Vì sao hồ chí minh khẳng định: công, nông là “gốc”, là lực lượng nòng cốt của cách mạng?

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của nông dân trong cách mạng Việt Nam

Đọc bài Lưu

Thực hiện chủ trương của Ban Bí thư Trung ương tại Văn bản số 7681-CV/VPTW ngày 14/4/2014 của Văn phòng Trung ương Đảng, công trình Tượng đài Bác Hồ với nông dân Việt Nam tại Quảng trường Thái Bình, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã được đầu tư xây dựng và hoàn thành. Đây là công trình trọng điểm của tỉnh Thái Bình, được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Tỉnh ủy, UBND tỉnh đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện, nhằm giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, khắc ghi tình cảm của Bác Hồ với giai cấp nông dân Việt Nam và sự tôn kính của nông dân Việt Nam nói chung và nhân dân Thái Bình nói riêng đối với Bác.

Được sự đồng ý của Đảng, Nhà nước, Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh Thái Bình tổ chức lễ khánh thành công trình Tượng đài Bác Hồ với nông dân Việt Nam từ 19 giờ 40 phút đến 21 giờ 40 phút ngày 12/12/2020 tại Quảng trường Thái Bình, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

Vì sao hồ chí minh khẳng định: công, nông là gốc”, là lực lượng nòng cốt của cách mạng?

Nhân dân Thái Bình phấn khởi chào đón Bác Hồ về thăm ngày 1/1/1967. Ảnh tư liệu

Sinh ra trong một gia đình nhà nho nguồn gốc nông dân, từ nhỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tham gia lao động sản xuấtcùng cha, đã từng chịu đựng gian khổ mất mát và thấu hiểu cái cảnh khổ cực của đồng bào, sau này Người nói: “Tôi tuy con nhà khoa bảng nhưng gốc nông dân”. Tuổi thơ của Người gắn liền với những người nông dân quanh năm vất vả, lại chịu dưới hai tầng áp bức của phong kiến, thực dân nên cuộc sống cơ hàn, đói rách. Lớn lên, hiểu biết hơn, Người đã đứng về phía nông dân mà chống lại chế độ thực dân phong kiến. Năm 1908, Người đã tham gia cuộc biểu tình của nông dân 6 huyện Thừa Thiên - Huế đòi chính quyền thực dân, phong kiến giảm sưu, giảm thuế, do bị mất mùa liên tiếp trong ba năm.

Năm 1911, khi bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành luôn nghĩ đến một mục đích rất cụ thể: Làm sao xây dựng một xã hội mới, mà ở đó con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Năm 1920, khi bắt gặp Luận cương lần thứ nhất của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã vui mừng đến phát khóc: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta. Đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Người đã nhận ra rằng, cách mạng Việt Nam muốn thành công, phải theo đường lối cách mạng vô sản, thực hiện giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp để đi tới xã hội cộng sản. Trong cuộc cách mạng này, phải: “Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo. Mở mang công nghiệp và nông nghiệp”. Hồ Chí Minh cho rằng “Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa số trong dân tộc. Nền tảng của cách mạng dân chủ cũng là nông dân, vì nông dân là lực lượng cách mạng đông nhất chống phong kiến, chống đế quốc”.
Thấu hiểu những hy sinh, mất mát của nông dân nên ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh bãi bỏ thuế khóa bất công của thực dân Pháp, giảm tô 25% và chia ruộng đất của thực dân, phong kiến cho nông dân. Ngày 11/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư cho các điền chủ nông gia Việt Nam: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”.

Nhận thức và đánh giá đúng phong trào của nông dân đối với cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, Người chỉ rõ vị trí, vai trò to lớn nông dân vừa là động lực, vừa là lực lượng đông đảo, nòng cốt, và cũng là đối tượng vận động của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật sự ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân. Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh”. Khi đất nước lầm than, phong trào yêu nước của nông dân là “bà đỡ” cho phong trào công nhân phát triển và là điều kiện thúc đẩy cho Đảng ra đời. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp nông dân là lực lượng chủ yếu cùng với các giai cấp khác đấu tranh giành chính quyền, bảo vệ Đảng, bảo vệ độc lập dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành nhiều sự quan tâm đến nông dân. Người luôn luôn trăn trở, lo lắng đến cuộc sống của người nông dân, “những người đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến”. Chỉ thống kê trong 10 năm, từ 1955 - 1965, Người đã có 700 chuyến đi xuống cơ sở, trong đó, có nhiều chuyến đi thăm bà con nông dân các địa phương. Người đắp guồng chống úng, cầm gầu tát nước chống hạn với dân, lội ruộng thồ máy cấy lúa... Người quan tâm sâu sát, cụ thể đến mọi công việc của nhà nông. Những cuộc đi thăm này không phải là hình thức mà rất cần thiết với Người. Người muốn biết đồng bào, đồng chí, người dân ăn, ở, làm việc, học tập, sản xuất và chiến đấu như thế nào, để có sự quan tâm, chỉ đạo cho thiết thực, đây là cuộc sống, là tình cảm thiết tha của Người.

Tư tưởng, tình cảm, sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nông dân còn thể hiện trong nhiều bài viết về nông dân, nông nghiệp, bài nói chuyện khi đi thăm các địa phương, nhắc nhở chỉ đạo, khen thưởng, các bài báo khen chê, biểu dương thành tích, phê bình những việc làm chưa tốt, đặc biệt là những bài báo phản biện những kinh nghiệm, kiến thức về nông nghiệp mà Người học hỏi được trong các chuyến đi thăm trong nước, nước ngoài, hoặc qua sách, báo, đài...
Từ tình cảm đặc biệt dành cho nông dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh to lớn và vị trí cực kỳ quan trọng của người nông dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Vì vậy, trong bản “Báo cáo tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba, khóa II, một lần nữa Người đã khẳng định: “Giai cấp nông dân: Nông dân là tối đại đa số trong Nhân dân nước ta là bộ phận chủ chốt trong đội ngũ cách mạng, là giai cấp đóng góp nhiều nhất trong kháng chiến”. Và “Giai cấp nông dân chủ chốt là bần nông và trung nông là quân đội chủ lực của kháng chiến và của cách mạng dân chủ mới... Cách mạng ta hiện nay là chống đế quốc, chống phong kiến. Nông dân là lớp người đông nhất trong Nhân dân, cho nên họ là quân chủ lực của cách mạng”.

