Cơ sở kỹ thuật chung của 3 nền văn hóa Phùng Nguyên, Sa Huỳnh, Đồng Nai là gì

Lập bảng thống kê những điểm chính về cuộc sống của các bộ lạc Phùng Nguyên, Sa Huỳnh, Đồng Nai theo các nội dung: địa bàn cư trú, công cụ lao động, hoạt động kinh tế.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 13: Việt Nam thời kì nguyên thủy
Nền văn hóaĐịa bàn cư trúCông cụ lao độngHoạt động kinh tế
Phùng NguyênPhú Thọ, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Hải PhòngChủ yếu bằng đáNông nghiệp trồng lúa, chăn nuôi gia súc, làm đồ gốm
Sa HuỳnhQuảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh HòaPhổ biến bằng đáNông nghiệp trồng lúa, dệt vải
Đồng NaiĐồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Long An, Hồ Chí MinhChủ yếu bằng đáNông nghiệp trồng lúa nước và các cây lương thực, ăn quả khác, khai thác sản vật, làm nghề thủ công

Xem tiếp...

Những điểm mới trong cuộc sống của cư dân Phùng Nguyên là gì? So sánh với cư dân Hòa Bình- Bắc Sơn?

Chi tiết Chuyên mục: Bài 13: Việt Nam thời kì nguyên thủy

- Điểm mới trong cuộc sống của cư dân Phùng Nguyên

+ Cư dân văn hóa Phùng Nguyên là những người mở đầu thời đại đồng thau ở Việt Nam.

+ Cư dân Phùng Nguyên làm nông nghiệp trồng lúa nước, sống định cư lâu dài trong các công xã thị tộc mẫu hệ. Công cụ lao động chủ yếu bằng đá có kỹ thuật chế tác cao, nhiều loại hình. Họ làm gốm bằng bàn xoay có hoa văn độc đáo, sử dụng các nguyên liệu tre, gỗ, xương để làm đồ dùng.

+ Địa bàn cư trú ở đồng bằng châu thổ các con sông lớn: sông Hồng, sông Mã, sông Cả.

- So sánh với cư dân Hòa Bình – Bắc Sơn

Văn hóaĐịa bàn cư trúCông cụ lao độngHoạt động kinh tế
Phùng NguyênPhú Thọ, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Phòng,...Chủ yếu vẫn bằng đáNông nghiệp trồng lúa, chăn nuôi gia súc, làm đồ gốm.
Hòa Bình- Bắc SơnHòa Bình, Lai Châu, Sơn La,...Bằng đá được ghè đẽo, công cụ bằng tre, gỗSăn bắn, hái lượm, đánh cá, chăn nuôi

Xem tiếp...

Giải Bài Tập Lịch Sử 10 Bài 13: Việt Nam thời kì nguyên thủy giúp HS giải bài tập, cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản, chính xác, khoa học để các em có những hiểu biết cần thiết về lịch sử thế giới, nắm được những nét lớn của tiến trình lịch sử Việt Nam:

Trả lời:

– Địa bàn sinh sống: Lạng Sơn, Thanh Hóa, Đồng Nai, Bình Phước,..

– Nhận xét:

    • Địa bàn trải dài từ Bắc vào Nam.

    • Chủ yếu tập chung ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.

    • Tập chung ở những vùng đồi núi, trung du.

Trả lời:

Những tiến bộ trong hoạt động kinh tế của cư dân Hòa Bình – Bắc Sơn:

– Sống định cư lâu dài trong các hang động.

– Biết trồng các loại rau, củ, cây ăn quả… → một nền nông nghiệp sơ khai đã được hình thành.

– Người Hoà Bình đã biết ghè đẽo lên cả một bên mặt rìu đá, bước đầu biết mài lưỡi rìu và làm một số công cụ bằng xương, tre, gỗ.

– Người Bắc Sơn biết mài rộng lên trên lưỡi rìu đá và bắt đầu biết làm đồ gốm.

→ Cuộc sống vật chất và tinh thần của cư dân Hoà Bình, Bắc Sơn cũng được nâng cao hơn.

Trả lời:

Biểu hiện của “Cách mạng đá mới” ở Việt Nam:

– Cách ngày nay khoảng 5000 – 6000 năm , con người đã biết sử dụng kĩ thuật cưa, khoan đá, phát triển kĩ thuật làm đồ gốm bằng bàn xoay.

– Công cụ lao động được cải tiến, làm tăng năng suất lao động.

– Phần lớn các thị tộc đều bước vào giai đoạn nông nghiệp trồng lúa dùng cuốc đá. – Cùng với sự gia tăng dân số, việc trao đổi sản phẩm được đẩy mạnh giữa các bộ lạc, đời sống vật chất được ổn định và cải thiện hơn, đời sống tinh thần được nâng cao.

