Thời Lê sơ cấp triều đình có máy bộ

Sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi đất nước, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khôi phục lại quốc hiệu Đại Việt.

Tổ chức bộ máy chính quyền: đứng đầu triều đình là vua. Vua trực tiếp nắm mọi quyền hành, kể cả chức Tổng Chỉ huy quân đội.

Giúp việc cho vua có các quan đại thần. Ở triều đình có 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Ngoài ra, còn có một số cơ quan chuyên môn như Hàn lâm viện (soạn thảo công văn), Quốc sử viện (viết sử), Ngự sử đài (can gián vua và các triều thần).

Thời Lê Thái Tổ, Thái Tông, cả nước chia làm 5 đạo; từ thời Thánh Tông, được chia lại thành 13 đạo thừa tuyên. Đứng đầu mỗi đạo thừa tuyên là ba ti phụ trách ba mặt hoạt động khác nhau của mỗi đạo. Dưới đạo có phủ, châu, huyện và xã.

Em hãy trình bày và vẽ sơ đồ tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê sơ.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 20 phần 1: Nước Đại Việt thời Lê Sơ

    - Tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê sơ, đặc biệt là dưới thời Lê Thánh Tông hoàn chỉnh và đầy đủ hơn so với thời Lê Thái Tổ ở một số điều, như triều đình có đầy đủ các bộ, các tự, các khoa và các cơ quan chuyên môn.

    - Hệ thống thanh tra, giám sát được tăng cường từ triều đình đến các địa phương.

    - Ở các đơn vị hành chính, tổ chức chặt chẽ hơn (nhất là các cấp đạo thừa tuyên), có 3 cơ quan phụ trách mà không tập trung quyền lực vào một An phủ sứ như trước và có phân công trách nhiệm rõ ràng. Bộ máy chính quyền cấp xã được tổ chức chặt chẽ hơn.

Xem tiếp...

Việc tổ chức quân đội thời Lê sơ như thế nào ? Em có nhận xét gì về chủ trương của nhà nước Lê sơ đối với lãnh thổ của đất nước qua đoạn trích trong "Đại Việt sử kí toàn thư" (SGK, trang 96)?

Chi tiết Chuyên mục: Bài 20 phần 1: Nước Đại Việt thời Lê Sơ

- Quân đội thời Lê sơ tổ chức theo chế độ "ngụ binh ư nông":

    + Gồm có hai bộ phận chính: quân ở triều đình và quân ở các địa phương.

    + Các binh chủng: bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh.

    + Vũ khí: đao kiếm, giáo, mác, cung tên, hỏa đồng, hỏa pháo.

    + Hằng năm, quân lính được luyện tập võ nghệ, chiến trận. Quân đội mạnh được bố trí bảo vệ biên giới.

- Nhà nước Lê sơ thể hiện qua đoạn trích là thái độ kiên quyết bảo vệ chủ quyền biên giới lãnh thổ của Tổ quốc, mỗi tấc đất của Tổ quốc mất đi phải đòi lại cho bằng được, không để cho kẻ thù xâm phạm lãnh thổ. Đây là lời răn đe, bài học cho bao thế hệ trong việc giữ gìn biên cương lãnh thổ của đất nước.

Xem tiếp...

Hành chính Đại Việt thời Lê sơ, đặc biệt là sau những cải cách của Lê Thánh Tông, hoàn chỉnh hơn so với thời Lý và thời Trần, mang tính quan liêu và chuyên chế cao độ.

Từ thời Lê Thánh Tông, có sự sắp xếp lại bộ máy nhằm tập trung quyền lực vào tay hoàng đế và kiểm soát chặt chẽ cấp địa phương. Bộ máy tổ chức thời Lê Thánh Tông là bộ máy quân chủ chuyên chế quan liêu được tổ chức khá chặt chẽ và hoàn chỉnh.

Mục lục

  • 1 Chính quyền trung ương
    • 1.1 Lục bộ
    • 1.2 Lục tự
    • 1.3 Các cơ quan chuyên môn
  • 2 Chính quyền địa phương
    • 2.1 Phủ Trung Đô/Phụng Thiên
    • 2.2 Thiên Trường/Sơn Nam
    • 2.3 Bắc Giang/Kinh Bắc
    • 2.4 Quốc Oai / Sơn Tây
    • 2.5 Nam Sách/Hải Dương
    • 2.6 An Bang
    • 2.7 Lạng Sơn
    • 2.8 Thái Nguyên/Ninh Sóc
    • 2.9 Tuyên Quang
    • 2.10 Hưng Hóa
    • 2.11 Thanh Hoa
    • 2.12 Nghệ An
    • 2.13 Thuận Hóa
    • 2.14 Quảng Nam
  • 3 Tham khảo
  • 4 Xem thêm
  • 5 Chú thích

Chính quyền trung ươngSửa đổi

Bộ máy chính quyền thời Lê Thái Tổ cơ bản theo mô hình thời Trần. Giúp việc trực tiếp cho hoàng đế là trung khu gồm các quan tả, hữu tướng quốc, tam thái (thái sư, thái uý, thái bảo), tam thiếu (thiếu sư, thiếu uý, thiếu bảo), tam tư (tư mã, tư không, tư khấu), bộc xạ. Dưới trung khu là hai ban văn, võ.

