Chức vụ bác tôn giữ lâu nhất trong cuộc đời mình là gì?

Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng và tinh thần đại đoàn kết

Chủ tịch Tôn Đức Thắng - người con ưu tú của dân tộc, được nhân dân kính trọng gọi là “Bác Tôn”. Ông sinh ngày 20-8-1888 trong một gia đình có truyền thống yêu nước ở Cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay thuộc thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang) - miền quê giàu truyền thống cách mạng. Bác Tôn là một trong những người chiến sĩ cách mạng xuất sắc thuộc lớp đầu tiên của phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta và là người bạn chiến đấu thân thiết, lâu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, dù ở bất cứ đâu, cương vị nào, Đồng chí cũng luôn khiêm tốn, giản dị, gần gũi, đoàn kết với mọi tầng lớp nhân dân, nhưng vẫn toát lên tinh thần bất khuất, kiên cường của người chiến sĩ cộng sản, một tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời.

Chức vụ bác tôn giữ lâu nhất trong cuộc đời mình là gì?
Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng với các cán bộ và chiến sĩ giúp việc.
(Ảnh tư liệu)

1. Tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng

Vốn là người có tư chất thông minh, thành thạo tiếng Pháp, giỏi về kỹ thuật cơ khí, lại có tính tự lập cao nên Chủ tịch Tôn Đức Thắng bắt đầu cuộc sống làm thợ, hòa mình vào phong trào công nhân từ năm 1907; trở thành hạt nhân lãnh đạo các cuộc đấu tranh bãi khóa của học sinh trường Bá Nghệ và là người tổ chức các cuộc bãi công, đòi quyền sống của công nhân Ba Son năm 1912. Sau đó, để tránh sự lùng bắt của thực dân Pháp, Đồng chí đã cải trang và trở thành lính thợ làm việc trên chiến hạm France của Pháp. Tuy nhiên, do các hoạt động ủng hộ nước Nga Xô-viết, nhất là tham gia sự kiện kéo cờ đỏ phản chiến của Hải quân Pháp ở Biển Đen nên Đồng chí bị chính quyền Pháp trục xuất. Trở lại Sài Gòn, Đồng chí tích cực tham gia hoạt động trong các phong trào cách mạng, liên tục là Ủy viên Thành bộ Sài Gòn và Ủy viên Kỳ bộ Nam Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và được phân công phụ trách phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn từ năm 1927 đến 1929. Trung tuần tháng 7-1929, Bác Tôn bị địch bắt và kết án 20 năm tù khổ sai, tháng 6-1930 đày ra Côn Đảo với số tù 5289-TF. Trong lao tù, mặc dù bị tra tấn dã man, nhưng Ông vẫn tìm mọi cách để truyền hơi ấm của tình đồng chí, đồng đội, truyền ngọn lửa cách mạng của người cộng sản kiên trung, bất khuất tới những người cùng cảnh ngộ. Tại đây, Bác Tôn đã hết lòng dạy anh em lao tù học văn hóa, học tiếng Pháp, cùng nhau hát lên những khúc ca hùng tráng của bài quốc tế ca. Trải qua 15 năm bị tù đày tại nhà tù Côn Đảo, Đồng chí đã biến ngục tù thành nơi tôi luyện ý chí đấu tranh, trường học cộng sản cho các đồng chí cùng chí hướng; luôn nêu cao tấm gương sáng về lòng trung thành, sự tận tụy, phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc và trở thành tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng.

Cách mạng Tháng Tám thành công, Đồng chí thoát khỏi nhà tù, gông xiềng đế quốc. Vừa đặt chân đến đất liền, chưa kịp về thăm gia đình thì cuộc kháng chiến bùng nổ, Đồng chí lại lao ngay vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Năm 1954 (sau chín năm kháng chiến thắng lợi), tại Hà Nội, gia đình Bác Tôn mới được hội ngộ. Đây là một hình ảnh tiêu biểu cho tấm gương hết lòng vì sự nghiệp cách mạng, “vì nước quên nhà” của Bác Tôn. Trong vòng 35 năm (1945 - 1980), đồng chí Tôn Đức Thắng đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Ðảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, như: Tổng Thanh tra Chính phủ, Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua ái quốc Trung ương, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Liên Việt toàn quốc, Hội trưởng Hội Hữu nghị Việt Nam - Liên Xô, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch nước, v.v. Dù ở cương vị trọng trách nào, Đồng chí cũng luôn tuân thủ quyết định của tổ chức, của tập thể, phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, góp phần cùng với Bác Hồ, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Chính phủ, Quốc hội và Mặt trận Tổ quốc, lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