Tháng 01/1953, trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định những đóng góp to lớn của giai cấp nông dân đối với sự nghiệp cách mạng: “Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa số trong dân tộc. Nền tảng của cách mạng dân chủ cũng là nông dân, vì nông dân là lực lượng cách mạng đông nhất chống phong kiến, chống đế quốc”. Xác định vị trí, vai trò quan trọng của nông dân trong cách mạng, Người cho rằng chỉ lo “cơm ăn, áo mặc” cho họ thì chưa đủ, mà phải nâng cao dân trí cho họ, như thế họ mới được hưởng trọn vẹn độc lập, tự do. Người xem đói và rét đều là giặc, phải diệt giặc đói, diệt giặc dốt, bởi vì “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Quan trọng hơn, việc mang lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định là một trong hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam.

Không chỉ nhận thức và khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của nông dân đối với cách mạng và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Người còn chỉ rõ vị trí, vai trò của nông dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng ở nông thôn. Trong báo cáo trước Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư, khóa II, Người khẳng định: “Chính phủ quyết định phải triệt để giảm tô, để nông dân được hưởng lợi ích bước đầu của họ, để nông dân hăng hái đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến”. Và Người chỉ thị “Chính phủ định ra luật lệ cải cách ruộng đất, Đảng phái cán bộ về xã giúp đồng bào nông dân đấu tranh thực hiện Người cày có ruộng. Đó là bước đầu”. Từ đó, Người chỉ rõ trách nhiệm của người nông dân là “đã có ruộng, nông dân cần phải ra sức tăng gia sản xuất, để bảo đảm đời sống ấm no”. Người cũng xác định trách nhiệm của Đảng và Chính phủ: “Đảng và Chính phủ cũng sẽ giúp thêm, như thu mua lâm sản và thổ sản cho nông dân, giúp thêm cán bộ, cho vay vốn”. Nhưng vẫn lưu ý nhắc nhở “các cô, các chú chớ có ỷ lại, phải cố gắng tự lực cánh sinh là chính, việc giúp đỡ là phụ”.

Và trong Thư gửi Hội nghị nông vận và dân vận toàn quốc ngày 5/2/1953, Người đã viết: “Nông dân lao động là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất chắc chắn của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công ắt phải dựa vào quần chúng nông dân. Muốn dựa vào nông dân ắt phải bồi dưỡng lực lượng của họ. Muốn nông dân có lực lượng dồi dào thì phải làm cho họ có ruộng cày, có cơm ăn, áo mặc, nhà ở”. Như vậy, theo Người nhận thức đúng, đường lối, phương châm đúng là chưa đủ mà vấn đề quan trọng là để nông dân phát huy được vai trò, sức mạnh của mình.

Sau khi miền Bắc được giải phóng, từng bước xây dựng cơ sở vật chất để lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục đặt niềm tin vào giai cấp nông dân trong cuộc cách mạng này: “Nông dân ta đã anh hùng trong cách mạng, trong kháng chiến, trong cải cách ruộng đất, thì trong cuộc cách mạng biến đổi nông nghiệp từ thấp lên cao này nông dân ta cũng phải là anh hùng”. Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III, ngày 22/7/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, tất cả đường lối, phương châm, chính sách... của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của Nhân dân nói chung, của nông dân nói riêng. Muốn đạt mục đích đó thì nhất định phải củng cố và phát triển hợp tác xã cho thật tốt, phải nâng cao không ngừng thu nhập của xã viên. Người cũng đã chỉ rõ quá trình, bước đi để xây dựng “nông thôn mới” thiết thực, có hiệu quả, đó là phải xây dựng cơ sở vật chất cho người nông dân để họ ổn định và có điều kiện tăng gia sản xuất, trước hết là “nhà ở”. Người cho rằng muốn xây dựng nông thôn mới thì việc đầu tiên của nông thôn mới là xây dựng nhà ở cho đàng hoàng vì an cư thì mới lạc nghiệp.

Trước lúc đi xa, người để lại muôn vàn tình thương yêu cho đồng chí, đồng bào cả nước. Trong bản Di chúc, Người đã dành cho nông dân tình cảm gần gũi, thân thiết khi dùng cụm từ “đồng bào nông dân” để tuyên dương công lao to lớn và lòng trung thành vô hạn của họ đối với Đảng và Chính phủ trong hai cuộc kháng chiến. Căn dặn miễn thuế nông nghiệp cho nông dân, Người viết: “Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ. Khi ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”. Ước nguyện này tiếp tục thể hiện nhận thức đúng đắn của Người về vai trò quan trọng của nông dân trong sự nghiệp đấu tranh của dân tộc và vai trò của nông dân nông nghiệp đối với nền kinh tế nước nhà. Đồng thời cũng khẳng định sự quan tâm, tình cảm thân thiết của Người đối với “đồng bào nông dân”.

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nông dân là những chỉ dẫn quan trọng để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của dân tộc, từ cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc năm 1945 đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975) cũng như công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy


Nguồn:sovhttdl.thaibinh.gov.vn Copy link
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng lực lượng nòng cốt cho khối đại đoàn kết dân tộc

Ngày đăng: 04/11/2017 03:02
Mặc định Cỡ chữ
Vì sao hồ chí minh khẳng định: công, nông là gốc”, là lực lượng nòng cốt của cách mạng?
Vì sao hồ chí minh khẳng định: công, nông là gốc”, là lực lượng nòng cốt của cách mạng?

