Bệnh glocom nguyên nhân

Glôcôm góc mở nguyên phát là một hội chứng gồm tổn thương đầu thị thần kinh liên quan tới góc tiền phòng mở và nhãn áp tăng hoặc đôi lúc ở mức trung bình. Các triệu chứng là kết quả của tổn hại thị trường. Chẩn đoán dựa vào soi đáy mắt, soi góc tiền phòng, đánh giá thị trường, đo chiều dày giác mạc trung tâm và đo nhãn áp. Điều trị bao gồm các loại thuốc tra (ví dụ, tương tự prostaglandin, chẹn beta) và thường yêu cầu phải laze hoặc phẫu thuật để tăng thoát thủy dịch.

Bệnh glocom nguyên nhân

Các yếu tố nguy cơ đối với bệnh glôcôm góc mở nguyên phát gồm

  • Tuổi cao

  • Có tiền sử gia đình

  • Gốc châu Phi

  • Mỏng giác mạc trung tâm

Ở người gốc Phi, glôcôm trầm trọng hơn và phát triển ở độ tuổi sớm hơn, và có khả năng gây mù nhiều hơn gấp 6 đến 8 lần.

Nhãn áp có thể tăng hoặc ở mức trung bình.

Trong bệnh tăng nhãn áp góc mở nguyên phát, có sự bất thường của chất nền ngoại bào ở phần lưới trabecular (TM) tiếp giáp ngay với kênh Schlemm (gọi là TM thấu kính) tương tự như quá trình lão hóa nhanh; tính tế bào của lưới trabecular cũng có thể giảm.

Hai phần ba bệnh nhân glôcôm có nhãn áp tăng (> 21 mm Hg). Lưu lượng thoát thủy dịch giảm trong khi lưu lượng sản xuất bình thường. Không rõ cơ chế (ví dụ: glôcôm góc mở thứ phát). Các cơ chế thứ phát bao gồm dị tật phát triển, sẹo gây ra bởi chấn thương hoặc nhiễm trùng, và tắc ống do bong biểu mô mống mắt (tức là hội chứng phân tán sắc tố) hoặc các lắng đọng protein bất thường (ví dụ, hội chứng giả bong bao).

Ít nhất một phần ba bệnh nhân bị tăng nhãn áp, nhãn áp nằm trong phạm vi trung bình, nhưng tổn thương thần kinh thị giác và tổn thương thần kinh thị giác điển hình của bệnh tăng nhãn áp hiện nay. Những bệnh nhân này có tỷ lệ mắc các bệnh mạch máu cao hơn (ví dụ như chứng đau nửa đầu, hội chứng Raynaud) so với dân số nói chung, cho thấy rối loạn mạch máu làm suy yếu lưu lượng máu đến dây thần kinh thị giác có thể đóng một vai trò. Glôcôm có nhãn áp trung bình phổ biến hơn ở người châu Á.

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh tăng nhãn áp góc mở nguyên phát

Glôcôm góc mở nguyên phát thường không biểu hiện triệu chứng sớm. Thông thường, bệnh nhân cảm nhận được thị trường bị thu hẹp khi gai thị teo rõ; có sự chậm trễ này là ro sự tổn hại không đều của thị thần kinh hai bên. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có phàn nàn hay bị vấp ở cầu thang khi mất nửa dưới thị trường, phát hiện bị khuyết các góc của chữ khi đọc hoặc khó khăn khi lái xe sớm hơn trong diễn biến của bệnh.

Khám lâm sàng thấy góc mở trên soi góc, tổn hại đầu thị thần kinh và khuyết thị trường đặc trưng. Nhãn áp có thể bình thường hoặc cao nhưng hầu như luôn cao hơn trong mắt với tổn thương thần kinh thị giác nhiều hơn.

Thị thần kinh

Đầu thị thần kinh thường có đường kính dọc dài hơn một chút với phần lõm sinh lý ở trung tâm. Viền thần kinh là mô ở giữa viền của lõm và bờ của đĩa thị chứa sợi trục của các tế bào hạch từ võng mạc.

Các thay đổi thần kinh thị giác đặc trưng bao gồm

  • Tăng tỷ lệ lõm: đĩa (đặc biệt là tỷ lệ tăng theo thời gian)

  • Mỏng viền thần kinh

  • Khuyết viền thần kinh

  • Xuất huyết lớp sợi thần kinh vượt qua ranh giới đĩa (tức là xuất huyết Drance hoặc xuất huyết nhỏ hình dằm)

  • Kéo dài theo chiều dọc

  • Mạch máu gập góc khi đi ra khỏi đĩa thị (gọi là mạch máu hình lưỡi lê)

Sự mỏng của viền thần kinh (thần kinh thị giác hoặc lớp sợi thần kinh võng mạc) theo thời gian có giá trị chẩn đoán xác định glôcôm bất kể nhãn áp hoặc thị trường và là dấu hiệu tổn thương sớm trong 40 đến 60% trường hợp. Trong các trường hợp khác, dấu hiệu tổn thương sớm là một số biến đổi của thị trường.

Các vùng tổn hại lớp sợi hình chêm có thể tiến triển, phản tổn thương của lớp sợi thần kinh võng mạc.

Khuyết thị trường

Biến đổi thị trường do tổn hại của thị thần kinh gồm

  • Các bậc thang phía mũi (không vượt qua đường ngang - một đường tưởng tượng giữa nửa trên và dưới của thị trường)

  • Ám điểm hình cung mở rộng về phía mũi từ điểm mù

  • Khuyết hình chêm phía thái dương

Ngược lại, sự tổn hại của đường dẫn truyền thị giác ở những vị trí gần với trung khu thị giác (tức là từ thể gối ngoài tới vỏ não thùy chẩm) gây ra khuyết góc tư hoặc khuyết nửa thị trường tôn trọng đường dọc.

  • Khám thị trường

  • Khám đáy mắt

  • Đo độ dày giác mạc trung tâm và nhãn áp (IOP)

  • Loại trừ các bệnh thần kinh thị giác khác

Chẩn đoán glôcôm góc mở nguyên phát dựa vào khám lâm sàng, nhưng nhiều bệnh lý thị thần kinh khác cũng có những triệu chứng tương tự (ví dụ, do thiếu máu cục bộ, nhiễm trùng cytomegalovirus, hoặc thiếu vitamin B12).

Trước khi chẩn đoán glôcôm nhãn áp bình thường có thể cần phải loại trừ các yếu tố sau:

  • Số đọc IOP không chính xác

  • Dao động lớn trong ngày (tạo ra các khoảng bình thường của nhãn áp)

  • Glôcôm góc đóng gián đoạn

  • Các bệnh lý mắt hoặc thần kinh khác gây ra các khuyết thị trường tương tự

Độ dày giác mạc trung tâm được đo để giúp giải thích kết quả đo nhãn áp.

Chụp ảnh đĩa thị hoặc vẽ chi tiết lại đĩa thị giúp so sánh tổn thương trong tương lai. Tần suất các lần khám lại tiếp theo thay đổi từ vài tuần đến vài tháng, tùy thuộc vào độ tin cậy của bệnh nhân, mức độ trầm trọng của glôcôm và đáp ứng với điều trị.

  • Hạ nhãn áp 20 đến 40%

  • Ban đầu, sử dụng các loại thuốc (ví dụ tương tự prostaglandin như latanoprost hoặc tafluprost, chẹn beta như timolol)

  • Đôi khi phải phẫu thuật, laze hoặc phẫu thuật lỗ rò

Tổn thương thị giác trong glôcôm là không thể đảo ngược. Mục đích là để ngăn ngừa tiến triển tổn thương thần kinh thị giác và thị trường thông qua hạ nhãn áp. Mục tiêu là từ 20 - 40% dưới nhãn áp trước điều trị hoặc mức nhãn áp có thể gây tổn thương. Nhìn chung, nhãn áp càng thấp thì càng phòng ngừa được sự tiến triển của các tổn thương trong glôcôm. Nếu tổn thương tiếp tục tiến triển, nhãn áp phải thấp hơn nữa và cần điều trị bổ sung.

Điều trị ban đầu thường là điều trị bằng thuốc, tiến hành điều trị bằng laser và sau đó là phẫu thuật vết mổ nếu không đạt được mục tiêu IOP; tuy nhiên, bằng chứng gần đây cho thấy rằng điều trị ban đầu bằng phương pháp nong da bằng laser ít nhất cũng có hiệu quả như điều trị bằng thuốc. Phẫu thuật có thể là điều trị khởi đầu nếu nhãn áp rất cao, bệnh nhân không muốn sử dụng hoặc gặp khó khăn khi tuân thủ điều trị bằng thuốc hoặc nếu có sự hư hỏng đáng kể trong mắt trình bày.

Có nhiều loại thuốc (xem bảng Các loại thuốc sử dụng điều trị tăng nhãn áp Thuốc được sử dụng để điều trị glôcôm

Bệnh glocom nguyên nhân
). Các thuốc tra mắt được lựa chọn nhiều hơn. Phổ biến nhất là prostaglandin tái tổ hợp, tiếp theo là các thuốc chẹn beta (đặc biệt là timolol). Các loại thuốc khác bao gồm chất chủ vận adrenergic chọn lọc alpha-2, chất ức chế anhydrase carbonic, chất ức chế rho kinase và chất chủ vận cholinergic. Các chất ức chế anhydrase carbonic uống có hiệu quả, nhưng các tác dụng bất lợi hạn chế việc sử dụng chúng.