Đứng đầu ban văn là quan đại hành khiển. Các bộ, ngành thuộc văn ban là bộ Lại, bộ Lễ, khu mật viện, hàn lâm viện, ngũ hình viện, ngự sử đài, quốc tử giám, quốc sử viện, nội thị sảnh, và các cơ quan khác gọi là quán, cục, hay ty. Đứng đầu các bộ là quan thượng thư.

Đứng đầu ban võ là đại tổng quan. Tiếp đến là các chức đại đô đốc, đô tổng quản, tổng quản, tổng binh, tư mã. Ban võ gồm 6 quân điện tiền và 5 quân thiết đột.

Tổng số quan lại thời Hồng Đức là 5.370 người, trong đó quan lại trong triều 2.755 người[1].

Lục bộSửa đổi

Thời Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Đến năm 1466, Lê Thánh Tông tổ chức thành sáu bộ[2]:

  • Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước;
  • Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu mạo;
  • Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh;
  • Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp;
  • Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày, kiện cáo;
  • Công bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền.

Mỗi bộ có 1 viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường trực là Vụ tư sảnh đứng đầu. Giám sát Lục bộ là Lục khoa tương ứng, gồm Lại khoa, Lễ khoa, Hộ khoa, Binh khoa, Hình khoa, Công khoa. Đứng đầu các khoa là Đô cấp sự trung và Cấp sự trung. Giúp việc cho Lục bộ là Lục tự.

Lục tựSửa đổi

Gồm có:

  • Đại lý tự: cơ quan phụ trách hình án. Xét xong án chuyển sang Bộ Hình để tâu lên vua quyết định
  • Thái thường tự: cơ quan phụ trách lễ nghi, âm nhạc cung đình
  • Quang lộc tự: phụ trách hậu cần đồ lễ trong các buổi lễ của triều đình
  • Thái bộc tự: cơ quan phụ trách xe ngựa của vua và coi sóc ngựa của hoàng tộc
  • Hồng lô tự: Tổ chức việc xướng danh những người đỗ trong kỳ thi đình; lo an táng đại thần qua đời và tiếp đón sứ đoàn
  • Thượng bảo tự: Cơ quan coi việc đóng ấn vào quyển thi của các thí sinh thi Hội

Các cơ quan chuyên mônSửa đổi

Lê Thánh Tông tổ chức thêm một số cơ quan chuyên môn không lệ thuộc vào 6 Bộ, bao gồm:

  • Thông Chính ty: cơ quan phụ trách chuyển đạt giấy tờ của triều đình xuống và nhận đơn từ của nhân dân tâu lên vua. Đứng đầu là Thông chính sứ, trật Tòng tứ phẩm.
  • Quốc Tử Giám: cơ quan giáo dục cao nhất trong cả nước. Đây là trường đại học của triều đình có nhiệm vụ đào tạo nhân tài cho quốc gia. Đứng đầu là Tế tửu, trật chánh tứ phẩm.
  • Quốc sử viện: cơ quan chép sử của triều đình. Nhà vua nói gì, làm gì, sử quan đều phải ghi chép cẩn thận và trung thực. Đứng đầu là Quốc sử viện Tu soạn, trật chánh bát phẩm
  • Khuyến nông sứ và Hà đê sứ: Hai cơ quan coi việc nông nghiệp và trông nom về thủy lợi, đê điều.

Chính quyền địa phươngSửa đổi

Cương vực vương quốc Đại Việt dưới thời trị vị của vua Lê Thánh Tông

Năm 1428, Lê Lợi khi lên ngôi, lấy niên hiệu là Thuận Thiên (tuân theo Trời), chia đất nước thành 5 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc (đều ở vùng Bắc bộ) và Hải Tây (từ Thanh Hóa trở vào). Dưới đạo là trấn, dưới trấn là lộ, dưới lộ là châu và huyện. Cấp hành chính địa phương thấp nhất là xã. Xã lại chia làm đại xã, trung xã và tiểu xã tùy theo số dân.

Đứng đầu chính quyền các đạo là chức hành khiển (phụ trách cả dân sự lẫn quân sự). Đứng đầu các trấn là các an phủ sứ, các lộ là tuyên phủ sứ, các châu, huyện là tri châu hay tri huyện, các xã là xã quan (từ thời Lê Thánh Tông đổi thành xã trưởng).