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người trực tiếp tổ chức và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất để quy tụ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Người luôn nhận thức sâu sắc và trung thành với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng; vận dụng, bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tập hợp lực lượng cách mạng, trong đó sáng tạo nổi bật là lấy liên minh công – nông – trí làm lực lượng nòng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tạo ra sức mạnh đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Vì sao hồ chí minh khẳng định: công, nông là gốc”, là lực lượng nòng cốt của cách mạng?
Bác Hồ với đồng bào các dân tộc.

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng khối liên minh công – nông trong sự nghiệp cách mạng

Xuất phát từ thực tế cách mạng ở châu Âu, C.Mác đã nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về chủ nghĩa tư bản trong điều kiện tự do cạnh tranh, từ đó cống hiến cho nhân loại những phát minh vĩ đại bằng học thuyết của mình từ lý luận về “hình thái kinh tế - xã hội” đến học thuyết “giá trị thặng dư”; đặc biệt vào tháng 2/1848 với sự ra đời Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã vạch trần bản chất bóc lột của giai cấp tư sản và khẳng định sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản mà lực lượng làm nên lịch sử là giai cấp công nhân.

Tổng kết thực tiễn phong trào công nhân ở châu Âu, nhất là ở Anh, Pháp cuối thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát thành lý luận về liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác. Các ông đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của thất bại trong các cuộc đấu tranh là do giai cấp công nhân không tổ chức được mối liên minh với người bạn đồng minh tự nhiên của mình là giai cấp nông dân. Ph.Ăngghen đã khẳng định: cách mạng vô sản là bài đồng ca của hai giai cấp công nhân và nông dân. Nếu không có bài đồng ca này thì bài đơn ca ở các quốc gia nông dân sẽ là bài ai điếu. Điều đó đã lý giải một cách khoa học về vị trí và tầm quan trọng của vấn đề liên minh công nông trong cách mạng vô sản.

Như vậy, từ lý luận và thực tiễn của phong trào công nhân, trực tiếp nhất là qua cách mạng Đức và Công xã Pari năm 1871, C.Mác và Ph.Ăngghen đều khẳng định: cuộc cách mạng vô sản hay phong trào công nhân không thể giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ tư bản nếu không có khối liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, trong đó giai cấp công nhân đóng vai trò lãnh đạo. Điều đó cho thấy các ông đã nhận thức được sự cần thiết phải có sự đoàn kết, liên minh để tạo sức mạnh đủ lớn trong cách mạng vô sản, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc liên kết giữa 2 giai cấp công – nông.

Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh và chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, V.I. Lênin đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về tổ chức liên minh công - nông và các tầng lớp lao động khác một cách khoa học phù hợp với tình hình thực tế trong Cách mạng XHCN tháng Mười Nga (1917) với phương châm: Hãy cho tôi một tổ chức, tôi sẽ làm đảo lộn cả nước Nga nhằm biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng. Lênin cho rằng, liên minh công - nông là hai lực lượng chủ công của chính quyền Xô-viết.

Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không chỉ có liên minh công - nông mà còn liên minh với các tầng lớp lao động khác. Đặc biệt đối với các nước thuộc địa, tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội thì đây chính là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yêu cầu khách quan từ các giai cấp, tầng lớp để tổ chức thành liên minh vững chắc, Đó không chỉ là điều kiện để đưa cách mạng đến thắng lợi mà đồng thời còn làm gia tăng sự đoàn kết để “không có thế lực nào phá vỡ nổi”.

Tuy có đề cập đến các giai cấp, tầng lớp khác ngoài công nhân và nông dân, song tầng lớp trí thức vẫn chưa được xác định là lực lượng nòng cốt nên chưa được nhấn mạnh và coi trọng. Điều này có lẽ do điều kiện lịch sử của xã hội nước Nga Xô-viết lúc bấy giờ khiến V.I.Lênin và Đảng Bôn-sê-vích nhận thức là chỉ có những lực lượng trực tiếp tham gia lao động sản xuất đông đảo nhất trong xã hội mới có thể tạo ra một liên minh vững chắc làm nòng cốt cho khối đoàn kết toàn dân. Mặt khác, có thể do mặt bằng dân trí, trình độ nhận thức, ý thức tổ chức kỷ luật… của công – nông ở nước Nga Xô-viết đã khá cao nên vai trò của trí thức không được thể hiện rõ.

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng khối liên minh công - nông - trí trong sự nghiệp cách mạng

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “trí thức là hiểu biết”(1), “trí thức ta là những người lao động trí óc, luôn luôn hòa mình với công nông và cùng công nông ra sức xây dựng xã hội mới”(2), “Lao động trí óc là ai? Là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học, văn nghệ, những người làm bàn giấy.v.v…”(3). Như vậy, trí thức là hiểu biết, là những người lao động trí óc (khoa học tự nhiên và khoa học xã hội) đem hiểu biết của mình truyền thụ, phổ biến, hướng dẫn cho mọi người trong xã hội cùng hiểu biết và phát triển.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, thắng lợi của cách mạng là do sự phấn đấu, hy sinh và trí thông minh, sáng tạo của hàng triệu nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và những người trí thức cách mạng”(4), nhân dân là động lực chủ yếu của cách mạng... Vì thế, ngay trong tác phẩm Đường Kách mệnh, mặc dù xác định “Dân chúng công nông là gốc cách mệnh”(5) trong đó công nhân giữ vai trò lãnh đạo, song trong tiến trình cách mạng, dù ở thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc hay cách mạng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nhận thức rõ vị trí, vai trò của tầng lớp trí thức cách mạng và xác định xây dựng liên minh công – nông – trí thành lực lượng nòng cốt cho khối đại đoàn kết dân tộc, tạo động lực cơ bản cho cách mạng.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trí thức là “vốn liếng quý báu của dân tộc”. Tiếp thu truyền thống của dân tộc Việt Nam coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ sức mạnh vô tận của trí tuệ con người và sức mạnh lớn lao của một dân tộc giàu tri thức. Người nhận thấy, trí thức không phải là một giai cấp, họ chỉ là một tầng lớp có số lượng khiêm tốn trong xã hội Việt Nam (đầu thế kỉ XX), nhưng luôn đi đầu, là ngòi nổ trong phong trào đấu tranh đòi độc lập, đòi quyền dân tộc, dân chủ. Trí thức cũng là những người luôn đi tiên phong trong việc tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại, đón nhận những luồng tư tưởng mới, tiến bộ để từ đó tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân.