2. Điển hình của tinh thần đại đoàn kết

Đây là một trong những phẩm chất cao đẹp nhất của Chủ tịch Tôn Đức Thắng và được thể hiện rất rõ ngay trong lúc bị thực dân Pháp giam cầm. Cuối năm 1932, trong nhà tù Côn Đảo, địch bắt Đồng chí làm cặp rằng ở Hầm xay lúa với ý đồ mượn tay của tù nhân để trừ khử Ông, bởi trước đó có một cặp rằng tên là Bảy Tốt đã bị sát hại. Cặp rằng là một hình thức lấy tù nhân quản lý tù nhân và Hầm xay lúa lại được mệnh danh là "nhà tù trong nhà tù, địa ngục trong địa ngục" nên tù nhân ở đây rất dễ nổi nóng, sẵn sàng trút giận lên kẻ sai khiến, quản thúc họ. Biết rõ âm mưu của địch, Bác Tôn vừa khéo léo giáo dục, cảm hóa các bạn tù, vừa tổ chức phân công lại công việc: người yếu được bố trí vào việc sàng gạo và đóng bao, người khỏe xay lúa và bốc vác, việc nặng thì được bố trí thêm người, v.v. Đồng thời, tổ chức ra Hội cứu tế tù nhân để chăm sóc người ốm và san sẻ công việc nặng nhọc. Buổi trưa, gom gạo rơi vãi nấu cơm cho anh em ăn; buổi tối tổ chức học văn hóa cho những người chưa biết chữ và nói chuyện truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho mọi người. Nhờ đó, không khí đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau đã thay thế bạo lực, thù hằn, độc ác; khởi đầu cho việc đoàn kết tập hợp lực lượng, tổ chức tù nhân thành đội ngũ sẵn sàng đấu tranh khi có lệnh.

Trong tình thế cách mạng Việt Nam “ngàn cân treo sợi tóc” đầu năm 1946, nhiệm vụ cực kỳ quan trọng lúc này là phải đoàn kết được toàn dân tộc, cô lập kẻ thù, bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, đồng chí Tôn Đức Thắng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng tin tưởng giao trọng trách là Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt). Sau khi Hội trưởng Huỳnh Thúc Kháng qua đời (năm 1947), với trách nhiệm “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”, Quyền Hội trưởng Hội Liên Việt Tôn Đức Thắng đã không quản ngại khó khăn vượt đèo, lội suối, gặp gỡ, tiếp xúc với nhiều nhân sĩ, trí thức, đại diện lãnh đạo các đảng phái, chức sắc tôn giáo tuyên truyền, vận động làm cho mọi người nhận thức rõ thời cuộc, chính sách của Chính phủ kháng chiến, nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc chống thực dân xâm lược. Từ đây, mọi hoạt động của Bác Tôn Đức Thắng đều gắn liền với Mặt trận dân tộc thống nhất, với chính sách đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và được Thường vụ Trung ương Đảng chỉ định làm Trưởng ban Trung ương vận động Thi đua ái quốc (năm 1948). Với trách nhiệm đó, Bác Tôn đã lãnh đạo Mặt trận vận động mọi lực lượng, tầng lớp nhân dân: “ở tiền tuyến, ở hậu phương, ở trong nước, ở ngoài nước, già, trẻ, gái, trai, không kể tôn giáo gì, chính kiến gì, đều phải thi đua bằng mọi cách để giết giặc cứu nước, để giải phóng cho dân tộc và góp phần vào sự nghiệp xây dựng hòa bình chung của thế giới”1; qua đó, làm cho phong trào Thi đua ái quốc trở thành động lực của cuộc kháng chiến kiến quốc, được Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (02-1951) về tiếp tục kiện toàn và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất, với cương vị Quyền Hội trưởng Hội Liên Việt, Đồng chí đã tích cực chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt. Ngày 03-3-1951, tại Việt Bắc, Đại hội được tổ chức theo đúng chương trình, kế hoạch. Đại hội đã thông qua nhiều nghị quyết quan trọng, như: thống nhất hai Mặt trận Việt Minh và Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt; thông qua Chính cương, Điều lệ, Tuyên ngôn của Mặt trận; tán thành việc xây dựng và bảo vệ khối đoàn kết giữa nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia để chống kẻ thù chung. Đại hội nhất trí bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt. Đây là thắng lợi to lớn về chính trị, thể hiện sự đồng lòng của toàn dân, quyết tâm xây dựng khối đại đoàn kết thống nhất vì độc lập, tự do của Tổ quốc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Trong Đại hội này, chúng ta có đại biểu đủ các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc, già có, trẻ có, nam có, nữ có, thật là một gia đình tương thân tương ái. Chắc rằng sau cuộc Đại hội, mối đoàn kết thân ái sẽ phát triển và củng cố khắp toàn dân. Với lực lượng đoàn kết ấy, chúng ta sẽ vượt qua hết thảy mọi khó khăn, gian khổ, chúng ta sẽ đánh tan tất cả mọi kẻ thù đế quốc thực dân”2. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Tôn Đức Thắng, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, phát triển, tạo thế vững, lực mạnh để Đảng ta quyết định chuyển cuộc kháng chiến sang giai đoạn tổng phản công, làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, giải phóng hoàn toàn miền Bắc. Để tiếp tục củng cố, tăng cường hoạt động của Mặt trận trong điều kiện mới, tháng 9-1955, Đồng chí Tôn Đức Thắng đã chỉ đạo Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận Liên Việt mở Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc để thông qua dự thảo Cương lĩnh, Điều lệ mới và đổi tên thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Có thể nói, sự ra đời Cương lĩnh của Mặt trận đã mở ra một trang mới cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc, được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao: “Chúng ta có thể nói rằng: Cương lĩnh này là một cương lĩnh đại đoàn kết, mục đích của nó là đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước. Ai cũng phải nhận rằng: Cương lĩnh của Mặt trận rất vững chắc, rất rộng rãi và rất thiết thực”3. Là người lãnh đạo liên tục và lâu năm nhất của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (từ 10-9-1955 đến tháng 02-1977), Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã góp phần to lớn vào nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, đoàn kết toàn dân, quyết tâm thực hiện thành công mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. 