Đến năm Quang Thuận thứ 5 (1464) thời vua Lê Thánh Tông, Đại Việt được chia thành 1 phủ và 12 đạo "thừa tuyên"; năm 1490 đổi gọi phần lớn các "thừa tuyên" là "xứ"; sang thời Lê Uy Mục và Lê Tương Dực đổi gọi các đơn vị cấp cao nhất là "trấn". Các đơn vị hành chính cao nhất gồm gồm: Phủ Trung Đô (phủ Phụng Thiên), Thanh Hoa (Thanh Hóa), Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường (Sơn Nam), Hải Dương (Nam Sách), Sơn Tây (Quốc Oai), Bắc Giang (Kinh Bắc), An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên (Ninh Sóc), Lạng Sơn. Từ năm 1471 mở rộng đất đai phía nam, đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam. Tuy địa giới có một số điều chỉnh và riêng Sơn Tây không còn là đơn vị cấp cao nhất, một nửa trong số các đơn vị hành chính lớn nhất thời kỳ này (Hải Dương, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam) có tên gọi được dùng làm tên các đơn vị hành chính lớn nhất (tỉnh) của Việt Nam hiện nay[3].

Bộ máy chính quyền của mỗi đạo thừa tuyên gồm 3 ty: đô tổng binh sứ ty (phụ trách quân sự), thừa tuyên ty (phụ trách các việc dân sự), hiến sát ty (phụ trách các việc thanh tra, giám sát).

Các quan địa phương được ban ngạch cao nhất là chánh tứ phẩm, hưởng lương 48 quan mỗi năm. Tổng số quan lại địa phương thời Hồng Đức là 2.615 người[1].

Cụ thể về các đơn vị như sau:

Phủ Trung Đô/Phụng ThiênSửa đổi

Tức trung tâm Hà Nội hiện nay. Năm 1466 đổi là Phủ Trung Đô, từ năm 1469 được đổi tên thành phủ Phụng Thiên. Gồm có 2 huyện:

  • Quảng Đức: là huyện phụ quách kinh thành, thời Nguyễn đổi tên là Vĩnh Thuận.
  • Vĩnh Xương, sau đổi là Thọ Xương.

Thiên Trường/Sơn NamSửa đổi

Vốn có tên là thừa tuyên Thiên Trường, năm 1469 đổi thành thừa tuyên Sơn Nam. Năm 1490 đổi làm xứ Sơn Nam, sang đời Lê Uy Mục lại gọi là trấn Sơn Nam. Gồm có[4]:

  • Phủ Thường Tín: gồm các huyện Thanh Trì (nay là một phần huyện Thanh Trì, quận Hoàng Mai, một phần quận Hai Bà Trưng, quận Đống Đa và quận Thanh Xuân Hà Nội), Thượng Phúc (huyện Thường Tín và một phần huyện Thanh Trì, Hà Nội hiện nay), Phù Vân (đến thời Lê Chiêu Tông đổi là huyện Phú Nguyên, nay là huyện Phú Xuyên, Hà Nội)
  • Phủ Ứng Thiên, gồm có các huyện: Thanh Oai (nay là huyện Thanh Oai và một phần quận Hà Đông, Hà Nội), Chương Đức (tức huyện Chương Mỹ và một phần quận Hà Đông, Hà Nội), Sơn Minh (tức huyện Ứng Hòa, Hà Tây cũ), Hoài An (phần nam huyện Ứng Hòa và một phần huyện Mỹ Đức, Hà Nội).
  • Phủ Lý Nhân: tương đương tỉnh Hà Nam hiện nay; gồm các huyện: Nam Xang (huyện Lý Nhân và một phần thành phố Phủ Lý, Hà Nam hiện nay), Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm (Thanh Liêm và một phần thành phố Phủ Lý hiện nay), Bình Lục.
  • Phủ Khoái Châu: gồm các huyện Đông Yên (nay là huyện Khoái Châu thuộc Hưng Yên), Kim Động (huyện Kim Động và một phần thành phố Hưng Yên hiện nay), Tiên Lữ (huyện Tiên Lữ và một phần thành phố Hưng Yên hiện nay), Thiên Thi (Ân Thi hiện nay), Phù Dung (Phù Cừ hiện nay).
  • Phủ Thiên Trường (một phần Nam Định hiện nay): gồm các huyện Tây Chân (Nam Trực, Trực Ninh và một phần thành phố Nam Định hiện nay), Giao Thủy (Giao Thủy và Xuân Trường hiện nay), Mỹ Lộc (huyện Mỹ Lộc và một phần thành phố Nam Định hiện nay), Thượng Nguyên (nam Mỹ Lộc hiện nay).
  • Phủ Nghĩa Hưng (tức phủ Kiến Hưng thời Trần, một phần Nam Định hiện nay): gồm các huyện Đại An (Nghĩa Hưng hiện nay), Vọng Doanh (nam Ý Yên hiện nay), Thiên Bản (Vụ Bản hiện nay), Ý Yên (bắc Ý Yên hiện nay)
  • Phủ Thái Bình (một phần tỉnh Thái Bình hiện nay): gồm các huyện Thụy Anh (phía bắc huyện Thái Thụy hiện nay), Thanh Lan (phía nam huyện Thái Thụy hiện nay), Phụ Dực (phía đông huyện Quỳnh Phụ hiện nay), Quỳnh Côi (phía tây huyện Quỳnh Phụ hiện nay), Đông Quan (một phần huyện Đông Hưng hiện nay).
  • Phủ Tân Hưng (Long Hưng thời Trần, phía tây bắc Thái Bình hiện nay): gồm các huyện: Ngự Thiên (một phần huyện Hưng Hà hiện nay), Duyên Hà (một phần huyện Hưng Hà hiện nay), Thần Khê (một phần huyện Đông Hưng và thành phố Thái Bình hiện nay).
  • Phủ Kiến Xương (nam Thái Bình hiện nay) gồm các huyện: Thư Trì (một phần huyện Vũ Thư và thành phố Thái Bình hiện nay), Vũ Tiên (một phần các huyện Vũ Thư và Kiến Xương hiện nay), Chân Định (một phần huyện Kiến Xương hiện nay).
  • Phủ Trường Yên (đông Ninh Bình hiện nay) gồm các huyện: Gia Viễn (phía đông Gia Viễn, huyện Hoa Lư và thành phố Ninh Bình hiện nay), Yên Mô (huyện Yên Mô và thành phố Tam Điệp hiện nay), Yên Khang (Yên Khánh hiện nay).
  • Phủ Thiên Quan (tây Ninh Bình hiện nay) gồm các huyện Phụng Hóa (Nho Quan hiện nay), Yên Hóa (tây Gia Viễn hiện nay), Lạc Thổ (các huyện Lạc Sơn, Lạc Thủy, Yên Thủy và Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình hiện nay).

