời có tác dụng bảo vệ và làm đẹp thì”trang phục truyền thống”lại là một khái niệm có ý nghĩa hơn bởi nó gắn trong mình hai chữ”truyền thống”tức là vừa phải đảm nhận chức năng của”trang phục”vừa phải gắn liền với yếu tố lịch sử và văn hóa của mỗi quốc gia. Và”trang phục truyền thống”có một vai trò không nhỏ trong nền văn hóa của mỗi quốc gia. Tại sao lại có thể nói nhƣ vậy? Bởi trang phục chính là sự phản ảnh của văn hóa, của lối sống, của phong tục tập quán mỗi dân tộc. Tù nghìn xƣa, khi đã có sự xuất hiện của trang phục thì ông cha ta đã chú trọng để tao ra những trang phục có độ linh hoạt trong việc sử dụng cao, để phù hợp với tính chất công việc con ngƣời. Bởi thế, lối sông ấy cũng 129 3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC đƣợc thể hiện qua trang phục. Trang phục còn thể hiện thị hiếu của con ngƣời, qua đó biểu lộ những đánh giá, quan niệm của con ngƣời. Và đặc biệt với trang phục truyền thống thì nó lại mang một giá trị lâu bền hơn bao giờ hết vì từ lúc nó xuất hiện, trải qua biết bao những thăng trầm của lịch sử nó vẫn giữ đƣợc nét đẹp của mình, và quan trọng là nét đẹp ấy vẫn đƣợc cho là chuẩn mực ở mọi thời kì lịch sử. Trang phục truyền thống là biểu tƣợng của mỗi đất nƣớc, là hiện thân của nhân dân. Bởi những ý nghĩa của nó, ở bất kì quốc gia nào, trang phục truyền thống luôn xuất hiện trong những sự kiện mang quan trọng của gia bản thân, của gia đình và của cả đất nƣớc nữa. Có thể thấy, không có một đất nƣớc nào là không có trang phục truyền thống. Mỗi quốc gia hình thành đều có quá trình phát triển, và gắn liền với nhu cầu ăn mặc của con ngƣời, mỗi vùng, mỗi đất nƣớc còn có những trang phục đặc trƣng khác nhau. Chính bởi sự phản ánh của văn hóa lên trang phục, trang phục, đặc biệt là trang phục truyền thống là một phần không thể thiếu của văn hóa. Đó không chỉ là cá tính, là khí phách mà còn là niềm tự hào của mỗi dân tộc. 2. Áo dài - tinh hoa trong nền văn hóa Việt 2.1. Quá trình hình thành và phát triển “Cây có cội,nƣớc có nguồn”, để tìm hiểu về áo dài, hãy ngƣợc dòng thời gian để tìm về quá khứ, từ thời mà chiếc áo dài còn ở hình dáng sơ khai nhất. Cho đến nay vẫn chƣa ai có thể tìm rõ và xác định đƣợc nguồn gốc của áo dài nhƣng có ghi chép cho thấy thủy tổ của áo dài chính vốn làm bằng da thú và lông chim, xuất hiện vào thời Hai Bà Trƣng (năm 38-42 trƣớc Tây Lịch). Đó đƣợc coi là y phục xa xƣa nhất của ngƣời Việt, đƣợc xuất hiện trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lữ cách nay khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Có tƣơng truyền, vào trận đánh cuối cùng với quân nhà Hán, hai Bà trƣng đã mặc áo hai tà giáp vàng, che lọng vàng với trang sức lộng lẫy. Và để tƣởng nhớ đến Hai Bà Trƣng, ngƣời phụ nữ Việt Nam đã tránh mặc chiếc áo có hai tà bằng cách thay bằng bốn tà, tƣợng trƣng cho bốn bậc sinh thành nên hai vợ chồng. Có nghiên cứu khác lại cho rằng, ở thời đó, với điều kiện thô sơ và hạn chế, chỉ có thể dệt đƣợc thành những mảnh vải khổ nhỏ nên phải ghép bốn mảnh mới có thể tạo thành một chiếc áo hoàn chỉnh, quen gọi là áo tứ thân. Nói một cách khác, có thể cho rằng, chiếc