Trong bài Tĩnh dạ tứ đầu là điểm gợi nhớ khiến nhà thơ hương về quê cũ




Câu 1. Có người cho rằng trong bài Tĩnh dạ tứ, hai câu đầu thuần túy tả cảnh, hai câu cuối là thuần túy tả tình. Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao? * Ý kiến: Không tán thành. * Lý do: - Nội dung chính của hai câu đầu là miêu tả ánh trăng trong đêm. Nhưng qua đó, người đọc vẫn thấy được tâm trạng của nhân vật trữ tình: Đầy ngạc nhiên trước vẻ đẹp của ánh trăng. Hình ảnh ánh trăng trong con mắt nhà thơ mờ ảo: gợi ra hình ảnh Lý Bạch vừa uống rượu vừa thưởng trăng. Thể hiện tâm trạng bâng khuâng và nhớ nhung của tác giả. - Trong hai câu cuối không chỉ bộc lộ tình cảm của nhà thơ mà vẫn miêu tả hình ảnh ánh trăng (ngẩng đầu nhìn trăng sáng).

Câu 2. Tuy không phải là một bài thơ đường luật nhưng “Tĩnh dạ tứ” cũng sử dụng phép đối:

a. So sánh về mặt từ loại: Cùng loại: động từ (ngẩng đầu - cúi đầu) và danh từ (trăng - quê hương), tính từ (sáng - cũ). b. Tác dụng: Tạo sự đăng đối trong hành động, góp phần diễn tả tâm trạng của nhà thơ.

Câu 3. Dựa vào bốn động từ nghi (ngỡ là), cử (ngẩng), đê (cúi) và tư (nhớ) để chỉ ra sự thống nhất, liền mạch của suy tư, cảm xúc trong bài thơ.

- Bốn động từ cho thấy mạch suy tư, cảm xúc của nhà thơ: Khi bắt gặp ánh trăng, nhà thơ cứ ngỡ đó là màn sương đêm. Rồi ngẩng đầu nhìn lên mới nhận ra đó là trăng chứ không phải sương, để rồi ánh trăng khiến nhà thơ nhớ đến quê hương. Và hành động cuối cùng là cúi xuống giống như là đang kìm nén cảm xúc đang trào dâng trong lòng. => Hành động gắn liền với tâm trạng của tác giả, góp dẫn diễn tả nỗi nhớ quê hương sâu sắc.

II. Luyện tập​

Có người dịch Tĩnh dạ tứ thành hai câu thơ:

Đêm thu trăng sáng như sương
Lý Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà

Dựa vào những điều phân tích ở trên, em hãy nhận xét về hai câu thơ dịch ấy. Nếu có thể, thử dịch thành bốn câu thơ theo nguyên thể hoặc theo thể lục bát. - Nhận xét: Hai câu thơ trên đã diễn tả được nội dung chính của bài thơ Tĩnh Dạ Tứ của Lý Bạch: Hình ảnh ánh trăng và nỗi nhớ quê hương. Gợi ý dịch:

Đầu giường ánh trăng sáng rọi Cứ ngỡ rằng mặt đất đang phủ sương Ngẩng đầu lên thấy trăng sáng

Cúi đầu ngậm ngùi nhớ về quê xưa.

Lý Bạch quả không hổ danh là thi tiên các em nhỉ? Đọc thơ của ông Sen Biển luôn có một niềm say mê yêu thích vô cùng. Với bài soạn văn cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh, Sen Biển mong sẽ góp phần khiến các em hiẻu sâu và nắm vững hơn các kiến thức về tác giả Lý Bạch cũng như bài thơ tĩnh dạ tứ. Để hiểu thêm về tác giả Lý Bạch mời các em đọc thêm phần bình luận

- Lý Bạch (701 - 762) là nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc vào thời nhà Đường. Tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ. - Quê hương: Cam Túc (huyện Thiên Thủy - tức Lũng Tây ngày xưa). - Khi còn nhỏ, ông cùng với gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thờ vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê hương của mình. - Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Trung Hoa, ông được người đời gọi là “thi tiên” (tiên thơ). - Thơ ông thường thể hiện một tâm hồn tự do, hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. - Đề tài: thường viết nhiều và viết hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. - Một số tác phẩm tiêu biểu: Tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp: Cổ phong, Quan san nguyệt... Cảm thông cho người chinh phụ: Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca… Tình bạn: Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu… Tình yêu đôi lứa: Oán tình, Xuân tứ… Tình cảm với quê hương: Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn… Đặc biệt là thơ về tửu (rượu): Đối tửu, Thương tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt…