Trả lời:

Điểm mới trong cuộc sống của cư dân Phùng Nguyên:

– Cư dân văn hoá Phùng Nguyên là những người mở đầu thời đại đồng thau Việt Nam.

– Cư dân làm nông nghiệp trồng lúa nước, sống định cư lâu dài trong các công xã thị tộc mẫu hệ.

– Công cụ lao động chủ yếu vẫn bằng đá nhưng đã biết sử dụng các công cụ bằng đồng. Họ làm gốm bằng bàn xoay, sử dụng các nguyên liệu tre, gỗ, xương để làm đồ dùng, biết xe chỉ, dệt vải và chăn nuôi gia súc, gia cầm như trâu, bò, lợn, gà.

So sánh với cư dân Hòa Bình –Bắc Sơn: Cư dân Phùng Nguyên có đời sống phát triển hơn cư dân Hòa Bình- Bắc Sơn.

Cư dân Hòa Bình – Bắc Sơn Cư dân Phùng Nguyên
Công cụ Đá Đá và đồng
Kinh tế Săn bắt, hái lượm là chủ yếu, nền nông nghiệp sơ khai được hình thành. Nông nghiệp là chủ yếu, làm gốm, chăn nuôi,..
Đời sống cư dân Sống định cư lâu dài trong các hang động, mái đá, hợp thành thị tộc, bộ lạc. Sống định cư lâu dài trong các công xã thị tộc mẫu hệ.

Trả lời:

Giai đoạn Đặc điểm chính
Cách ngày nay 30 – 40 vạn năm Người tối cổ đã sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Thời kì hình thành và phát triển Ra đời của công xã thị tộc, bộ lạc
Thời kì tan rã Các bộ lạc bắt đầu bước vào thời đại kim khí. Việc chế tạo công cụ lao động bằng kim loại đã dẫn đến năng suất lao động tăng, dẫn đến sự phân công lao động và tác động đến sự phân hoá của xã hội nguyên thuỷ và tạo tiền đề dẫn đến sự tan rã cùa xã hội nguyên thuỷ ở nước ta.

Trả lời:

– Thời gian: cách ngày nay khoảng 3000 – 4000 năm các bộ lạc ở Việt Nam biết đến thuật luyện kim.

– Nhận xét:

    • Thời gian ra đời tương đối sớm.

    • Trong các bộ lạc thì cư dân Phùng Nguyên biết đến thuật luyện kim sớm nhất, cư dân Sa Huỳnh và Đồng Nai biết đến muộn hơn.

    ⇒ Với sự ra đời của thuật luyện kim đã đưa các bộ lạc bước vào buổi đầu của thời đại kim khí.

Trả lời:

Sự ra đời của thuật luyện kim có ý nghĩa đối với các bộ lạc sống trên đất nước ta cách đây khoảng 3000 – 4000 năm :

⇒ Đưa các bộ lạc bước vào thời đại kim khí, hình thành những nền văn hóa lớn phân bó ở các khu vực khác nhau làm tiền đề cho sự chuyển biến của xã hội nguyên thủy sang thời đại mới.

Trả lời:

Phùng Nguyên Sa Huỳnh Đồng Nai
Địa bàn cư trú Lưu vực sông Hồng, Trung du và miền núi phía Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ. Châu thổ sông Thu Bồn, Trà Khúc,..vùng núi Nam Trung Bộ Đông Nam Bộ
Công cụ lao động Chủ yếu bằng đá, tre, gỗ, xương

Bắt đầu sử dụng công cụ bằng đồng

Chủ yếu bằng đá

Bắt đầu biết sử dụng đồ sắt.

Chủ yếu bằng đá

Công cụ bằng đồng chưa phổ biến

Hoạt động kinh tế Nông nghiệp lúa nước, làm gốm, chăn nuôi gia súc,.. Nông nghiệp lúa nước, làm gốm, dệt vải, rèn sắt, chăn nuôi gia súc,.. Nông nghiệp trồng lúa nước và cây lương thực khác, làm gốm,..

Văn hóa Phùng Nguyên là một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, tồn tại từ cuối thiên niên kỷ III TCN, đầu thiên niên II TCN và kết thúc vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ II TCN[1]. Phùng Nguyên là tên một làng ở xã Kinh Kệ (nay là xã Phùng Nguyên), huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra các di chỉ của nền văn hóa này. Di chỉ văn hóa Phùng Nguyên đã được phát hiện ở Phú Thọ, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hà Nội, Hải Phòng và một vài nơi khác trong lưu vực sông Hồng. Tính đến năm 1998, có khoảng 55 địa điểm đã được phát hiện có di chỉ văn hóa đồng dạng với các di chỉ tại Phùng Nguyên, trong đó có 3 địa điểm có di cốt người. Công cụ bằng đá phổ biến và chiếm ưu thế tuyệt đối. Đồ trang sức bằng các loại đá, đá bán quý, ngọc được tìm thấy nhiều, đặc biệt là các vòng đá. Ngoài đồ đá, cư dân Phùng Nguyên đã biết chế tạo đồ gốm đặc sắc từ khâu làm đất, tạo dáng cho đến hoa văn trang trí. Trong đời sống của cư dân Phùng Nguyên đã xuất hiện đồ đồng và thuật luyện kim (còn hạn chế).