áo tứ thân mộc mạc đƣợc ƣa chuộng trong các dịp lễ hội thời xƣa đƣợc coi là tiền thân của tà áo dài truyền thống. Vũ Vƣơng Nguyễn Phúc Khoát đƣợc xem là ngƣời có công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam. Chịu ảnh hƣởng nặng của văn hóa Trung Hoa, cho đến thế kỷ XVI, lối ăn mặc của ngƣời Việt Nam vẫn thƣờng hay theo ngƣời phƣơng Bắc. Trƣớc làn 130 3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC sóng xâm nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vƣơng Nguyễn Phúc Khoát đã ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải theo đó mà thi hành. Trong sắc dụ đó, ngƣời ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo dài Việt Nam, nhƣ sau: “Thƣờng phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không đƣợc xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì đƣợc phép). Về lễ phục, thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh chàm, vải đen, hoặc vải trắng. Còn các bức viền cổ và kết lót thì vẫn dùng nhƣ trƣớc....”(sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên). Vậy, bộ quần áo có nút thay thế cho váy, áo xẻ ngực thắt dây đã ra đời. và Căn cứ theo những chứng liệu này, có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cố định đã ra đời và chính thức đƣợc công nhận là quốc phục dƣới triều chúa Nguyễn Vũ Vƣơng (17391765). Sau một thời gian, thấy quần hai ống không hợp với thuần phong mỹ tục, Nguyễn Phúc Khoát giao cho triều thần, pha phối từ mẫu áo dài của ngƣời Chăm để che kín bớt quần hai ống. Và lúc này áo dài giống nhƣ áo của ngƣời Chăm, nhƣng có xẻ nách. Đến đời Gia Long – Minh Mạng, chiếc áo dài tứ thân đƣợc biến cải thành áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống; rất phổ thông trong giới quyền quý và dân thành thị. Áo ngũ thân cũng đƣợc may nhƣ áo tứ thân, nhƣng vạt áo bên phải phía trƣớc chỉ đƣợc may bằng một thân vải, còn vạt áo bên trái đƣợc may bằng hai thân vải nhƣ vạt áo đằng sau. Ngoài ra, áo ngũ thân có khuy áo nhƣ áo đàn ông, lúc mặc có thể cài khuy nhƣ áo dài ngày nay hoặc thắt vạt nhƣ áo tứ thân. Về ý nghĩa, bốn thân áo chính tƣợng trƣng cho tứ thân phụ mẫu, và thân thứ năm (vạt con) tƣợng trƣng cho ngƣời mặc áo; năm chiếc khuy tƣợng trƣng cho đạo làm ngƣời theo quan niệm Nho gia: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Bƣớc sang năm 1884, khi vƣơng triều Nguyễn không đủ khả năng kháng cự trƣớc sức mạnh xâm lƣợc của thực dân Pháp. Buộc phải ký hòa ƣớc Patenôtre chấp nhận sự cai trị của Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Dƣới chính sách cai trị của Pháp, làn sóng văn hóa Âu Tây có điều kiện tràn vào Việt Nam, ảnh hƣởng lớn đến thị hiếu của dân Việt. Những ngƣời tƣ sản, tiểu tƣ sản, tầng lớp thanh niên thành thị với các phong trào”đã cụ, nghênh tân”: Sống mới, Vui khỏe, Trẻ trung… Chiếc áo dài xƣa cũng theo xu thế chung đó, bắt đầu đƣợc thay đổi.Ngƣời mở đầu cho phong trào cách tân trong giai đoạn này là họa sĩ Nguyễn Cát Tƣờng với kiểu áo dài Lemur, năm 1934. Từ áo ngũ thân, Nguyễn Cát Tƣờng, ý tƣởng: Phần áo: “Từ bụng trở, ta nên thu hẹp lại cho mất vẻ lòe xòe. Nhƣng có một điều tôi muốn