II. Tác phẩm​

1. Hoàn cảnh sáng tác - Trong thơ Lý Bạch, hình ảnh ánh trăng thường xuất hiện rất nhiều và đa dạng, ý nghĩa vô cùng phong phú. - Chủ đề của bài thơ: “Vọng nguyệt hoài hương” (Trông trăng nhớ quê), cách thể hiện rất giản dị mà độc đáo. - Thuở nhỏ, ông thường lên đỉnh núi Nga Mi ở quê ngắm trăng. Từ năm 25 tuổi, ông phải xa quê nên mỗi lần nhìn thấy ánh trăng là nhà thơ lại nhớ tới quê hương. - Lý Bạch sáng tác bài thơ trên khi ông đang ở rất xa quê hương của mình.

2. Thể thơ

- Bài thơ được viết theo hình thức cổ thể - một thể thơ trong đó mỗi câu thường có 5 hoặc 7 chữ, không chịu ảnh hưởng bởi những quy tắc niêm luật và đối. - Ngũ ngôn cổ thể (4 câu, mỗi câu 5 chữ).

3. Bố cục

Gồm 2 phần: Phần 1. 2 câu đầu: Hình ảnh ánh trăng trong đêm thanh tĩnh. Phần 2. 2 câu cuối. Nỗi nhớ quê hương của tác giả.

III. Đọc hiểu văn bản​

1. 2 câu đầu: Hình ảnh ánh trăng trong đêm thanh tĩnh Hình ảnh ánh trăng được miêu tả qua: - Các từ “minh ”, “quang”, “sương”: Ánh trăng trong đêm rất sáng và mở ảo, chiếu xuống mà nhìn là dưới mặt đất đất đang phủ một làn sương mờ ảo. - Từ “sàng” (giường): Giúp người đọc nhận biết được vị trí ngắm trăng của nhà thơ. Ánh trăng xuyên qua khe cửa, chiếu xuống đầu giường chứng tỏ trăng đêm rất sáng và trời cũng đã khuya rồi. Nhưng lúc này, nhà thơ vẫn còn thức để ngắm trăng - chứng tỏ tâm trạng thao thức, băn khoăn của nhà thơ. Từ “nghi” và từ “sương” cùng xuất hiện bổ xung ý nghĩa cho nhau: “nghi” nghĩa là tưởng như, ngờ như, dường như “sương”: chỉ màn sương đêm trắng mịt mờ, khiến cảnh vật mờ ảo. => Ánh trăng chiếu xuống vạn vật trong đêm tối mờ ảo khiến cho nhà thơ không phân biệt được đâu là trăng đâu là màn sương đêm. - Tâm trạng của nhà thơ: Đầy ngạc nhiên trước vẻ đẹp của ánh trăng. Hình ảnh ánh trăng trong con mắt nhà thơ mờ ảo: gợi ra hình ảnh Lý Bạch vừa uống rượu vừa thưởng trăng. Thể hiện tâm trạng bâng khuâng và nhớ nhung. => Hai câu đầu khắc họa hình ảnh đêm trăng đầy thơ mộng.

2. 2 câu cuối. Nỗi nhớ quê hương của tác giả

- Từ “vọng” được hiểu theo hai cách: Nhìn ra xa - hành động ngắm trăng của nhà thơ. Ngóng trông, nhìn về quê hương ở phía xa. => Từ vọng đã diễn tả nỗi nhớ quê hương của nhà thơ. - Lý Bạch đã xây dựng hai hình ảnh đối lập: “cử đầu” - “đê đầu” (ngẩng đầu - cúi đầu) giúp cho câu thơ trở nên đăng đối nhịp nhàng: Ngẩng đầu: Nhìn về phía ánh trăng đang chiếu sáng khắp mặt đất, cả quê hương của nhà thơ. Cúi đầu: Nhớ về quê cũ, nhà thơ đang tự nhìn vào nội tâm mình - tự đối mặt với nỗi nhớ quê hương da diết. - Tình cảm của nhân vật trữ tình được bộc lộ trực tiếp qua từ “tư” (nhớ): nỗi nhớ quê hương sâu đậm. => Hai câu sau khắc họa tình cảm nhớ thương của nhân vật trữ tình dành cho quê hương.