Bắc Giang/Kinh BắcSửa đổi

Thời Lê Thái Tông vốn là 2 đạo Bắc Giang thượng và Bắc Giang hạ, năm 1466 đổi là thừa tuyên Bắc Giang, năm 1469 đổi là thừa tuyên Kinh Bắc, thời Lê Tương Dực đổi là trấn Kinh Bắc. Gồm có các phủ[5]:

  • Phủ Từ Sơn gồm các huyện Đông Ngàn (sau là huyện Từ Sơn, nay là thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh và một phần các huyện Đông Anh, Gia Lâm của Hà Nội và huyện Kim Anh của tỉnh Phúc Yên cũ, tức là một phần huyện Sóc Sơn, Hà Nội hiện nay), Yên Phong (huyện Yên Phong và một phần thành phố Bắc Ninh hiện nay), Tiên Du (huyện Tiên Du, một phần thành phố Bắc Ninh và một phần huyện Gia Lâm hiện nay), Võ Giàng (một phần huyện Quế Võ và một phần thành phố Bắc Ninh hiện nay), Quế Dương (một phần Quế Võ hiện nay).
  • Phủ Thuận An gồm các huyện: Gia Lâm (quận Long Biên và một phần huyện Gia Lâm, Hà Nội hiện nay), Siêu Loại (huyện Thuận Thành hiện nay), Văn Giang (huyện Văn Giang, Hưng Yên và xã Kim Lan, huyện Gia Lâm, Hà Nội hiện nay), Gia Định (huyện Gia Bình hiện nay), Thiện Tài (Lương Tài hiện nay), Văn Lâm (thuộc Hưng Yên hiện nay).
  • Phủ Bắc Hà gồm các huyện: Tân Phúc (Đa Phúc cũ, một phần Sóc Sơn hiện nay), Kim Hoa (một phần Sóc Sơn hiện nay), Hiệp Hòa, Yên Việt (Việt Yên hiện nay).
  • Phủ Lạng Giang gồm các huyện Phượng Nhãn (một phần Yên Dũng hiện nay), Hữu Lũng (huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn hiện nay), Bảo Lộc (Lạng Giang hiện nay), Yên Thế (Yên Thế và Tân Yên hiện nay), Lục Ngạn (Lục Ngạn và Lục Nam hiện nay).