Cùng thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng ở Việt Nam như văn hóa Phùng Nguyên còn có văn hóa Cồn Chân Tiên, Hoa Lộc (lưu vực sông Mã), văn hóa của các bộ lạc người nguyên thủy ở lưu vực sông Lam, của các bộ lạc ở thượng lưu sông Mã (huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La), văn hóa Tiền Sa Huỳnh (Trung Trung bộ), văn hóa Đồng Nai (Đông Nam bộ).

Căn cứ vào những di vật khảo cổ học cho biết người Phùng Nguyên đã đạt đến đỉnh cao của kỹ thuật chế tác đá. Kỹ thuật mài, cưa đá phổ biến, có thể tạo ra những công cụ và đồ trang sức hình dáng phong phú, vừa đạt độ chính xác cao, vừa tiết kiệm được nguyên liệu. Người Phùng Nguyên đã thành thạo kỹ thuật khoan và tiện đá.

Nhìn những công cụ đá như rìu, bôn có thiết diện tứ giác, kích thước nhỏ nhắc mà chức năng sử dụng như những con dao nhỏ sắc; hoặc vòng trang sức đá tinh xảo của người Phùng Nguyên còn để lại, khiến người ngày nay không khỏi ngạc nhiên. Rõ ràng, người Phùng Nguyên đã đạt đến đỉnh cao của kỹ thuật chế tác đá mà các văn hóa trước và sau đó khó có thể vượt qua được.

Đồ đá vẫn chiếm số lượng nhiều nhất trong số các di vật thuộc Văn hóa Phùng Nguyên. Gồm các công cụ sản xuất như rìu, bàn mài, bàn dập. Đáng chú ý nhất là loại bàn dập có 6-7 rãnh song song, chưa rõ tác dụng của các loại bàn dập này. Nhiều dọi se sợi được tìm thấy ở các di chỉ.

Kỹ thuật làm gốm của người Phùng Nguyên cũng đạt đến mức tinh xảo về tạo hình, sử dụng chất liệu và tạo hoa văn. Hoa văn gốm Phùng Nguyên rất phong phú gồm văn chải, văn thừng, văn khắc vạch, văn in, văn đan... Hoa văn đặc trưng của gốm Phùng Nguyên là khắc vạch kết hợp với in, lăn. Các hoạt tiết được bố cục cân xứng, hoặc các họa tiết hình chữ S nối liền nhau. Đồ gốm Phùng Nguyên gồm 3 loại hình chính: mịn, thô và rất thô.

Đồ gốm Phùng Nguyên được tạo bằng bàn xoay (chân, tay) hoặc nặn, gắn, chắp. Họ đã biết tráng gốm phủ ngoài trước khi đưa vào lò nung. Có thể coi đó là bước khởi đầu cho kỹ thuật tráng men gốm sau này. Gốm được nung trong hố hở ở ngoài trời, nhiệt độ khoảng 600-800 độ C.

Loại hình đồ gốm cũng đa dạng, phong phú, song nhiều nhất vẫn là đồ gia dụng, gồm nồi, bình, bát có chân đế, dáng đẹp. Đồ đựng có đường kính miệng lớn, thành mỏng, có thể coi đó là đặc trưng gốm Phùng Nguyên. Ở một số di chỉ còn tìm thấy bi gốm, có thể đó là đồ chơi cho trẻ con bấy giờ. Hoặc trong nhiều di chỉ suốt thời đại đồng thau từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn còn tìm thấy một hiện vật gốm độc đáo mà tên gọi và công dụng của hiện vật đó đến nay vẫn chưa được thống nhất, đó là chạc gốm hay chân giò gốm. Có ý kiến cho rằng công dụng của chạc gốm giống như những chiếc sừng trâu có dùi một lỗ thủng lớn phía đầu nhọn là một dụng cụ dùng để tiếp nước uống rượu cần[2].