IV. Tổng kết​

- Nội dung: Bài thơ đã thể hiện tình yêu quê hương cùng nỗi nhớ da diết của một người sống xa quê trong đêm trăng thanh tĩnh.

- Nghệ thuật: Thể thơ ngũ ngôn cổ thể, hình ảnh giản dị mà tinh tế…

Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 1 dưới đây: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh [Tĩnh dạ tứ] do Lí Bạch sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo. Bài soạn văn 7 này sẽ giúp các bạn hiểu rõ về tình yêu quê hương của một người sống xa nhà trong đêm trăng thanh tĩnh để chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình.

Soạn bài lớp 7: Chữa lỗi về quan hệ từ

Soạn bài lớp 7: Xa ngắm thác núi Lư

Soạn bài lớp 7: Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu cảm

CẢM NGHĨ TRONG ĐÊM THANH TĨNH[Tĩnh dạ tứ]

Lí Bạch

I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

1. Tác giả

[Xem bài Vọng Lư sơn bộc bố]

2. Tác phẩm

Vọng nguyệt hoài hương [trông trăng nhớ quê] là một thi đề quen thuộc. Nhà thơ Đỗ Phủ từng ví trăng là ánh sáng quê hương. Thơ Lí Bạch tràn đầy trăng. Có trăng nơi quê hương [Trăng nửa vành thu trên đỉnh Nga Mi], trăng nơi biên ải, trăng tri kỉ cùng thi nhân [Một mình uống rượu dưới trăng]... và ở đây là trăng gợi nhớ quê hương. Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh giản dị mà độc đáo, tinh tế mà không hề trau chuốt. Bài thơ được viết theo hình thức cổ thể, một thể thơ trong đó mỗi câu thường có 5 hoặc 7 chữ, song không bị những quy tắc chặt chẽ về niêm, luật và đối.

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Ý kiến cho hai câu đầu của bài thơ thuần tuý tả cảnh, hai câu sau của bài thơ thuần tuý tả tình là chưa chính xác, bởi:

Ta hãy chú ý đến chữ "sàng" trong câu thơ thứ nhất [sàng ở đây có nghĩa là giường]. Như thế chữ sàng gợi cho ta nghĩ rằng nhà thơ đang nằm mà không ngủ được. Và cũng vì nằm trên giường không ngủ thì mới thấy ánh trăng xuyên qua cửa. Hơn thế nữa chắc chắn phải có một chủ thể trữ tình ở đây thì mới có cái sự "nghi" [Ngỡ mặt đất phủ sương] được. Nhân vật trữ tình rất có thể là chưa ngủ, hoặc ngủ rồi nhưng tỉnh dậy và không ngủ được nữa. Trong trạng thái mơ màng ấy mới có cái sự nghi ngờ rất đẹp [trăng sáng mà ngỡ là sương]. Như thế dù không trực tiếp tả người, câu thơ vẫn gợi lên được trạng thái và tình cảm của con người.

Hai câu thơ sau cũng vậy. Thực ra chỉ có đúng ba chữ trực tiếp tả tình, đó là: tư cố hương [nhớ về quê cũ], còn lại đều tả cảnh, tả người. Hay nói chính xác hơn cảnh được tả để chuyển tải cái tình quê hương da diết.

Như thế, từ đây có thể rút ra kết luận: trong bài thơ này [và cả một số bài thơ Đường khác nữa], hai câu đầu [hoặc nửa trên] thường thiên về tả cảnh [trong cảnh có tình], ngược lại hai câu sau thiên về tả tình [trong tình có cảnh].