Quốc Oai / Sơn TâySửa đổi

Vốn là lộ Quốc Oai thượng, trung và hạ thời Lê Thái Tổ, năm 1466 đổi là thừa tuyên Quốc Oai, năm 1469 đổi là thừa tuyên Sơn Tây, năm 1490 đổi là xứ Sơn Tây, thời Lê Tương Dực đổi là trấn Sơn Tây. Gồm các phủ[6]:

  • Phủ Quốc Oai gồm các huyện: Từ Liêm (quận Cầu Giấy, một phần quận Tây Hồ, một phần quận Thanh Xuân và một phần huyện Từ Liêm hiện nay), Thạch Thất, Đan Phượng (huyện Đan Phượng và một phần huyện Từ Liêm hiện nay), Mỹ Lương (Mỹ Đức, Hà Nội và Lương Sơn, Kim Bôi Hòa Bình hiện nay), Phúc Lộc (huyện Phúc Thọ và một phần thị xã Sơn Tây hiện nay).
  • Phủ Tam Đái gồm có các huyện: Yên Lãng (thị xã Phúc Yên hiện nay), Yên Lạc, Bạch Hạc (Vĩnh Tường hiện nay), Lập Thạch (các huyện Lập Thạch và Sông Lô hiện nay), Phù Ninh (huyện Phù Ninh, một phần thị xã Phú Thọ và một phần thành phố Việt Trì hiện nay).
  • Phủ Thao Giang gồm các huyện Sơn Vi (Lâm Thao hiện nay), Thanh Ba, Hoa Khê (Cẩm Khê hiện nay), Hạ Hòa, Tam Nông.
  • Phủ Đoan Hùng gồm các huyện Đông Lan (Lê Hiến Tông đổi là Đông Quan, tương đương khu vực ngã ba sông Lô và sông Chảy hiện nay), Tây Quan (hữu ngạn sông Lô cạnh Phù Ninh hiện nay), Sơn Dương, Đương Đạo (đông bắc Sơn Dương hiện nay), Tam Dương (các huyện Tam Dương và Tam Đảo, Vĩnh Phúc hiện nay).
  • Phủ Quảng Oai gồm các huyện Ma Nghĩa (đến Lê Chiêu Tông đổi là Minh Nghĩa, tức một phần thị xã Sơn Tây và một phần Ba Vì, Hà Nội hiện nay), Tân Phong (một phần Ba Vì hiện nay).

Nam Sách/Hải DươngSửa đổi

Vốn là lộ Nam Sách thượng và Nam Sách hạ, năm 1466 gộp vào là thừa tuyên Nam Sách, năm 1469 đổi là thừa tuyên Hải Dương. Gồm các phủ[7]:

  • Phủ Thượng Hồng gồm các huyện: Đường Hào (Mỹ Hào, Hưng Yên hiện nay), Đường Yên (Bình Giang, Hải Dương hiện nay), Cẩm Giàng (huyện Cẩm Giàng và một phần thành phố Hải Dương hiện nay), Thanh Miện, Tứ Kỳ, Vĩnh Lại (Vĩnh Bảo, Hải Phòng hiện nay), Gia Phúc (Gia Lộc hiện nay).
  • Phủ Nam Sách gồm các huyện: Thanh Lâm (huyện Nam Sách và một phần thành phố Hải Dương, Hải Dương hiện nay), Chí Linh, Thanh Hà (huyện Thanh Hà và một phần thành phố Hải Dương hiện nay), Tiên Minh (Tiên Lãng, Hải Phòng hiện nay).
  • Phủ Kinh Môn gồm các huyện: Giáp Sơn (Kinh Môn hiện nay), Đông Triều (huyện Đông Triều và thành phố Uông Bí hiện nay), An Lão, Nghi Dương (Kiến Thụy hiện nay), Kim Thành, Thủy Đường (Thủy Nguyên hiện nay), An Dương (huyện An Dương và quận Hải An hiện nay).

An BangSửa đổi

Thời Lê Thái Tổ là An Bang thuộc Đông Đạo, từ năm 1466 là thừa tuyên An Bang, năm 1490 gọi là xứ An Bang, thời Lê Tương Dực đổi là trấn An Bang. Gồm có 1 phủ[8]:

  • Phủ Hải Đông gồm các huyện: Hoành Bồ (huyện Hoành Bồ và một phần thành phố Hạ Long hiện nay), Yên Hưng (thị xã Quảng Yên và một phần thành phố Hạ Long hiện nay), Hoa Phong (Cát Hải hiện nay) và các châu: Tiên Yên, Vạn Ninh (Móng Cái hiện nay), Vĩnh An (thuộc Quảng Tây, Trung Quốc hiện nay), Vân Đồn.

Lạng SơnSửa đổi

Thời Lê Thái Tổ thuộc Bắc Đạo, năm 1466 đặt thừa tuyên Lạng Sơn, năm 1490 đổi là xứ Lạng Sơn, thời Lê Tương Dực đổi là trấn Lạng Sơn. Gồm 1 phủ[9]:

  • Phủ Trường Khánh (tỉnh Lạng Sơn hiện nay) gồm các châu: Thất Nguyên (huyện Tràng Định hiện nay), Văn Uyên (huyện Văn Lãng hiện nay), Văn Lan (một phần Chi Lăng và Văn Quan hiện nay), Ôn (một phần Chi Lăng hiện nay), Lộc Bình (Lộc Bình và Cao Lộc hiện nay), An Bác (Sơn Động, Bắc Giang hiện nay, Thoát Lãng (Thành phố Lạng Sơn hiện nay).