các bạn để ý theo hơn hết là nên bỏ hẳn chiếc vạt con và cho chùng thêm các vạt chính. Ngoài hai việc lau tay và hỉ mũi, ta để vạt con không những không có ích gì thêm nữa, mà nó lại còn bất tiện, vì về mùa rét ta mặc hai, ba áo kép một lúc thì những vạt con ấy chồng chất lên nhau sẽ làm cho ta khó chịu và ngƣời trông sẽ thành một bên phồng cộm, còn một bên lép kẹp. Còn các vạt chính, tôi khuyDên nên cho dài chút nữa…” 131 3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC Phần quần: “Nhƣng một ý tƣởng vụt qua làm tôi bàng hoàng sực nghĩ tới một thứ, một thứ mà đáng nhẽ ra phải nói ngay từ đầu, vì nó là phần đầu, phần chính, phần cốt yếu trong y phục. Nó là… là… nói ra sợ chẳng ai tin, nó là cái quần. Phải chính cái quần…Phụ nữ ta mới ít đƣợc biết bỏ cái màu đen di truyền, nó âm thầm buồn tẻ mà may bằng những thứ màu trắng… Vậy quần của bạn gái tôi thiết tƣởng nên thay đổi theo cách sau: Từ cạp đến đầu gối nên thu hẹp bớt để vừa khít với thân hình, nhƣ thế những vẻ đẹp thiên nhiên của từng ngƣời mới lộ ra đƣợc. còn từ đầu gối trở xuống đến chân, hai ống quần lại phải may rộng dần ra để khi đi đứng cái dáng điệu của các bạn đƣợc tăng thêm vẻ nhẹ nhàng. Còn trên cạp thì có hai lối: lối thứ nhất (trong hai hình tròn) may mổ tựa nhƣ quần tây, nhƣng hai miếng hai bên phải rộng và dài hơn để có thể buộc khép vào với nhau đƣợc. Dải rút ta sẽ thay vào hai cái rải cùng thứ vải may quần dính vào hai đầu cạp rồi thắt chéo sang cạnh sƣờn. Nếu muốn cẩn thận hơn chút nữa, ta có thể thêm mấy cái khuy bấm ở bên cạnh mép (chỗ quần mổ) cài vào với nhau. Lối thứ hai thì cũng nhƣ cạp quần thƣờng, nhƣng có một điều nên (để) ý là đừng may rộng quá.”Cụ thể, áo dài Lemur, có cổ đứng cao từ 1cm đến 2 cm, tay thẳng, may liền vải, cổ tay hẹp, viền nhỏ. Có kiểu ở cửa tay, gấu, nẹp cài cúc đều viền vải khác màu thành đƣờng nẹp rộng khoảng 0,5cm gọi là áo lé nẹp, có loại gấu áo vê tròn lẳn.Điểm đáng chú ý nhất của áo dài Lemur là khuy áo đƣợc cài trên vai, áo thắt eo, nối vai, tay phồng đi với quần ống loa. Chất liệu vải dùng để may áo là vải Tây, sử dụng các màu sắc tƣơi sáng thay cho các tối: nâu, đen. Nhƣng trong lúc này, chiếc áo dài Lemur, chỉ đƣợc một số ít có”tƣ tƣởng Tây”mặc, phần còn lại không mấy hoan ngênh. Vì theo văn hóa Nho gia truyền thống, đề cao cộng đồng xã hội và gia đình. Phụ nữ không đƣợc xem là những cá thể, bổn phận của phụ nữ là việc”xó bếp”, nên không cần phải làm dáng, không cần phải quần quần, áo áo… làm đẹp (theo nghĩa hiện đại); do vậy, áo Lemur”thắt lƣng, bó eo”–”khêu gợi”là điều tối kỵ, trái với quan niệm Nho phong, Lễ giáo. Chính vì những lẽ đó, áo dài Lemur đƣợc cách tân… Trên cơ sở áo dài Lemur, một họa sĩ tên Lê Phổ: bỏ các điểm nhấn ở cổ áo, tay áo, phồng tay; đƣa thêm các yếu tố của áo tứ thân, ngũ thân vào. Tạo ra một kiểu áo vạt dài, cổ kín, cài nút bên phải, ôm sát thân ngƣời, trong khi hai vạt dƣới đƣợc tự do bay lƣợn, vẫn kết hợp với quần ống loa. Áo dài Lê Phổ đƣợc may bằng vải màu mặc với quần trắng… kiểu áo này đƣợc nhiều ngƣời chấp nhận. Trong kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954), áo dài chỉ đƣợc phổ biến ở các thành phố do Pháp tạm chiếm. Còn các vùng khác, dƣờng nhƣ không đƣợc chú ý… Ngay từ năm 1947 trong bối cảnh Việt Nam vừa tuyên bố độc lập; các phong trào”diệt giặc đói, giặc dốt”đang đƣợc phát động. Đồng thời, nhằm tiết kiệm hơn nữa, ngày 20 tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh, trong”Đời sống mới”đã vận động ngƣời dân vùng tự do bỏ thói quen mặc áo dài vì mặc áo dài không mấy tiện cho việc đi đứng. Lại thêm, áo dài tốn vải, khoảng hai cái áo dài may đƣợc ba cái áo ngắn. Nên nếu chỉ mặc áo ngắn có thể dƣ đƣợc một khoảng tiền lớn trong năm. Cuộc vận động này dần dần đã đƣợc ngƣời 132 3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC dân hƣởng ứng. Cho nên có một thời gian, áo dài không còn là trang phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam ở bắc vĩ tuyến 17. Từ sau năm 1954, với hiệp định Giơ-ne-vơ đất nƣớc bị chia cắt thành 2 miền, chiến tranh chống Mỹ nổ ra sau đó. Ở miền bắc áo dài vẫn không thích hợp với những cuộc sống khó khăn của dân Việt; áo dài chỉ đƣợc tiếp tục phát triển ở miền nam. Đầu thập niên 1960, nhà may Dung ở phƣờng Đakao, Sài Gòn đƣa ra một kiểu áo dài mới, áo dài Raglan (giác lăng). Điểm mới của áo dài nhà may Dung: tay dài raglan tay áo và thân áo đƣợc nối xéo góc khoảng 45 độ, hai bên nách và vai không có những đƣờng nhăn (so với kiểu áo trƣớc đó) ôm sát ngƣời hơn. Áo đƣợc mặc với quần xéo. Quần may bằng vải mềm, đƣợc xếp xéo góc khi cắt, có hông ôm sát ngƣời và hai ống dài qua mắt cá chân. Thời gian khi hàng ni-lông tràn ngập miền nam, áo dài lại có một biến tƣớng khác, các kiểu áo dài mỏng xuất hiện, cổ khoét sâu xuống, cổ tròn, cổ vuông, cổ nhọn… có loại không tay, may liền, thân áo có hoa văn. Sang những năm 1968, áo dài lại biến dạng, mở đầu cho loại áo của giai đoạn này là Trần Lệ Xuân với phong trào Phụ nữ liên đới, lấy kiểu áo tầm vông của ngƣời phụ nữ Khmer chƣa chồng, may cổ hở cho chiếc áo dài Việt. Đây là loại áo dài Mini Raglan, vốn là áo Raglan nhƣng đƣợc cắt may ngắn hơn: tà áo rất hẹp, vạt ngắn đến đầu gối, cổ cao, tay áo ngắn, có tay rộng, tà đƣợc xẻ cao. Kiểu Mini Raglan này đƣợc các nữ sinh Sài Gòn ƣa chuộng mãi cho đến cuối tháng 4 năm 1975. Trong giai đoạn gần đây, do có sự đa dạng về vải, chiếc áo dài nữ vẫn tiếp tục có những thay đổi. Nhƣng sự thay đổi không lớn, về bản chất kết cấu trƣớc đó vẫn đƣợc đảm bảo. Cổ áo, gấu áo, và eo áo: cổ áo thì lúc cao, lúc thấp, lúc rộng, lúc hẹp; gấu áo thì lúc vén cao, lúc hạ thấp; eo áo thí lúc nhỏ lúc to. Những thay đổi này đi đôi với những thay đổi nhỏ của chiếc quần: chân què qua đáy giữa, lƣng quần thắt giải rút rồi tới giây thung, gài nút, và sau cùng là dùng phẹc-mo-tuya (fermeture), ống quần thì lúc rộng lúc hẹp theo thị hiếu thẩm mỹ của từng giai đoạn… Trong giai đoạn hiện nay, áo dài lại có nhiều biến tấu khác, từ tay áo, cổ áo, vạt áo đến cách kết hợp với kiểu quần… Rất đa dạng, tùy theo sở thích, ý tƣởng của từng ngƣời. Trong xã hội hội nhập hiện nay, áo dài góp phần tạo nên nét riêng độc đáo trong các buổi trình diễn tuần lễ thời trang quốc tế và trong các cuộc thi hoa hậu trong và