2. Về phép đối trong bài thơ:

a] Bài thơ được làm theo hình thức cổ thể ngũ ngôn tuyệt cú. Cái tự do của hình thức thể hiện [so với Đường luật thì cổ thể không bị những quy tắc chặt chẽ về niêm, luật và đối ràng buộc] tỏ ra rất có hiệu quả khi diễn đạt mạch cảm xúc tự nhiên. Tuy thế, tác giả cũng đã sử dụng phép đối rất đắc địa ở hai câu cuối: Ngẩng đầu / Cúi đầu, nhìn trăng sáng / nhớ cố hương. Nguyên tác cho thấy đây là cặp đối rất chỉnh, về mặt từ loại: động từ / động từ [cử đầu / đê đầu, vọng / tư], tính từ / tính từ [minh / cố], danh từ / danh từ [nguyệt / hương].

b] Về mặt ý nghĩa, cặp đối tạo thành sự sóng đôi: Cảnh / tình [trăng / quê hương]. Sự sóng đôi này chính là cấu tứ của bài thơ. Cảnh gợi tình, trăng gợi nhớ quê hương, rồi đến lúc con người chìm đắm trong nỗi nhớ, trăng thấm đẫm vào hồn. Cái cúi đầu như lặng lẽ, như buồn tủi...

3. Bài thơ ngắn chỉ gồm hai mươi chữ mà có tới 5 động từ: nghi [ngỡ], cử [ngẩng], vọng [nhìn], đê [cúi] và tư [nhớ]. Thực ra nếu theo dõi thứ tự của bốn động từ này, chúng ta có thể nhận ra mạch cảm xúc của bài thơ. Bốn động từ đều bị lược đi chủ thể hành động nhưng có thể dễ dàng khẳng định, chủ thể trữ tình, chủ thể hành động ở đây chính là tác giả. Năm động từ tạo thành một mạch cảm xúc vận động rất nhanh, có thể hiện thực hoá lại bằng văn xuôi như sau: nhân vật trữ tình [nhà thơ] tỉnh dậy [hoặc đang mơ màng ngủ] thì nhận ra ánh sáng đang lọt qua khe cửa, ngỡ ngàng vì không biết là sương hay là trăng, nhà thơ ngẩng lên như là một hành động để mà xác nhận. Nhưng rồi chính cái khoảnh khắc ngẩng đầu kia lại gợi về trong lòng tác giả nỗi niềm của người xa xứ. Hành động cúi đầu như là đang cố nén đi cái cảm xúc mãnh liệt đang trào dâng.

Tĩnh dạ tứ với những từ ngữ giản dị mà tinh luyện. Bài thơ đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà trong đêm trăng thanh tĩnh.

III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG

1. Cánh đọc

Bài thơ có nhịp 2/3, ngoài ra còn phải chú ý đến phép đối trong hai câu 3 và 4. Cần đọc nhẹ nhàng nhưng rành mạch, thể hiện được tình cảm nhớ quê nhà của tác giả.

2. Có người đã dịch Tĩnh dạ tứ thành hai câu thơ:

Đêm thu trăng sáng như gương,
Lí Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà.

Hai câu thơ này tuy đã nêu được đầy đủ các ý và tình cảm có trong bài thơ, song vẫn còn có một vài điểm khác, đó là:

  • Lí Bạch không so sánh trăng với sương và trên thực tế, sương chỉ xuất hiện trong cảm giác của nhà thơ.
  • Chủ thể trữ tình của bài thơ không được nhắc đến [nó được ẩn đi và chỉ xuất hiện trong sự suy luận của chúng ta].
  • Bản dịch đã không chuyển tải được năm động từ đã có.

Mời các bạn tham khảo tài liệu liên quan

Dưới đây là bài soạn Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh bản rút gọn nếu bạn muốn xem hãy kích vào đây Soạn văn 7: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh

Ngoài đề cương ôn tập chúng tôi còn sưu tập rất nhiều tài liệu học kì 1 lớp 7 từ tất cả các trường THCS trên toàn quốc của tất cả các môn Toán, Văn, Anh, Lý, Hóa, Sinh. Hy vọng rằng tài liệu lớp 7 này sẽ giúp ích trong việc ôn tập và rèn luyện thêm kiến thức ở nhà. Chúc các bạn học tốt và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới

Soạn văn 7 tập 1 bài 10 [trang 123]

Bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của nhà thơ Lý Bạch nằm trong chương trình Ngữ Văn lớp 7.