Trong Mười chính sách của Việt Minh và Kính cáo đồng bào (1941), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa các bậc Hiền huynh, các Hiền nhân chí sĩ lên hàng đầu. Người coi trí thức là lớp tiên tri, tiên giác. Sau khi giành độc lập, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc (1946), Người khẳng định: “Một phần tương lai của dân tộc” nằm trong sự cố gắng, sự đóng góp của anh chị em trí thức. Người “tin rằng, với kinh nghiệm, với học thức, với sự quyết tâm” của những trí thức cách mạng thì “việc kháng chiến nhất định thành công và nền tự do, độc lập nhất định vững vàng”(6).

Năm 1946, trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, khi trả lời câu hỏi của một nhà báo nước ngoài về vấn đề trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”(7). Tại Đại hội II của Đảng (2/1951), vị trí, vai trò của trí thức được thể hiện rõ hơn khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra quan điểm: “Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam”; “Về thành phần, Đảng Lao động Việt Nam sẽ kết nạp những công nhân, nông dân, lao động trí óc thật hăng hái, thật giác ngộ cách mạng”(8) “Lao động trí óc” ở đây là cái nền, mà cái lõi là đội ngũ (tầng lớp) trí thức.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trí thức là bộ phận quan trọng trong lực lượng cách mạng.

Người đã nhận rõ sự khác biệt giữa trí thức tại các nước thuộc địa, nửa thuộc địa hay các dân tộc bị áp bức với các nước tư bản đế quốc. Trí thức Việt Nam “dù là trí thức một số khá đông thuộc thành phần phú nông, địa chủ, phong kiến, tư sản mà ra nhưng cũng đều bị đế quốc áp bức”(9). Sự áp bức của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam, trong đó bao gồm cả giới trí thức đã được Người tố cáo một cách đanh thép: “Tất cả những người trí thức nào có đôi chút tiếng tăm đều bị đưa đi đày. Tất cả các trường tư thục đều bị đóng cửa và tất cả các sách báo nước ngoài đều bị cấm”(10).

Là những người có học thức, hiểu biết, trí thức Việt Nam rất nhạy bén với cái mới, với những tư tưởng tiến bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra hai yếu tố tích cực của trí thức Việt Nam: “Có đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng”(11). Người nhận xét, trí thức “có học thức, dễ có cảm giác chính trị. Họ không trực tiếp bóc lột lao động. Vì vậy, họ dễ tiếp thụ sự giáo dục cách mạng và cùng đi với công nông”(12). Trong tâm thức của mỗi trí thức Việt Nam luôn luôn có ý thức và tình cảm sâu sắc với dân tộc. Đối với họ, dân tộc chính là cái nôi sinh thành và nuôi dưỡng lý trí, tình cảm, tinh thần và trí tuệ, tài năng của mình. Với thế mạnh là nhạy bén về chính trị, những người trí thức Việt Nam nhận thấy rõ tình cảnh của dân tộc và chính bản thân mình. Họ cảm thấy nô lệ, mất nước là “quốc sỉ” và mong muốn tìm lối thoát.

Sự nhạy bén về chính trị và tinh thần cách mạng của trí thức được biểu hiện qua sự ra đời, tồn tại và phát triển nhanh chóng của những tổ chức chính trị của sinh viên, trí thức (phần lớn trong số họ sau này trở thành những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam), mà Nguyễn Ái Quốc đã nhắc đến trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 5/3/1930: Bên cạnh Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, còn có ba nhóm chính trị: nhóm thanh niên ở Nam Kỳ, Tân Việt ở Trung Kỳ và An Nam quốc dân Đảng ở Bắc Kỳ. Nhóm thứ nhất gồm phần lớn là thanh niên, sinh viên; nhóm thứ hai là trí thức; nhóm thứ ba là tiểu tư sản.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ, trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, trí thức Việt Nam đã đi tiên phong tham gia cách mạng. Họ chính là lực lượng đi đầu trong việc tiếp thu tư tưởng cách mạng tiến bộ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tích cực truyền bá trong quần chúng nhân dân và hăng hái tham gia vào các tổ chức cách mạng - tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của trí thức Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN, khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trước yêu cầu phải có một đường lối chính trị rõ ràng, phải phân định rõ chiến tuyến giữa cách mạng và phản cách mạng, Hồ Chí Minh đã xếp trí thức vào hàng ngũ lực lượng cách mạng của dân tộc do giai cấp vô sản lãnh đạo, là một trong những đồng minh gần gũi của giai cấp công nhân và nông dân. Người khẳng định một cách dứt khoát trong những văn kiện đầu tiên mang tính cương lĩnh của Đảng. Trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Người viết: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp” (13). Chương trình tóm tắt của Đảng viết: “Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản”(14). Việc xác định ngay từ rất sớm vị trí của trí thức trong lực lượng cách mạng đã góp phần cô lập kẻ thù, đưa tầng lớp trí thức về phía cách mạng, tăng cường sức mạnh lớn lao cho cách mạng và vấn đề mang tính chất chiến lược này được khẳng định xuyên suốt trong các giai đoạn cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Cuộc cách mạng mà Hồ Chủ tịch, Đảng và nhân dân ta tiến hành là một cuộc cách mạng vô cùng khó khăn, gian khổ với những nhiệm vụ rất lớn lao. Đó là đánh đuổi đế quốc thực dân, đánh đổ phong kiến, đòi lại tự do, độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Những nhiệm vụ ấy được thực hiện khi ở Việt Nam có đến 95% dân số mù chữ, nền kinh tế nước ta ở vào tình trạng hết sức lạc hậu, tiêu điều, kiệt quệ, nhân dân hết sức cực khổ, lầm than. Trong hoàn cảnh ấy, nhiệm vụ cách mạng của các giai cấp, của nhân dân Việt Nam càng trở nên nặng nề, trong đó giới trí thức cũng phải đảm nhận nhiều trọng trách lớn hơn, phức tạp hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong công cuộc hoàn thành dân chủ mới để tiến đến chủ nghĩa xã hội”(15). Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trí thức phải tuyên truyền, giáo dục quần chúng những tư tưởng cách mạng, là ngòi nổ cho các phong trào cách mạng, đấu tranh chống lại những luận điệu phản động, mị dân của kẻ thù. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, trí thức phải đi đầu trong việc nâng cao dân trí, xây dựng và kiến thiết nước nhà. Người khẳng định: “Trí thức phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên xã hội chủ nghĩa càng cần, tiến lên cộng sản chủ nghĩa lại càng cần”(16).