Đồ đồng đã xuất hiện trong văn hóa Phùng Nguyên, song còn chưa nhiều, kỹ thuật luyện kim cũng còn hạn chế. Ở di chỉ Gò Bông thuộc giai đoạn sớm của văn hóa Phùng Nguyên, người ta đã phát hiện xỉ đồng chứng tỏ cư dân đã luyện đồng tại chỗ, hoặc cách đó không xa. Phân tích mẫu xỉ đồng ấy cho biết cư dân Phùng Nguyên đã biết đến hợp kim đồng thau, gồm đồng và thiếc.

Cho đến nay vẫn chưa thấy đồ đồng Phùng Nguyên nào còn nguyên chiếc, chứng tỏ đồ đồng còn rất khan hiếm. Đồ đá vẫn là công cụ phổ biến trong sản xuất và đời sống.

Với việc tìm thấy một số hạt gạo cháy trong tầng văn hóa sớm nhất của di chỉ Đồng Đậu thuộc văn hóa Phùng Nguyên, dựa vào công cụ đá và đồ đựng gốm, có thể cho rằng người Phùng Nguyên đã biết đến nông nghiệp trồng lúa nước. Song quy mô của sản xuất nông nghiệp lúa nước và vai trò kinh tế của nông nghiệp ra sao, cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ vì thiếu tư liệu.

Cho tới nay, hơn 60 di chỉ thuộc văn hóa Phùng Nguyên đã được phát hiện. Các di tích này phân bố trong phạm vi rộng khắp châu thổ Bắc Bộ, chủ yếu là dọc theo lưu vực các con sông lớn: như sông Hồng, sông Lô, sông Thao, sông Đà, sông Đáy … tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Hà Nội, Bắc Ninh …[3]

  • Di chỉ Phùng Nguyên được lấy làm tên xác lập cho nền văn hóa Phùng Nguyên tọa lạc tại xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Di chỉ Phùng Nguyên đã được các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện và khai quật nhiều lần, trên diện tích rộng khoảng 4.000m² trong những năm từ 1959 đến 1970.
  • Di chỉ Mán Bạc ở thôn Bạch Liên, xã Yên Thành, huyện Yên Mô (Ninh Bình), thuộc hệ thống đứt gãy của dải núi đá vôi Tam Điệp chạy ra tới biển. Theo các nhà khảo cổ học, di chỉ Mán Bạc thuộc giai đoạn văn hóa cuối Phùng Nguyên, đầu Đồng Đậu, có niên đại gần 4.000 năm. Cư dân cổ Mán Bạc sống trên toàn bộ doi đất cao mà nhân dân thường gọi là Gò Vụng, được dải núi Mán Bạc bao quanh theo thế hình vòng cung tạo ra một nơi rất kín. ở đó, cư dân yên tâm sinh sống vì có thể tránh được thời tiết xấu. Năm 1999, các nhà khảo cổ Việt Nam đã tiến hành khai quật di chỉ Mán Bạc lần thứ nhất, và đã tìm thấy 5 mộ táng và 6 cá thể. Trong lần khai quật lần thứ hai, với diện tích 24m², các nhà khảo cổ đào được 10 mộ với 11 cá thể. Người chết được chôn theo tư thế nằm ngửa, tay chân duỗi thẳng, mặt nghiêng về bên trái. Các nhà khảo cổ cũng thu được 39 chiếc rìu, 8 đục, 6 hạt chuỗi, 10 mảnh vòng, 2 bàn đập vải vỏ cây, 3 nồi gốm, 1 bát đồng, 3 hiện vật hình nấm còn khá nguyên vẹn... và hàng trăm kilogam vỏ nhuyễn thể. Đây cũng là di chỉ đầu tiên trong giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên giữ được di cốt người còn khá nguyên vẹn. Đối chứng với mẫu bào thai 8 tháng tuổi ở Viện Giải phẫu, các nhà khảo cổ đã khẳng định những di cốt được tìm thấy ở một số mộ là trẻ sơ sinh (chiếm tới 50%).[4]
  • Di chỉ khảo cổ học Văn Điển, Tân Triều (ở Thanh Trì – Hà Nội) và gần đây đã phát hiện di chỉ Phùng Nguyên muộn tại di tích Đàn Xã Tắc (Đống Đa - Hà Nội).
  • Các di chỉ khác: Hồng Đà (Phú Thọ), Tràng Kênh (Hải Phòng), Bãi Tự (Bắc Ninh).
  • Di chỉ khảo cổ Phùng Nguyên

  1. ^ Vũ Duy Mền (chủ biên) (2013), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 91.
  2. ^ Vũ Duy Mền (chủ biên) (2013), Sđd, tr. 90.
  3. ^ Đôi nét về đồ đá văn hóa Phùng Nguyên
  4. ^ "Bí mật" của những ngôi mộ 3.500 năm ở Mán Bạc

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Văn_hóa_Phùng_Nguyên&oldid=68478327”