Soạn bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh

Hôm nay, Download.vn xin giới thiệu đến bạn đọc bài Soạn văn 7: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh, vô cùng hữu ích trong quá trình chuẩn bị bài.

Soạn văn 7: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh

I. Tác giả

- Lý Bạch [701 - 762] là nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc vào thời nhà Đường. Tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ.

- Quê hương: Cam Túc [huyện Thiên Thủy - tức Lũng Tây ngày xưa].

- Khi cong nhỏ, ông cùng với gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu [Tứ Xuyên] nên nhà thờ vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê hương của mình.

- Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Trung Hoa, ông được người đời gọi là “thi tiên” [tiên thơ].

- Thơ ông thường thể hiện một tâm hồn tự do, hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện.

- Đề tài: thường viết nhiều và viết hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn.

- Một số tác phẩm tiêu biểu:

  • Tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp: Cổ phong, Quan san nguyệt...
  • Cảm thông cho người chinh phụ: Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca…
  • Tình bạn: Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu…
  • Tình yêu đôi lứa: Oán tình, Xuân tứ…
  • Tình cảm với quê hương: Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn…
  • Đặc biệt là thơ về tửu [rượu]: Đối tửu, Thương tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt…

II. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Trong thơ Lý Bạch, hình ảnh ánh trăng thường xuất hiện rất nhiều và đa dạng, ý nghĩa vô cùng phong phú.

- Chủ đề của bài thơ: “Vọng nguyệt hoài hương” [Trông trăng nhớ quê], cách thể hiện rất giản dị mà độc đáo.

- Thuở nhỏ, ông thường lên đỉnh núi Nga Mi ở quê ngắm trăng. Từ năm 25 tuổi, ông phải xa quê nên mỗi lần nhìn thấy ánh trăng là nhà thơ lại nhớ tới quê hương.

- Lý Bạch sáng tác bài thơ trên khi ông đang ở rất xa quê hương của mình.

2. Thể thơ

- Bài thơ được viết theo hình thức cổ thể - một thể thơ trong đó mỗi câu thường có 5 hoặc 7 chữ, không chịu ảnh hưởng bởi những quy tắc niêm luật và đối.

- Ngũ ngôn cổ thể [4 câu, mỗi câu 5 chữ].

3. Bố cục

Gồm 2 phần:

  • Phần 1. 2 câu đầu: Hình ảnh ánh trăng trong đêm thanh tĩnh.
  • Phần 2. 2 câu cuối. Nỗi nhớ quê hương của tác giả.

III. Đọc hiểu văn bản

1. 2 câu đầu: Hình ảnh ánh trăng trong đêm thanh tĩnh

Hình ảnh ánh trăng được miêu tả qua:

- Các từ “minh ”, “quang”, “sương”: Ánh trăng trong đêm rất sáng và mở ảo, chiếu xuống mà nhìn là dưới mặt đất đất đang phủ một làn sương mờ ảo.

- Từ “sàng” [giường]: Giúp người đọc nhận biết được vị trí ngắm trăng của nhà thơ. Ánh trăng xuyên qua khe cửa, chiếu xuống đầu giường chứng tỏ trăng đêm rất sáng và trời cũng đã khuya rồi. Nhưng lúc này, nhà thơ vẫn còn thức để ngắm trăng - chứng tỏ tâm trạng thao thức, băn khoăn của nhà thơ.

- Từ “nghi” và từ “sương” cùng xuất hiện bổ xung ý nghĩa cho nhau:

  • “nghi” nghĩa là tưởng như, ngờ như, dường như
  • “sương”: chỉ màn sương đêm trắng mịt mờ, khiến cảnh vật mờ ảo.

=> Ánh trăng chiếu xuống vạn vật trong đêm tối mờ ảo khiến cho nhà thơ không phân biệt được đâu là trăng đâu là màn sương đêm.

- Tâm trạng của nhà thơ:

  • Đầy ngạc nhiên trước vẻ đẹp của ánh trăng.
  • Hình ảnh ánh trăng trong con mắt nhà thơ mờ ảo: gợi ra hình ảnh Lý Bạch vừa uống rượu vừa thưởng trăng.
  • Thể hiện tâm trạng bâng khuâng và nhớ nhung.