Người nhấn mạnh: “Chính là những đảng cách mạng lại càng trọng trí thức: vì muốn phát triển văn hóa thì phải cần thầy giáo, muốn phát triển sức khỏe của nhân dân thì phải cần thầy thuốc, muốn phát triển kỹ nghệ phải cần các kỹ sư.v.v... Tóm lại cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức”(17). Trong mọi lĩnh vực, mọi thời kỳ cách mạng đều rất cần đến học vấn, tài năng và tâm huyết, sức lực của giới trí thức. Đội ngũ trí thức đồng hành cùng dân tộc tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong suốt quá trình cách mạng “Trí thức không có bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí thức thôi”(18).

Từ vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng của đội ngũ trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây là lực lượng cơ bản và đưa họ tham gia vào khối liên minh công – nông – trí để tạo ra thế “chân kiềng” vững chắc làm nòng cốt cho khối đại đoàn kết dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi trong mọi giai đoạn cách mạng “công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”(19). Theo Người, “Tính chất cách mạng của ta là cách mạng dân chủ mới, cho nên động lực cách mạng gồm có những giai cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản”(20). Người nhấn mạnh: “Tuyên ngôn của Đảng nói: "Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao động trí óc yêu nước nhất, hăng hái nhất, cách mạng nhất” và: “Lao động trí óc cần được khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài năng”(21). Khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, giai cấp nông dân là đội quân chủ lực của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xếp tầng lớp tiểu tư sản (trong đó có trí thức) là đồng minh của giai cấp công nhân, là một động lực của cách mạng, là một lực lượng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là chân lý hiển nhiên không chỉ đúng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà còn đúng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Không có tầng lớp trí thức hợp tác với giai cấp công, nông thì cách mạng không thể thành công và sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam mới sẽ không thể hoàn thành được. Thực tế cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng đã chứng minh điều đó là hoàn toàn đúng đắn. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức sẽ khắc phục được mọi khó khăn, trở ngại để đưa cách mạng đến thắng lợi.

Xác định liên minh công - nông - trí thức là nền tảng vững chắc của hệ thống chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Giai cấp công nhân đoàn kết chặt chẽ với giới trí thức, để giúp họ phục vụ cách mạng, phục vụ chủ nghĩa xã hội”(22) và “Trên con đường tiến đến đoàn kết, tôi thiết tưởng trí thức ta nên tự động đi bước trước tìm đến công nông, và tôi chắc rằng công nông sẽ nhiệt liệt hoan nghênh trí thức”(23).

Những trí thức Việt Nam trước Cách mạng tháng 8/1945 hầu hết được đào tạo trong các nhà trường của chế độ thực dân phong kiến hoặc làm việc trong bộ máy của chế độ cũ nên ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng, lề lối làm việc cũ như: lập trường thiếu kiên định, tính kỷ luật chưa cao, xa rời quần chúng... “lý luận không đi đôi với thực hành, xem khinh lao động, tư tưởng mơ hồ, lập trường không vững, khi hành động thì hay lung lay”(24). Để trở thành người lao động chân chính, thành lực lượng quan trọng của cách mạng, thành bộ phận nòng cốt không thể thiếu của khối liên minh công - nông - trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “trí thức ta cần cải tạo tư tưởng, sửa đổi lề lối làm việc”(25). “Mục đích cải tạo là làm cho những người trí thức chúng ta trở thành những người trí thức của giai cấp công nhân, hết lòng hết sức phục vụ công nông, góp phần xứng đáng và vẻ vang vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”(26). Muốn vậy cần phải thực hiện “Công nông trí thức hóa. Trí thức công nông hóa. Nghĩa là công nông cần học tập văn hóa để nâng cao trình độ tri thức của mình, trí thức cần gần gụi công nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và kinh nghiệm của công nông. Đó là nhiệm vụ chung và cần kíp, mà chúng ta phải cùng nhau cố gắng làm cho kỳ được”(27). Theo Người, cần phải đưa trí thức tham gia trực tiếp vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc, để “anh em trí thức cũng biết trọng lao động, cũng biết làm lao động, hợp thành một khối với công nông, nâng cao trình độ công nông về văn hóa lý luận”(28). Từ quan điểm chỉ đạo đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều trí thức đã hăng hái xung phong ra tiền tuyến, trực tiếp vào các nhà máy, ruộng đồng, học tập, lao động, xây dựng ý thức phục vụ công nông, cải tạo tư tưởng, sửa đổi lối làm việc, trở thành những trí thức cách mạng chân chính. Bởi vì, chỉ có gắn bó với công nông, phục vụ, suy tư, trăn trở về những vấn đề có liên quan đến vận mệnh của đất nước, dân tộc, hạnh phúc của nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trí thức mới khẳng định được vai trò, vị trí của mình đối với sự phát triển của đất nước, dân tộc. Đó cũng chính là tiền đề quan trọng để khối liên minh công - nông - trí ngày càng được củng cố bền chặt, tăng cường sức mạnh và thực sự trở thành hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