Đối với Bác Tôn, tình cảm yêu nước gắn liền với tinh thần quốc tế vô sản chân chính; người công nhân Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa quốc tế vô sản và có những cống hiến lớn lao trong việc xây dựng khối đoàn kết quốc tế, giữ gìn và củng cố hòa bình thế giới. Đặc biệt, trên cương vị Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Đồng chí không chỉ đóng góp to lớn vào củng cố khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, mà còn góp phần củng cố hòa bình trên toàn thế giới. Vì vậy, khi Hội hữu nghị Việt - Xô được thành lập (l7-5-1950), Đồng chí được bầu làm Chủ tịch Hội do Đồng chí có quan hệ và tình cảm đặc biệt với đất nước của V.I.Lê-nin vĩ đại. Ngoài ra, Đồng chí còn được bầu làm Chủ tịch danh dự Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 7-1955, tại Đại hội hòa bình thế giới họp ở Hen-xinh-ki (Phần Lan), Đồng chí được bầu làm Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới. Ghi nhận những công lao đóng góp to lớn cho sự nghiệp hòa bình trên thế giới, ngày 21-01-1956, tại Điện Crem-li (Liên Xô cũ), Ủy ban Giải thưởng Hòa bình quốc tế Stalin tổ chức trọng thể Lễ trao Giải thưởng Quốc tế Stalin vì sự củng cố hòa bình giữa các dân tộc (sau này đổi tên là Giải thưởng Hòa bình Quốc tế Lê-nin) cho Đồng chí. Mười hai năm sau, tháng 11-1967, Đồng chí lại được Đoàn Chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô tặng thưởng Huân chương Lê-nin. Đây là huân chương cao quý nhất của Nhà nước Liên bang Xô-viết và Đồng chí là người Việt Nam đầu tiên được nhận Huân chương này.

Nhân dịp sinh nhật lần thứ 70 (20-8-1958), Đồng chí được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Sao Vàng - phần thưởng cao quý nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đồng chí cũng lại là người đầu tiên được nhận. Tại Lễ trao tặng, Bác Hồ đã đánh giá: “Là một chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng Tháng Mười vĩ đại”4 và “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần kiệm liêm chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”5. Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói lên tất cả phẩm chất đạo đức cách mạng, sự cống hiến của Chủ tịch Tôn Đức Thắng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng và nền hòa bình, phong trào cách mạng thế giới nói chung.

PGS, TS. NGUYỄN XUÂN TRUNG, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
___________

1- Sở Văn hóa và Thông tin An Giang - Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888 - 1980), Nxb An Giang. 1988, tr. 203.

2 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 48.

3 - Sđd, Tập 10, tr. 129.

4 - Sđd, Tập 11, tr. 519.

5 - Sđd, tr. 520.