=> Hai câu đầu khắc họa hình ảnh đêm trăng đầy thơ mộng.

2. 2 câu cuối. Nỗi nhớ quê hương của tác giả

- Từ “vọng” được hiểu theo hai cách:

  • Nhìn ra xa - hành động ngắm trăng của nhà thơ.
  • Ngóng trông, nhìn về quê hương ở phía xa.

=> Từ vọng đã diễn tả nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.

- Lý Bạch đã xây dựng hai hình ảnh đối lập: “cử đầu” - “đê đầu” [ngẩng đầu - cúi đầu] giúp cho câu thơ trở nên đăng đối nhịp nhàng:

  • Ngẩng đầu: Nhìn về phía ánh trăng đang chiếu sáng khắp mặt đất, cả quê hương của nhà thơ.
  • Cúi đầu: Nhớ về quê cũ, nhà thơ đang tự nhìn vào nội tâm mình - tự đối mặt với nỗi nhớ quê hương da diết.

- Tình cảm của nhân vật trữ tình được bộc lộ trực tiếp qua từ “tư” [nhớ]: nỗi nhớ quê hương sâu đậm.

=> Hai câu sau khắc họa tình cảm nhớ thương của nhân vật trữ tình dành cho quê hương.

Tổng kết: 

- Nội dung: Bài thơ đã thể hiện tình yêu quê hương cùng nỗi nhớ da diết của một người sống xa quê trong đêm trăng thanh tĩnh.

- Nghệ thuật: Thể thơ ngũ ngôn cổ thể, hình ảnh giản dị mà tinh tế…

Soạn văn Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh ngắn gọn

I. Trả lời câu hỏi

Câu 1. Có người cho rằng trong bài Tĩnh dạ tứ, hai câu đầu thuần túy tả cảnh, hai câu cuối là thuần túy tả tình. Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?

* Ý kiến: Không tán thành.

* Lý do:

- Nội dung chính của hai câu đầu là miêu tả ánh trăng trong đêm. Nhưng qua đó, người đọc vẫn thấy được tâm trạng của nhân vật trữ tình:

  • Đầy ngạc nhiên trước vẻ đẹp của ánh trăng.
  • Hình ảnh ánh trăng trong con mắt nhà thơ mờ ảo: gợi ra hình ảnh Lý Bạch vừa uống rượu vừa thưởng trăng.
  • Thể hiện tâm trạng bâng khuâng và nhớ nhung của tác giả.

- Trong hai câu cuối không chỉ bộc lộ tình cảm của nhà thơ mà vẫn miêu tả hình ảnh ánh trăng [ngẩng đầu nhìn trăng sáng].

Câu 2. Tuy không phải là một bài thơ đường luật nhưng “Tĩnh dạ tứ” cũng sử dụng phép đối:

a. So sánh về mặt từ loại: Cùng loại: động từ [ngẩng đầu - cúi đầu] và danh từ [trăng - quê hương], tính từ [sáng - cũ].

b. Tác dụng: Tạo sự đăng đối trong hành động, góp phần diễn tả tâm trạng của nhà thơ.

Câu 3. Dựa vào bốn động từ nghi [ngỡ là], cử [ngẩng], đê [cúi] và tư [nhớ] để chỉ ra sự thống nhất, liền mạch của suy tư, cảm xúc trong bài thơ.

- Bốn động từ cho thấy mạch suy tư, cảm xúc của nhà thơ: Khi bắt gặp ánh trăng, nhà thơ cứ ngỡ đó là màn sương đêm. Rồi ngẩng đầu nhìn lên mới nhận ra đó là trăng chứ không phải sương, để rồi ánh trăng khiến nhà thơ nhớ đến quê hương. Và hành động cuối cùng là cúi xuống giống như là đang kìm nén cảm xúc đang trào dâng trong lòng.

=> Hành động gắn liền với tâm trạng của tác giả, góp dẫn diễn tả nỗi nhớ quê hương sâu sắc.