ngoài nƣớc, các festival trang trọng và bề thế. Nhiều nhà thiết kế Áo Dài Việt Nam đã đƣợc biết đến trên thị trƣờng quốc tế nhƣ Minh Hạnh, Sỹ Hoàng, Võ Việt Chung, La Hằng… Tất cả đều góp phần làm rạng danh tên tuổi trang phục Áo dài – Biểu tƣợng văn hóa của Việt Nam. Để có sự phát triển nhƣ ngày hôm nay, nhìn lại quá khứ, chúng ta thấy chiếc áo dài quả thật có một lịch sử rất lâu đời… 133 3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC 2.2. Các kiểu áo dài cơ bản 2.2.1. Áo dài nữ giới Thuở xƣa phụ nữ Việt Nam từ Bắc xuống Nam đều mặc váy. Đến ngày nay chiếc váy đó chỉ còn rải rác ở một số vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Thanh Nghệ. Chiếc áo dài đã trở thành biểu tƣợng của phụ nữ Việt Nam. Nhƣ lịch sử còn ghi lại cuộc chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh kéo dài gần 200 năm. Ở miền Bắc vua Lê chúa Trịnh trị vì, ở Miền Nam các chúa Nguyễn miệng nói thuần phục nhà Lê song thực chất họ đã lấy Phú Xuân làm thủ phủ của đằng trong để củng cố địa vị cho sự nghiệp: “Vạn đại dung thân”. Năm 1744 trong dân gian miền Nam bỗng lƣu truyền một câu sấm”Bát đại thời hoàn trung đô”(tức là ở lại kinh đô Thăng Long ngay). Câu sấm này làm cho chúa Nguyễn Phúc Khoát giật mình. Triều thần của Nguyễn Phúc Khoát đã họp bàn để tìm ra hƣớng giải quyết”hoàn”Trung Đô. Một thời gian sau các đại quan đã trình bày với chúa Nguyễn rằng”Muốn thực sự có một vƣơng quốc mới để đổi mạng trời thì phải thay đổi lễ nhac, thay đổi văn hoá”. Văn hoá đó là trang phục. Và kể từ đó phân biệt với phụ nữ hai miền thì phụ nữ miền Bắc mặc váy phụ nữ miền Nam mặc quần có đáy (hai ống) nhƣ đàn ông. Với con mắt phong kiến, võ vƣơng thấy phụ nữ mặc quần hai ống trông khêu gơi quá nên ông bèn cho triều thần nghiên cứu tham khảo áo dài của ngƣời Chăm (Giống áo ài Việt Nam ngày nay nhƣng không xẻ nách) và chiếc áo dài thƣợng Hải (xẻ đến đầu gối) để từ đó chế ra áo dài Việt Nam. Vì thế có thể coi chiếc áo dài của ngƣời phụ nữ đầu tiên giống nhƣ chiếc áo dài của ngừời Chàm nhƣng có xẻ nách. Chiếc áo dài ngày nay hội tụ cả hai yếu tố của phƣơng Bắc và phƣơng Nam tạo nên sự cân đối hài hoà. Cho đến đầu thế kỷ XX, phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thể năm thân hay năm tà. Mỗi thân áo trƣớc và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trƣớc. Tay áo may nối phía dƣới khuỷu tay. Sở dĩ áo phải nối thân và tay nhƣ thế là vì các loại vải tốt nhƣ lụa, sa, gấm, đoạn... ngày xƣa chỉ dệt đƣợc rộng nhất là 40 cm. Cổ, tay và thân trên áo thƣờng ôm sát ngƣời, rồi tà áo may rộng ra từ sƣờn đến gấu và không chiết eo. Gấu áo may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80 cm ở gấu, cổ áo chỉ cao khoảng 2-3 cm. Trong thập niên từ 1930 đến 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, nhƣng phụ nữ thành thị bắt đầu dùng các loại vải màu tƣơi, sáng hơn, đƣợc nhập khẩu từ châu Âu. Thời kỳ này, gấu áo dài thƣờng đƣợc may trên mắt cá chân khoảng 20cm. Từ đây và tiếp tục cho đến gần cuối thế kỷ XX thiếu nữ khắp nơi mặc quần trắng với áo dài. Quần đen dành cho những phụ nữ đã lập gia đình. Một vài nhà tạo mẫu áo dài