Thái Nguyên/Ninh SócSửa đổi

Thời Lê Thái Tổ thuộc Bắc đạo, năm 1466 đặt thừa tuyên Thái Nguyên, năm 1469 đổi là thừa tuyên Ninh Sóc. Gồm các phủ[10]:

  • Phủ Phú Bình gồm các huyện: Phổ Yên, Đại Từ, Tư Nông (Phú Bình hiện nay), Bình Nguyên (Bình Xuyên, Vĩnh Phúc hiện nay), Đồng Hỷ, Văn Lãng (Văn Lãng, Lạng Sơn hiện nay), Võ Nhai, Phú Lương và châu Định Hóa (huyện Định Hóa hiện nay).
  • Phủ Thông Hóa (tỉnh Bắc Kạn hiện nay) gồm huyện Cảm Hóa (Ngân Sơn và Na Rì hiện nay) và châu Bạch Thông (thị xã Bắc Kạn, các huyện Bạch Thông, Chợ Đồn và Chợ Mới hiện nay).
  • Phủ Cao Bình, vốn là phủ Bắc Bình (tỉnh Cao Bằng hiện nay) gồm các châu: Thạch Lâm (Hòa An, Nguyên Bình và Thạch An hiện nay), Quảng Uyên (Quảng Uyên và Phục Hòa hiện nay), Thượng Lang (Trà Lĩnh và Trùng Khánh hiện nay), Hạ Lang.

Tuyên QuangSửa đổi

Thời Lê Thái Tổ thuộc Tây đạo, năm 1466 đặt thừa tuyên Tuyên Quang, năm 1490 đổi là xứ Tuyên Quang, thời Lê Tương Dực đổi là trấn Minh Thuận. Gồm có 1 phủ[11]:

  • Phủ Yên Bình gồm huyện Phúc Yên (Yên Sơn và Hàm Yên hiện nay), và các châu: Vị Xuyên (Vị Xuyên, Xín Mần và Hoàng Su Phì, Bắc Quang, Quang Bình và thành phố Hà Giang thuộc tỉnh Hà Giang hiện nay. Kèm thêm cả phần đất các động Ngưu Dương (nay là Mã Quan), Hồ Điệp, Phổ Viên thuộc châu Vị Xuyên, mà trong đó gồm có cả vùng Tụ Long, phần đất này nay thuộc các huyện Mã Quan, Ma Lật Pha tỉnh Vân Nam Trung Quốc.), Thu Vật (Yên Bình thuộc Yên Bái hiện nay), Đại Man (Chiêm Hóa hiện nay), Bảo Lạc (Bảo Lạc thuộc Cao Bằng hiện nay), Lục Yên (Lục Yên thuộc Yên Bái hiện nay).

Hưng HóaSửa đổi

Bản đồ châu Phục Lễ (復醴), sau là phủ An Tây thừa tuyên Hưng Hóa của Đại Việt thời Lê sơ.

Bản đồ châu Thủy Vĩ phủ Quy Hóa trấn Hưng Hóa nước Đại Việt thời Hậu Lê.

Thời Lê Thái Tổ là 2 lộ Gia Hưng và Quy Hóa thuộc Tây đạo, năm 1466 đặt thừa tuyên Hưng Hóa, năm 1490 đổi là xứ Hưng Hóa, thời Lê Tương Dực đổi là trấn Hưng Hóa. Gồm các phủ[10]:

  • Phủ Gia Hưng gồm các huyện: Thanh Nguyên (Tân Sơn, Thanh Sơn và Thanh Thủy thuộc Phú Thọ hiện nay), Phù Hoa (Phù Yên thuộc Sơn La hiện nay), Mai Châu (nam Mai Châu thuộc Hòa Bình hiện nay), Mộc Châu (phần còn lại của Mai Châu thuộc Hòa Bình và Mộc Châu thuộc Sơn La hiện nay), Việt Châu (Yên Châu và Bắc Yên hiện nay), Thuận Châu.
  • Phủ Quy Hóa gồm các huyện: Văn Chấn (Văn Chấn thuộc Yên Bái hiện nay), Yên Lập (Yên Lập thuộc Phú Thọ hiện nay), Trấn Yên (Trấn Yên thuộc Yên Bái hiện nay), Văn Bàn (Văn Bàn thuộc Lào Cai hiện nay), Thủy Vĩ (thành phố Lào Cai hiện nay).
  • Phủ An Tây gồm các châu: Chiêu Tấn (thành phố Lai Châu, các huyện Tam Đường và Phong Thổ, Sìn Hồ hiện nay), Quỳnh Nhai (Quỳnh Nhai thuộc Sơn La hiện nay), Luân (là huyện Tủa Chùa hiện nay, nằm giữa Quỳnh Nhai và Tuần Giáo), Lai (thị xã Mường Lay và phía nam huyện Nậm Nhùn, huyện Sìn Hồ), châu Tuy Phụ (là khoảng phía bắc huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu ngày nay), châu Khiêm (khoảng phần phía nam của các huyện Mường Tè và Nậm Nhùn tỉnh Lai Châu), châu Hoàng Nham (là Mường Tông khoảng huyện Mường Nhé tỉnh Điện Biên), châu Lễ Tuyền (khoảng huyện Lục Xuân châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc), châu Hợp Phì (là khoàng Mường Mì hay Xiềng My, nay là hương Giả Mễ (者米乡, Zhe-mi-xiang) huyện Kim Bình châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam), châu Tung Lăng (嵩陵, thổ âm gọi là Phù Phang, không rõ ở đâu), châu Quảng Lăng (廣陵 Mường La, là khoảng hương Mường Lạp, Meng-la-xiāng (勐拉乡) huyện Kim Bình châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc).

Thanh HoaSửa đổi

Thời Lê Thái Tổ thuộc đạo Hải Tây, thời Lê Thái Tông gồm 6 phủ Thiệu Thiên, Hà Trung, Tĩnh Gia, Thanh Đô, Trường Yên, Thiên Quan; năm 1466 đặt thừa tuyên Thanh Hoa; năm 1490 đổi là xứ Thanh Hoa, Lê Tương Dực đổi là trấn Thanh Hoa. Gồm các phủ[12]:

  • Phủ Thiệu Thiên (Thiệu Hóa) gồm các huyện Thụy Nguyên (từng mang tên Ứng Thụy và Lương Giang, tức phía Bắc huyện Thiệu Hóa, phía Bắc huyện Thọ Xuân và phần lớn huyện Ngọc Lặc hiện nay), Vĩnh Ninh (Vĩnh Lộc hiện nay), Đông Sơn (huyện Đông Sơn và một phần huyện Thiệu Hóa, một phần thành phố Thanh Hóa hiện nay), Lôi Dương (một phần các huyện Thọ Xuân, Triệu Sơn, Thiệu Hóa và Thường Xuân hiện nay), Yên Định, Cẩm Thủy, Thạch Thành (một phần Thạch Thành hiện nay), Bình Giang (tây bắc Thạch Thành hiện nay).
  • Phủ Hà Trung có các huyện: Hoằng Hóa (huyện Hoằng Hóa và một phần thành phố Thanh Hóa hiện nay), Thuần Hựu (Hậu Lộc hiện nay), Tống Sơn (huyện Hà Trung và thị xã Bỉm Sơn hiện nay).
  • Phủ Tĩnh Gia có các huyện: Nông Cống (các huyện Như Xuân, Như Thanh, phần lớn huyện Nông Cống và một phần huyện Triệu Sơn hiện nay), Ngọc Sơn (huyện Tĩnh Gia và một phần huyện Nông Cống hiện nay), Quảng Xương (huyện Quảng Xương, thị xã Sầm Sơn và một phần thành phố Thanh Hóa hiện nay).
  • Phủ Thanh Đô có huyện Thọ Xuân (phần lớn huyện Thường Xuân hiện nay, khác với huyện Thọ Xuân hiện tại[13]) và các châu: Quan Gia (gần biên giới Lào hiện nay), Tầm (tây bắc Quan Hóa hiện nay), Lang Chánh, Sầm (Sầm Nưa thuộc Lào hiện nay[14]).

Nghệ AnSửa đổi

Thời Lê Thái Tổ thuộc đạo Hải Tây, năm 1466 đặt thừa tuyên Nghệ An, năm 1490 đổi là xứ Nghệ An, Lê Tương Dực đổi làm trấn Nghệ An. Tương đương tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hiện nay, gồm các phủ[15]:

  • Phủ Diễn Châu gồm các huyện: Đông Thành (Diễn Châu và Yên Thành hiện nay), Quỳnh Lưu (huyện Quỳnh Lưu, một phần huyện Nghĩa Đàn và thị xã Thái Hòa hiện nay).
  • Phủ Anh Đô gồm các huyện: Hưng Nguyên (huyện Hưng Nguyên và một phần thành phố Vinh hiện nay), Nam Đường (Anh Sơn, Đô Lương và Nam Đàn hiện nay).
  • Phủ Đức Quang gồm các huyện: Thiên Lộc (huyện Can Lộc, một phần huyện Lộc Hà và một phần thị xã Hồng Lĩnh hiện nay), Chân Phúc (huyện Nghi Lộc, thị xã Cửa Lò và một phần thành phố Vinh hiện nay), Thanh Chương, Hương Sơn (các huyện Hương Sơn, Hương Khê và một phần huyện Vũ Quang hiện nay), Nghi Xuân.
  • Phủ Hà Hoa gồm các huyện: Thạch Hà (thành phố Hà Tĩnh, huyện Thạch Hà và một phần huyện Lộc Hà hiện nay), Kỳ Hoa (Kỳ Anh và Cẩm Xuyên hiện nay).
  • Phủ Quỳ Châu gồm các huyện: Thúy Vân (Quỳ Châu và Quỳ Hợp hiện nay), Trung Sơn (Quế Phong hiện nay).
  • Phủ Trà Lân gồm 4 huyện: Tương Dương, Kỳ Sơn, Vĩnh Khang (một phần Tương Dương, Nghệ An hiện nay), Hội Nguyên (tả ngạn sông Lam từ Thanh Chương đến cửa Rào).
  • Phủ Ngọc Ma gồm có châu Trịnh Cao (châu gồm 12 động) thuộc Lào hiện nay.
  • Phủ Lâm An chỉ có 1 châu Quỳ Hợp gồm 12 động và 11 sách, vốn là đất Bồn Man nay khoảng huyện Hương Khê Hà Tĩnh và huyện Nakai Khăm Muộn của Lào, đầu nguồn của sông Ngàn Sâu[16].
  • Phủ Trấn Ninh: là đất Bồn Man, nhập vào Đại Việt từ thời Lê Thánh Tông, gồm 7 huyện: Quang Vinh, Minh Quảng, Cảnh Thuần, Kim Sơn, Thanh Vị, Châu Lang, Trung Thuận, đều thuộc Lào hiện nay.

Thuận HóaSửa đổi

Thời Lê Thái Tổ là hai lộ Tân Bình và Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây, năm 1466 đặt thừa tuyên Thuận Hóa, năm 1490 đổi là xứ Thuận Hóa, Lê Tương Dực đổi là trấn Thuận Hóa. Gồm các phủ[17]:

  • Phủ Tân Bình: gồm các huyện Kiến Lộc (Quảng Ninh, Quảng Bình hiện nay), Lệ Thủy, Minh Linh (Vĩnh Linh và Gio Linh thuộc Quảng Trị hiện nay) và châu Bố Chính (Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa tỉnh Quảng Bình hiện nay).
  • Phủ Triệu Phong gồm các huyện Vũ Xương (Triệu Phong hiện nay), Hải Lăng, Đan Điền (Quảng Điền và một phần Phong Điền hiện nay), Kim Trà (Hương Trà và một phần Phong Điền hiện nay), Tư Vang (Hương Thủy và Phú Lộc hiện nay), Điện Bàn (thuộc Quảng Nam hiện nay).

Quảng NamSửa đổi

Năm 1471, vùng đất phía Nam Thuận Hóa mới chiếm được từ Chiêm Thành được đặt thành đạo thừa tuyên thứ 13, gọi là Quảng Nam. Gồm các phủ[18]:

  • Phủ Thăng Hoa gồm các huyện Lê Giang (Thăng Bình hiện nay), Hà Đông (Tam Kỳ hiện nay), Duy Xuyên.
  • Phủ Tư Nghĩa gồm các huyện Nghĩa Giang (Tư Nghĩa và một phần Nghĩa Hành hiện nay), Mộ Hoa (Mộ Đức và một phần Đức Phổ hiện nay).
  • Phủ Hoài Nhơn gồm các huyện Bồng Sơn (Hoài Nhơn và một phần Hoài Ân hiện nay), Phù Ly (Phù Mỹ và Phù Cát hiện nay), Tuy Viễn (An Nhơn và Tuy Phước hiện nay).

Tham khảoSửa đổi

  • Trương Hữu Quýnh chủ biên (2007), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
  • Viện sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
  • Đào Duy Anh (2005), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin

Xem thêmSửa đổi

  • Nhà Hậu Lê
  • Lê Thánh Tông
  • Xã trưởng thời Hậu Lê
  • Hành chính Đại Việt thời Lý
  • Hành chính Đại Việt thời Trần
  • Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng
  • Hành chính Đàng Trong thời Lê trung hưng

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ a b Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 154
  2. ^ Viện sử học, sách đã dẫn, tr 149-150
  3. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 172-173
  4. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 174-179
  5. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 179-180
  6. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 181-183
  7. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 183-185
  8. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 186
  9. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 187
  10. ^ a b Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 191-192
  11. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 190-191
  12. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 193-196
  13. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 195
  14. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 196
  15. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 196-198
  16. ^ Đại Nam nhất thống chí, quyển 26, trang 255.
  17. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 200-201
  18. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 201-203

Video liên quan

Chủ đề