II. Luyện tập

Có người dịch Tĩnh dạ tứ thành hai câu thơ:

Đêm thu trăng sáng như sương
Lý Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà

Dựa vào những điều phân tích ở trên, em hãy nhận xét về hai câu thơ dịch ấy. Nếu có thể, thử dịch thành bốn câu thơ theo nguyên thể hoặc theo thể lục bát.

- Nhận xét: Hai câu thơ trên đã diễn tả được nội dung chính của bài thơ Tĩnh Dạ Tứ của Lý Bạch: Hình ảnh ánh trăng và nỗi nhớ quê hương.

- Gợi ý dịch:

Đầu giường ánh trăng sáng rọiCứ ngỡ rằng mặt đất đang phủ sươngNgẩng đầu lên thấy trăng sáng

Cúi đầu ngậm ngùi nhớ về quê xưa.

Soạn bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh - Mẫu 2

I. Trả lời câu hỏi

Câu 1. Có người cho rằng trong bài Tĩnh dạ tứ, hai câu đầu thuần túy tả cảnh, hai câu cuối là thuần túy tả tình. Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?

Ý kiến trên là chưa đúng. Nguyên nhân:

- Nội dung chính của hai câu đầu là miêu tả ánh trăng trong đêm. Nhưng qua đó, người đọc vẫn thấy được tâm trạng của nhân vật trữ tình:

  • Đầy ngạc nhiên trước vẻ đẹp của ánh trăng.
  • Hình ảnh ánh trăng trong con mắt nhà thơ mờ ảo: gợi ra hình ảnh Lý Bạch vừa uống rượu vừa thưởng trăng.
  • Thể hiện tâm trạng bâng khuâng và nhớ nhung của tác giả.

- Trong hai câu cuối không chỉ bộc lộ tình cảm của nhà thơ mà vẫn miêu tả hình ảnh ánh trăng [ngẩng đầu nhìn trăng sáng].

Câu 2. Tuy không phải là một bài thơ đường luật nhưng “Tĩnh dạ tứ” cũng sử dụng phép đối:

a. So sánh về mặt từ loại: Cùng loại: động từ [ngẩng đầu - cúi đầu] và danh từ [trăng - quê hương], tính từ [sáng - cũ].

b. Tác dụng: Tạo sự đăng đối trong hành động, góp phần diễn tả tâm trạng của nhà thơ.

Câu 3. Dựa vào bốn động từ nghi [ngỡ là], cử [ngẩng], đê [cúi] và tư [nhớ] để chỉ ra sự thống nhất, liền mạch của suy tư, cảm xúc trong bài thơ.

Bốn động từ nghi [ngỡ là], cử [ngẩng], đê [cúi] và tư [nhớ]: cho thấy mạch suy tư, cảm xúc của nhà thơ: Khi bắt gặp ánh trăng, nhà thơ cứ ngỡ đó là màn sương đêm. Rồi ngẩng đầu nhìn lên mới nhận ra đó là trăng chứ không phải sương, để rồi ánh trăng khiến nhà thơ nhớ đến quê hương. Và hành động cuối cùng là cúi xuống giống như là đang kìm nén cảm xúc đang trào dâng trong lòng.

=> Hành động gắn liền với tâm trạng của tác giả, góp dẫn diễn tả nỗi nhớ quê hương sâu sắc.

II. Luyện tập

Có người dịch Tĩnh dạ tứ thành hai câu thơ:

Đêm thu trăng sáng như sương
Lý Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà

Dựa vào những điều phân tích ở trên, em hãy nhận xét về hai câu thơ dịch ấy. Nếu có thể, thử dịch thành bốn câu thơ theo nguyên thể hoặc theo thể lục bát.

Hai câu thơ trên đã diễn tả được nội dung chính của bài thơ Tĩnh Dạ Tứ của Lý Bạch: Hình ảnh ánh trăng và nỗi nhớ quê hương.

Cách dịch:

Đầu giường ánh trăng sáng rọi Cứ ngỡ rằng mặt đất đang phủ sương Ngẩng đầu lên thấy trăng sáng

Cúi đầu ngậm ngùi nhớ về quê xưa.

Cập nhật: 21/10/2021

Video liên quan

Video liên quan

Chủ đề