đã bắt đầu xuất hiện, nhƣng họ mới chỉ bỏ đi phần nối giữa sống áo vì vải của phƣơng Tây dệt có khổ rộng hơn vải ta. Tay áo vẫn may nối. Đến khoảng những năm 1950, sƣờn áo dài bắt đầu đƣợc may chiết eo. Các nhà may lúc đó đã cắt áo lƣợn theo thân ngƣời. Thân áo sau rộng hơn thân trƣớc, đặc biệt là phần 134 3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC mông để áo ôm theo thân dáng mà không cần chiết eo; vạt áo cắt hẹp hơn, cổ áo cao lên trong khi gấu đƣợc hạ thấp xuống. Ngày nay, Việt Nam đã có một lực lƣợng đông đảo các nhà tạo mẫu áo dài, với đủ các loại chất liệu vải, họ vẫn luôn nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo đƣa ra những mẫu mốt mới...Chất liệu mới cho áo Dài đƣợc kết hợp từ những tấm vải mẫu, thƣờng đƣợc trang trí bằng những đƣờng nét thủ công hoặc thêu thùa. Song, cũng chỉ dừng lại ở việc thay đổi chất vải và hoa văn trên áo dài còn về kiểu dáng vẫn phải giữ theo”công thức”cũ, nghĩa là không khác gì nhiều với cái áo dài của pho tƣợng Ngọc Nữ thế kỷ XVII. 2.2.2. Áo dài nam giới Có lẽ sẽ thật là thiếu sót nếu không đề cập tới trang phục áo dài dành cho nam giới. Theo nhà nghiên cứu Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là một trang phục truyền thống của phái nam. Tuy nhiên theo sắc dụ ban hành từ thời chúa Nguyễn Vũ Vƣơng thì sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó và thông thoáng hơn.”Thƣờng phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng đƣợc”(trích sắc dụ này). Từ thập niên 1930 trở đi mới xuất hiện áo dài nữ phục hai vạt, vậy về lý, áo dài nam phục hai vạt cũng phải xuất hiện khoảng thời gian đó. Một giả thuyết khác cho rằng từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về quốc phục đã xuất hiện lối ăn mặc theo cách Việt Nam ở phái nam cho khác biệt với lối ăn mặc của ngƣời khách trú. Cơ sở chính của cách tạo ra khác biệt là lối cài nút về bên trái thay vì bên phải giống nhƣ ngƣời Hoa kiều (theo sách Việt Nam Văn Hóa Sử, tác giả Đào Duy Anh ). Sự khác biệt thứ hai là trên chất liệu vải (thƣờng bằng the mỏng, và mặc ra ngoài áo bà ba trắng, với phụ tùng lệ bộ kèm theo là khăn đóng (tức khăn vành cho nam). Có thể ngay từ đầu,”quốc phục sơ khai”của nam giới đã chỉ có hai vạt và đƣợc biến cách trên chiếc áo Tàu”nhà Thanh": dài gần tới gối và có đƣờng xẻ hai bên từ hông trở xuống. Đến thập kỷ 1930 khi xuất hiện áo nữ với hai tà dài thì đƣợc thay đổi chút ít cho gần gũi chiếc áo dài nữ phục. Ngày nay, ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh thanh niên mặc áo dài, chỉ những ngƣời có tuổi trong trang phục áo dài truyền thống. Ta có thể đƣa ra lí do giải thích cho điều này: Phải chăng áo dài nữ phục có quá trình hình thành và phát triển lâu hơn. Hơn nữa áo dài nữ đƣợc quy định bởi văn bản pháp quy (sắc dụ của chúa Nguyễn Vũ Vƣơng) và chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn (Chiếu quy định của Minh Mạng về trang phục hoàn chỉnh của áo dài nữ phục). Do đó khi nói tới áo dài ngƣời nƣớc ngoài và ngƣời ngoài nƣớc thƣờng nghĩ đến chiếc áo dài nữ giới. 2.3.3. Áo dài trẻ em Trẻ em Việt Nam thƣờng mặc áo dài trong dịp lễ tết, đám