ThS. Vũ Tuấn -Học viện Kỹ thuật quân sự

--------------------------

Ghi chú:

(1),(7) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr.275, tr.184.

(2) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 13, tr.118.

(3),(8),(15),(21),(25),(27) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 7. tr.71, tr.40, tr.72,tr.71, tr.72, tr.72.

(4) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 14, tr.467.

(5) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 2, tr.297.

(6) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 4, tr.176.

(9),(11),(12),(16),(17),(18),(20),(24),(28) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 8, tr.53, tr.54, tr.258, tr.59, tr.53, tr.56, tr.255, tr.258, tr.57.

(10),(13),(14) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 3, tr.38, tr.3, tr.4.

(19),(23) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 10, tr.376, tr.377.

(22) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 12, tr.371.

(26) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 11, tr.243.

tcnn.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Về những cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh

09/07/2021

NGUYỄN MẠNH TƯỜNG(*)

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi, xuyên suốt tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Nội dung đó được thể hiện không chỉ ở tư tưởng của Người về dân tộc, về quan hệ dân tộc – giai cấp và cách mạng giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; về đại đoàn kết dân tộc; về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về Đảng Cộng sản và xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân mà còn ở tư tưởng đạo đức và văn hoá Hồ Chí Minh.

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991) Đảng Cộng sản Việt Nam đã trịnh trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(1). Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 - 2001), một lần nữa, điều đó lại được Đảng ta khẳng định. Sự khẳng định này đã thể hiện bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lý luận, tư duy chính trị của Đảng ta. Chúng ta có thể coi đó là một quyết định có tầm lịch sử quan trọng, đáp ứng được những nhiệm vụ của thực tiễn đổi mới đất nước đang đặt ra, cũng như tình cảm, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân. Và, trên thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của xã hội ta, trở thành một bộ môn khoa học được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức, trước hết là trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Vì thế, việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách một khoa học, có hệ thống để vận dụng và phát triển sáng tạo vào công cuộc đổi mới đất nước hiện nay là rất cần thiết và cấp bách.

Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm một hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và cách mạng giải phóng dân tộc. Do vậy, trong khuôn khổ của bài báo này, chúng tôi không thể làm sáng tỏ tất cả, mà chỉ tập trung luận chứng cho những tiêu chí cần có để khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học.

Trước hết, chúng ta có thể khẳng định rằng, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh làchủ nghĩa Mác–Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin mà hạt nhân lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin mà Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chuyển hoá được những nhân tố tích cực, tiến bộ của truyền thống dân tộc và của nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Không có chủ nghĩa Mác – Lênin thì cũng không có tư tưởng Hồ Chí Minh sánh ngang tầm thời đại và có khả năng giải quyết được những nhiệm vụ thực tiễn của cách mạng Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin từ chủ nghĩa yêu nước được hình thành với một vốn học vấn uyên thâm, một năng lực trí tuệ sắc sảo nhờ phân tích, tổng kết các phong trào yêu nước chống Pháp từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX; với khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo mà nhờ đó, trong suốt thời gian bôn ba tìm tòi, khảo nghiệm, Người đã hoàn thiện trí tuệ của mình bằng vốn hiểu biết văn hoá, chính trị và thực tiễn cuộc sống phong phú của nhân loại. Khác với các trí thức tư sản phương Tây đến với chủ nghĩa Mác - Lênin chủ yếu như đến với một học thuyết nhằm giải quyết những vấn đề về tư duy hơn là hành động, Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc mình và giải phóng tất cả các dân tộc khác. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin theo phương pháp nhận thức mácxít và theo lối “đắc ý vong ngôn” của phương Đông, nghĩa là cốt nắm lấy cái tinh thần, cái cốt yếu, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp cho cách mạng Việt Nam.

“Tư tưởng Hồ Chí Minhlà một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,...

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(2).

“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”(3). Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam, đem lại thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và cách mạng Việt Nam suốt hơn 70 năm qua và đang soi sáng sự nghiệp đổi mới của chúng ta ngày nay.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm làm rõ những nội dung chủ yếu của tư tưởng ấy, khẳng định giá trị khoa học, ý nghĩa cách mạng của những luận điểm chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là nghiên cứu cách thức Người kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam để trên cơ sở đó, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay. Điều đó cho thấy việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không thể chỉ là sự mô tả giản đơn các sự kiện, các biến cố lịch sử cụ thể, rời rạc về cuộc đời và hoạt động cách mạng của Người, mà cần phải làm rõ lôgíc tư tưởng về quá trình ấy, nghĩa là nghiên cứu nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển từng nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời chỉ ra những giá trị hiện thời của tư tưởng ấy.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác - Lênin và phải nắm vững đối tượng nghiên cứu nhằm phản ánh chân thực quá trình hình thành và phát triển tư tưởng ở Người. Trong quá trình nghiên cứu cần phải nắm vững những quan điểm phương pháp luận của Hồ Chí Minh, như lý luận gắn liền với thực tiễn, quan điểm thống nhất biện chứng giữa lập trường dân tộc với lập trường giai cấp, quan điểm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, thống nhất tính đảng với tính khoa học, toàn diện và phát triển. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, còn cần phải kết hợp phương pháp lịch sử với lôgíc, đồng thời sử dụng các phương pháp khác, như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học, tiếp xúc nhân chứng lịch sử,...