Bệnh nhân dùng các thuốc tra hạ nhãn áp nên được hướng dẫn cách vành mi và bịt điểm lệ để tránh tác dụng phụ toàn thân mặc dù hiệu quả của những dự phòng này vẫn còn bàn cãi. Bệnh nhân khó tra thuốc trực tiếp vào mắt có thể tra vào cạnh mũi gần dây chằng mi trong sau đó xoay đầu về phía mắt để thuốc từ từ chảy vào mắt.

Thông thường, để đánh giá hiệu quả, các bác sĩ lâm sàng bắt đầu dùng thuốc trong một (thử nghiệm ở một mắt) hoặc cả hai mắt.

Bệnh glocom nguyên nhân

Phẫu thuật trong glôcôm góc mở nguyên phát và nhãn áp bình thường gồm laze tạo hình vùng bè, phẫu thuật lỗ rò và các thủ thuật tăng lưu thông thủy dịch.

Laze chọn lọc vùng bè (SLT) sử dụng xung neodymium:yttrium-aluminum-garnet tần số nhân đôi. SLT và ALT có hiệu quả ban đầu tương đương, nhưng SLT có thể có hiệu quả cao hơn trong các lần điều trị tiếp theo. SLT thường là điều trị ban đầu cho những bệnh nhân không đáp ứng hoặc không thể điều trị bằng thuốc.

Phẫu thuật tạo hình laze (ALT) cũng có thể được xem xét để điều trị phẫu thuật glôcôm. Năng lượng laze được áp dụng cho cả 180º hoặc 360º của vùng bè củng giác mạc để tăng thoát thủy dịch. Trong vòng 2 đến 5 năm, khoảng 50% bệnh nhân cần điều trị bằng thuốc bổ sung hoặc phẫu thuật vì không kiểm soát được nhãn áp.

Phẫu thuật lỗ rò là phẫu thuật phổ biến nhất. Một lỗ nhỏ được tạo ra trong củng mạc rìa (trabeculectomy), được đậy bởi nắp vạt có độ dày một phần giúp kiểm soát lưu lượng thoát của thủy dịch tạo thành sẹo bọng. Tác dụng bất lợi của phẫu thuật lỗ rò là tăng tiến triển đục thủy tinh thể, hạ nhãn áp quá nhiều, bong hắc mạc trong quá trình phẫu thuật. Những bệnh nhân cắt bè có nguy cơ viêm mủ nội nhãn do vi khuẩn và nên được hướng dẫn để thông báo các triệu chứng của nhiễm trùng sẹo bọng hoặc viêm mủ nội nhãn (giảm thị lực, cương tụ kết mạc, đau) ngay khi có biểu hiện.

Các phẫu thuật một phần chiều dày đã giúp tăng thoát cho một phần thủy dịch, không giống như các phẫu thuật lỗ rò, ngay cả khi được tăng cường về cơ học, vẫn tạo ra sự thông thương trực tiếp giữa tiền phòng và khoang dưới kết mạc.

Ab externo, phương pháp tiếp cận từ bên ngoài mắt, bao gồm nong ống Schlemm bằng nhầy phẫu thuật, cắt củng mạc sâu và tạo hình ống Schlemm đều liên quan đến phẫu thích > 98% chiều dày củng mạc, để lại cửa sổ màng Descement và/hoặc thành trong ống Schlemm và bè củng giác mạc. Ống được nong bằng nhầy phẫu thuật (trong phẫu thuật nong ống Schlemm) hoặc bằng ống siêu nhỏ (trong tạo hình ống). Cắt củng mạc sâu thường dựa vào sự tạo thành sẹo bọng kết mạc.

Trong phương pháp tiếp cận ab interno (phương pháp tiếp cận từ bên trong mắt), một thiết bị được sử dụng để loại bỏ (ví dụ, với phẫu thuật cắt da quanh mắt) hoặc bỏ qua (ví dụ, với một số thủ thuật đặt stent) lưới trabecular, tạo ra sự liên lạc trực tiếp giữa khoang trước và các kênh thu thập. Không có sẹo bọng.

Nói chung, các phẫu thuật này có vẻ an toàn hơn nhưng ít hiệu quả hơn cắt bè củng giác mạc.

  • Glôcôm góc mở nguyên phát thường liên quan đến tăng nhãn áp nhưng có thể xảy ra với nhãn áp bình thường.

  • Mất thị lực do glôcôm không thể phục hồi.

  • Bắt đầu quy trình thăm khám với soi đáy mắt, đo nhãn áp, và kiểm tra thị trường.

  • Mục tiêu giảm nhãn áp từ 20 đến 40%.

  • Bắt đầu điều trị với các loại thuốc tra (ví dụ, tương tự prostaglandin như latanoprost hoặc tafluprost, thuốc chẹn beta như timolol).

  • Cân nhắc điều trị phẫu thuật nếu thuốc không hiệu quả hoặc nếu thị lực bị suy giảm trầm trọng.