cƣới.Trang phục áo dài của các em thƣờng có màu sáng nhƣ màu đỏ,màu hồng,và thƣờng đội khăn xếp tƣợng trƣng cho sự trong sáng,hồn nhiên.Qua đó muốn gửi gắm thông điệp về một cuộc sống hạnh phục tƣơi đẹp. 135 3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC 2.3.4. Áo dài váo ngày lễ a. Áo dài trong ngày cƣới Nhân dân ta mỗi khi nói đến ngày cƣới vẫn thƣờng cho rằng: “Trăm năm mới có một lần”có lẽ do đó mà từ trƣớc đến ngày nay những bộ trang phục trong ngày cƣới bao giờ cũng hết sức đặc biệt. Thời xƣa bộ trang phục mà các co dâu mặc trong ngày cƣới cũng chính là trang phục các cô mặc trong ngày lễ hội cổ truyền của dân tộc: Áo tứ thân, áo ngũ thân, áo dài. Cho đến khi áo dài chính thức trở thành trang phục truyền thống của Việt Nam thì trong ngày cƣới cô dâu thƣờng mặc áo dài đỏ và trắng. Màu trắng biểu hiện sự tinh khiết cả về thể xác lẫn tâm hồn, còn màu đỏ thể hiện ƣớc mơ hai vợ chồng sẽ trăm năm hạnh phúc, son sắc, thuỷ chung. Nhƣng cho đến ngày nay áo dài chỉ đƣợc thấy trong các đám hỏi, nạp tài, dạm ngõ. Còn trong các ngày cƣới chính thức các cô dâu thƣờng chọn cho mình chiếc váy âu cách tân sang trọng. b. Áo dài trong tang lễ Đối với ngƣời Việt Nam chọn trang phục để mặc trong tang lễ là điều rất quan trọng. Vì không gian tang lễ khác hoàn toàn so với các không gian khác. Đến tang lễ không chỉ là chia buồn với gia đình ngƣời đã mất mà còn phải thể hiện sự tôn kính trân trọng đối với ngƣời đã khuất. Từ xƣa đến nay trang phục trong tang lễ là bộ đồ xô gai. Tuy vậy áo dài vẫn đƣợc lựa chọn để mặc. Và một điểm đáng chú ý ở đây nữa là áo dài phải là những ngƣời thân, hàng xóm đến chia buồn cùng gia quyến. 2.3. Vai trò của Áo dài đối với nền văn hóa dân tộc Việt Nam Áo dài là một biểu tƣợng của Việt Nam, vừa truyền thống lại vừa hiện đại. Trang phục này không bị giới hạn chỉ mặc tại một số nơi hay dịp mà có thể mặc mọi nơi, Nó đã trở thành trang phục chuẩn mực cho những dịp đặc biệt hoặc trang trọng nhƣ những ngày lễ quốc gia, lễ cƣới, ngày tết, lễ tốt nghiệp hoặc trong những cuộc thi quan trọng, dùng làm trang phục công sở, đồng phục đi học, mặc đi chơi hay mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà. Phát triển với những bƣớc đi của lịch sử, có thể nói, áo dài chính là một minh chứng rõ nét của những thăng trầm trong đất nƣớc ta. Có một cái nhìn khái quát thông qua sự tiến triển thăng trầm của lịch sử giúp chúng ta khẳng định đƣợc bản lĩnh vững vàng của phong cách ngƣời Việt. Không ít nhà nghiên cứu đã lƣu ý đến tinh thần đấu tranh chống đồng hóa của ngƣời Việt thông qua trang phục. Điều này đúng nhƣng chƣa đủ. Đối với kẻ thì xâm lƣợc từ phƣơng Bắc đem theo chủ trƣơng đồng hóa triệt để bằng cách bắt nhân dân ta thay đổi trang phục, đầu tóc thì nhân dân ta kiên quyết chống lại, nhiều khi rất quyết liệt. Hay khi sang xâm lƣợc, thực dân Pháp đã lái sang những xu hƣớng thẩm mỹ về trang phục không lành mạnh; khi đế quốc Mỹ nhảy vào miền nam Việt Nam, chúng lại khuyến khích nhân dân ta Mỹ hóa trang phục. Để đấu tranh với với bọn thực dân mới, chống lại cái lỗ 136

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.