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết cần làm rõ nội dung cốt lõi, chủ yếu, hay vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời là mục tiêu của cách mạng Việt Nam cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai -độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề xuyên suốt sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh, của Đảng ta và của dân tộc Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX cho đến nay. Trong sự thống nhất ấy, học thuyết về chủ nghĩa xã hội được bổ sung thêm cách nhìn từ phía một dân tộc thuộc địa ở phương Đông bị áp bức, bóc lột nhưng tư tưởng về độc lập dân tộc đã vươn lên ngang tầm thời đại, được soi rọi bởi ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lập trường của giai cấp vô sản. Nếu chủ nghĩa Mác - Lênin lấy mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người làm điểm trung tâm, làm động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì tư tưởng Hồ Chí Minh đặt vấn đề giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người và lấy đó làm nguồn lực của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Người đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc, chống đế quốc thực dân, phong kiến lên hàng đầu và xác định trước hết phải giành cho được độc lập dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Hồ Chí Minh xác định, muốn cách mạng thành công thì dân chúng (công nông) là gốc, đồng thời phải có Đảng vững bền, phải đoàn kết và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc cách mạng phải liên hệ chặt chẽ với thế giới cách mạng. Nói tóm lại, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội và người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, có lòng khoan dung, độ lượng, có khí phách kiên cường, không hề run sợ trước sức mạnh của kẻ thù, không sợ phải hy sinh, gian khổ, có niềm tin vững chắc vào sự lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội không chỉ có giá trị đối với cách mạng Việt Nam, mà còn đối với cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới. Độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội đã và đang thấm sâu vào đời sống xã hội; trở thành động lực tinh thần to lớn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay; đồng thời khẳng định quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là xu hướng của thời đại hiện nay, thể hiện khát vọng độc lập trong hòa bình và tự do cũng như sức mạnh trường tồn của dân tộc ta và nhiều dân tộc khác trên thế giới.

Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội đã hàm chứa cả một hệ thống tư tưởng về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng theo con đường cách mạng vô sản.

Dưới đây, chúng tôi xin trình bày một số tư tưởng cơ bản trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.

1. Tư tưởng về vấn đề dân tộc, mối quan hệ dân tộc - giai cấp và cách mạng giải phóng dân tộc.Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề dân tộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Ở đó, có sự kết hợp nhuần nhuyễn lập trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản chất và tổng thể. Nhưng trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai cấp thống nhất với lợi ích dân tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với nhiệm vụ giải phóng dân tộc và do vậy, lợi ích và nhiệm vụ giải phóng giai cấp phải gắn liền với lợi ích và nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Xét đến cùng và trong toàn cục thì cách đặt vấn đề như vậy về dân tộc cũng là vì giai cấp công nhân. Từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp vô sản là bước nhảy vọt căn bản về nhận thức mà Hồ Chí Minh là người đầu tiên thực hiện trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhờ giác ngộ giai cấp mà Người hiểu sâu hơn vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời càng sâu sắc hơn trong giác ngộ dân tộc, xác định và kiên trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp công nhân và dân tộc. Với Người, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân trên nền tảng của liên minh công nông, phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng.

2. Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, nhiều nhà tư tưởng đã không nhận thức được tính tất yếu và sự cần thiết của việc thay đổi xã hội. Thế hệ các nhà yêu nước mà hai cụ Phan là tiêu biểu đã nhận thức được điều đó, song cái ý thức hệ tư sản mà các cụ tiếp thu đã trở nên lạc hậu ở phương Tây. Hồ Chí Minh không chỉ nhận thức được tính tất yếu và sự cần thiết của việc thay đổi xã hội, mà còn tiếp thu được hệ tư tưởng vô sản làm nền tảng cho việc xây dựng một xã hội mới của dân, do dân, vì dân và mang một nội dung nhân văn sâu sắc. Đó là xã hội xã hội chủ nghĩa, vì theo Người, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo vững chắc cho một nền độc lập thật sự và đưa lại hạnh phúc, tự do thật sự cho nhân dân.

Hồ Chí Minh còn nêu lên cách hiểu của mình về chủ nghĩa xã hội, về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, một cách hiểu thật giản dị, phổ cập, nhưng lại rất sâu sắc và thiết thực: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giầu nước mạnh"; “chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dânvà do nhân dân tự xây dựng lấy", "xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc"(4). Người còn nêu ra tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng đối tượng xã hội, như "việc làm cho mọi người", "ốm đau có thuốc chữa", "già yếu thì được nghỉ", "ai cũng được học hành", "những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ",...

Người khẳng định: "Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”. Do vậy, "không thể làm mau được mà phải làm dần dần"(5). Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam, từ những thập niên đầu thế kỷ XX cho đến nay, đã chứng tỏ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đó là hoàn toàn đúng đắn.

3. Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc. Từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn trong phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Tư tưởng về đại đoàn kết của Người đã được phát huy cao độ trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ trong nội bộ Đảng đến toàn thể dân tộc. Người chỉ rõ: Nếu chỉ đoàn kết trong Đảng thì chưa đủ, mà Đảng còn phải đoàn kết xung quanh mình toàn thể dân tộc thì cách mạng mới thành công. Người chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân mà cốt lõi là liên minh công - nông, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không phân biệt ai, miễn là người Việt Nam yêu nước, chống đế quốc, tán thành xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Người viết: “Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽcác tầng lớp nhân dân..., phải đoàn kết tốtcác đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng tiến bộ..., phải đoàn kếtcác dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc..., phải đoàn kết chặt chẽ giữađồng bào lương và đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hoà thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”(6). Hồ Chí Minh hiểu rõ đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế có quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau.

4. Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và trên lập trường giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố liên minh chiến đấu giữa phong trào công nhân chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa nhằm phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Với Người, “Quan sơn muôn dặm một nhà. Bốn phương vô sản đều là anh em”. Mở rộng khối đại đoàn kết quốc tế trên cơ sở của tình hữu ái vô sản, có lý, có tình, Người đã thực hiện quan điểm thêm bầu bạn, bớt kẻ thù. Theo Người, mở rộng khối đoàn kết là tìm thấy những người bạn quốc tế dân chủ và tiến bộ của dân tộc. Có thể nói, tư tưởng về sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính của dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân đã trở thành một trong những đặc điểm mới của tư tưởng Hồ Chí Minh, bổ sung cho tư tưởng về độc lập dân tộc của Người và đưa tư tưởng ấy lên ngang tầm thời đại.

5. Tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam. Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính, bộ tham mưu sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Người khẳng định Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, là Đảng của giai cấp công nhân cũng đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt” và phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ” thật trung thành của nhân dân và do vậy, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới về chính trị, tư tưởng và tổ chức để xứng đáng là “Đảng của đạo đức và văn minh”.

6. Tư tưởng về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Theo Hồ Chí Minh, nếu vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ, nó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai. Chính vì vậy mà trên hành trình đi tìm một mô hình nhà nước tiến bộ cho dân tộc sau khi giành được độc lập, Người đã khảo sát những mô hình nhà nước ở các châu lục trên thế giới, vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin và đi đến quyết định lựa chọn mô hình nhà nước dân chủ nhân dân, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong nhà nước ấy, mọi lợi ích, quyền hạn, lực lượng đều ở nơi dân và có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc.

7. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu và xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Người không những đã để lại những tác phẩm lý luận về đạo đức, mà còn là hiện thân mẫu mực của những hành vi đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, những giá trị của tư tưởng đạo đức phương Đông và phương Tây, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam. Nền đạo đức mới mang bản chất của giai cấp công nhân được gọi là đạo đức cách mạng. Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi người cách mạng phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp. Đức là gốc, nhưng đức và tài phải kết hợp, phải đi đôi với nhau. Điều đó cho thấy, theo Hồ Chí Minh, đạo đức là vấn đề mang tính toàn diện ở mọi con người, biểu hiện tập trung thông qua ba mối quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với công việc. Người thường xuyên nhắc nhở chúng ta cần nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

8. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Với Hồ Chí Minh, “Trên đời ngàn vạn điều cay đắng; Cay đắng chi bằng mất tự do”. Từ nhận thức đó, Người quyết tâm ra đi tìm một hệ tư tưởng mới đủ sức giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội Việt Nam. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ sự kế thừa một cách sáng tạo những giá trị nhân văn truyền thống, những giá trị nhân văn trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là tinh thần khoa học, cách mạng của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản ở các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin. Với lòng yêu thương vô hạn và sự cảm thông sâu sắc đối với mọi nỗi đau khổ của con người, Người kiên quyết đấu tranh, tố cáo những tội ác gây ra cho con người và đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh, phẩm giá, vào khát vọng vươn tới Chân, Thiện, Mỹ của con người. Theo Hồ Chí Minh, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Trên cơ sở của niềm tin mãnh liệt vào con người, Hồ Chí Minh nguyện phấn đấu suốt đời cho hạnh phúc của con người trong một xã hội công bằng và coi chiến lược trồng người là chiến lược hàng đầu của cách mạng.

9. Tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh. Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra những phương tiện và công cụ cho sinh hoạt hàng ngày nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống của họ. “Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”(7). Chính vì vậy, theo Người, văn hoá có vị trí, vai trò, tính chất và chức năng quan trọng, to lớn trong đời sống xã hội; văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi, phải làm cho ai cũng có lý tưởng độc lập, tự chủ và có ý thức đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ. Người chỉ rõ ba lĩnh vực chính của văn hoá là văn hoá giáo dục, văn hoá văn nghệ và văn hoá đời sống. Mỗi lĩnh vực của văn hoá lại có vị trí, chức năng và nhiệm vụ riêng, song việc cải tạo, sửa đổi cái cũ và việc xây dựng, sáng tạo, phát minh cái mới luôn là những vấn đề bức thiết, vấn đề thời sự của cuộc sống.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đồng thời là mục tiêu của cách mạng Việt Nam, - đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Bài học này đòi hỏi phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, phải tìm ra những hình thức, bước đi, cách làm phù hợp, phải luôn luôn biết gắn lý luận với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung, làm phong phú thêm lý luận.


(*) Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.127.

(2)Đảng Cộng sản Việt Nam.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83-84.

(3)Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, .2003, tr.19 .

(4)Hồ Chí Minh.Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, t.8, tr.226; t.10, tr.556; t.9, tr. 447.

(5) Hồ Chí Minh.Sđd.,t.8, tr.493, 226.

(6) Hồ Chí Minh.Sđd.,t.10, tr.605 – 606.

(7)Hồ Chí Minh.Sđd.,t.3, tr. 431

Nguồn:Tạp chí Triết học, số 5 (168) - 2005

Vì sao hồ chí minh khẳng định: công, nông là gốc”, là lực lượng nòng cốt của cách mạng?
In bài viết
Vì sao hồ chí minh khẳng định: công, nông là gốc”, là lực lượng nòng cốt của cách mạng?
Gửi Email
Các tin đã đưa ngày: