Cho đến thời điểm hiện nay, khi đã rất nhiều trường đại học tiến hành việc dạy ngữ pháp cho sinh viên của mình dựa trên lý thuyết phân tích câu trên ba bình diện, thì vấn đề từ loại vẫn không hề bị xem nhẹ. Đối với sinh viên các trường sư phạm, vấn đề này càng được coi trọng hơn. Trước hết là bởi hệ thống sách giáo khoa hiện nay vẫn dạy cho học sinh về danh từ, động từ, tính từ… Sau nữa là bởi chỉ có nắm vững học thuyết về từ loại, sinh viên mới dễ dàng thực hiện việc phân tích câu trên bình diện kết học, từ đó tiến tới việc phân tích câu trên bình diện nghĩa học và dụng học. Tuy nhiên, thời gian dành cho phần từ loại không nhiều (thường là 15 tiết từ loại/ 75 tiết ngữ pháp - đối với trường ĐHSP2; hoặc 20 tiết từ loại/105 tiết ngữ pháp - đối với trường ĐHSP1). Với khoảng thời gian như thế, người học ít có điều kiện để luyện tập, thực hành. Mà từ loại thì vốn lại là một trong những vấn đề khá rắc rối của ngữ pháp tiếng Việt. Qua thực tế 15 năm giảng dạy ở trường đại học, chúng tôi thấy khả năng xác định từ loại trong những câu cụ thể của sinh viên còn rất hạn chế. Do vậy, chúng tôi soạn hệ thống bài tập từ loại này để sinh viên có thể luyện tập thêm, nhằm giúp sinh viên nắm chắc hơn hiện tượng di chuyển từ loại trong tiếng Việt. Chúng tôi thiết nghĩ, đây có thể là một tài liệu tham khảo nho nhỏ cho những giáo viên giảng dạy phần từ loại, cả ở bậc phổ thông cũng như đại học. Hệ thống bài tập xác định từ loạiYêu cầu: Hãy xác định từ loại cho những từ được gạch chân trong các câu sau, nêu rõ căn cứ xác định:
Đáp án
Của là danh từ. Căn cứ xác định: Từ của chỉ sự vật (vật do con người làm ra).
Của là danh từ. Căn cứ xác định: Dựa vào ý nghĩa ngữ pháp khái quát: Từ của chỉ sự vật (cái ăn, có một đặc tính nào đó).
Của là quan hệ từ. Từ của dùng để nối chiếc xe và vợ tôi, chỉ quan hệ sở hữu.
Nên là động từ,(thường dùng trước danh từ) với nghĩa thành ra được.
Nên là động từ, (thường dùng trước một động từ khác), thuộc nhóm động từ tình thái chỉ sự cần thiết, biểu thị ý khuyên nhủ: điều đang nói đến là hay, thực hiện được thì tốt hơn.
Nên là động từ, giống với nên trong câu (4), với nghĩa thành ra được.
Nên là quan hệ từ, dùng để nối, chỉ quan hệ nguyên nhân – kết quả.
Nên là quan hệ từ, dùng để nối, chỉ quan hệ nguyên nhân – kết quả.
Nên là động từ, thuộc nhóm động từ tình thái, biểu thị ý khuyên nhủ.
Cho là động từ, với nghĩa chuyển cái thuộc sở hữu của mình sang người khác mà không đổi lấy gì cả. Từ này thuộc nhóm các động từ trao nhận (cùng với biếu, tặng…)
Cho là quan hệ từ, dùng để nối giữa mua và tôi, thể hiện mối quan hệ giữa hoạt động và đối tượng tiếp nhận hoạt động.
Cho là quan hệ từ, dùng để nối giữa hy sinh và Tổ quốc, chỉ quan hệ mục đích (tương tự như vì).
Cho nằm trong kết hợp chặt với lắm. Cho lắm là quán ngữ tình thái, biểu thị thái độ đánh giá giảm nhẹ của người nói đối với tính chất hay của vở kịch.
Cho là tình thái từ, biểu thị ý đưa đẩy.
Cho nằm trong kết hợp chặt với rồi. Cho rồi là quán ngữ tình thái, biểu thị thái độ sốt ruột, miễn cưỡng của người nói.
Cho là động từ, vì xét về mặt chức vụ cú pháp. Tuy nhiên, nó không cùng nhóm với động từ cho trong câu (10). Nó thuộc nhóm các động từ sai khiến (cùng với cho phép, yêu cầu, đề nghị…)
Về là quan hệ từ, dùng để nối, chỉ điều sắp nêu ra là một phạm vi nào đó.
Về là động từ, chỉ sự vận động, di chuyển (cùng nhóm với ra, vào, lên, xuống…).
Có thể chấp nhận 2 đáp án:
Từ là động từ, chỉ hoạt động bỏ, không nhìn nhận.
Từ là quan hệ từ, dùng thành cặp để nối: từ… đến….
Từ là quan hệ từ, dùng để nối trạng ngữ với nòng cốt câu. (Lưu ý, đây là câu đảo vị ngữ - chủ ngữ. Trật tự thông thường phải là: Từ ấy nắng hạ bừng trong tôi).
Kết hợp những + danh từ + là + danh từ là kết hợp chặt. Có thể xem toàn bộ kết hợp là quán ngữ tình thái, dùng để nhấn mạnh vào mức độ nhiều của sự vật (giống như trường hợp: Chợ đông, những người là người).
Những là tình thái từ, biểu thị hàm ý đánh giá: Giá của chiếc áo này là 200 ngàn, theo quan điểm của người nói, là đắt.
Những là phụ từ, phụ cho danh từ vấn đề, mang ý nghĩa số nhiều.
Những là phụ từ, chuyên phụ cho danh từ, mang ý nghĩa số nhiều như trường hợp (25). Tuy nhiên, danh từ ở đây đã bị lược bỏ. Câu đầy đủ phải là: Lâu nay, anh đi những nơi đâu, làm những việc gì?
Những là tình thái từ, biểu thị hàm ý nhấn mạnh: Tôi rất mong và lúc nào cũng mong cô hạnh phúc, song dường như cô không được hạnh phúc trọn vẹn như tôi mong muốn.
Những nằm trong kết hợp chặt của cặp quan hệ từ không những… mà còn; biểu thị ý nghĩa tăng tiến.
Hết là động từ, vì nó biểu thị trạng thái, với nghĩa không còn nữa.
Hết là tình thái từ, biểu thị hàm ý khẳng định kiên quyết của người nói.
Quyến rũ là tính từ, vì nó chỉ đặc điểm; có khả năng kết hợp với phụ từ chỉ mức độ rất.
Quyến rũ là động từ, vì nó chỉ hoạt động; có khả năng kết hợp với phụ từ chỉ thời gian đã.
Quyến rũ là danh từ, vì nó kết hợp với sự – danh từ trống nghĩa. Toàn bộ kết hợp sự quyến rũ được xem là một danh từ chỉ khái niệm trừu tượng.
Thật là tình thái từ, thể hiện sự thừa nhận của người nói đối với nội dung câu.
Thật là tính từ, vì xét về ý nghĩa ngữ pháp, nó chỉ đặc điểm (đối lập với giả)
Thật là tình thái từ, biểu hiện hàm ý khẳng định; việc anh ta đi đối với tôi là khá bất ngờ.
Thật là tính từ, chỉ đặc điểm, với nghĩa ngay thẳng, không dối trá, không giả tạo. (Có thể xác định bằng tiêu chí khả năng kết hợp: Nó nói rất thật lòng.)
Thật là phụ từ, vì nó phụ cho tính từ căng thẳng, biểu thị ý nghĩa mức độ (cùng nhóm với rất, hơi…)
Kết hợp quá lời được xem là một kết hợp chặt, là động từ, mang nghĩa nói những lời quá đáng, xúc phạm người khác.
Quá là phụ từ, biểu hiện ý nghĩa mức độ cho tính từ đẹp (cùng nhóm với rất, hơi, vô cùng…)
Quá quắt là tính từ, vì nó chỉ tính chất, với nghĩa vượt qua cái mức mà người ta có thể chịu đựng nổi.
Mới là phụ từ, vì nó bổ sung cho động từ mua ý nghĩa thời gian: hoạt động mua là hoạt động diễn ra trong quá khứ, gần sát với thời điểm nói.
Mới là tính từ, vì nó chỉ tính chất của chiếc xe (ngược nghĩa với cũ)
Mới là tình thái từ, vì nó biểu hiện hàm ý đánh giá: Việc hắn xin về hưu năm 40 tuổi được đánh giá là sớm so với chuẩn thông thường.
Mới là tình thái từ, kết hợp thành cặp với đã. Cấu trúc mới A đã B biểu thị hàm ý đánh giá: Sự việc diễn ra sớm so với chuẩn thông thường.
Mới là tình thái từ, vì nó biểu hiện hàm ý đánh giá: Việc mai mẹ cháu về được đánh giá là lâu.
Mới là tình thái từ, vì nó biểu hiện hàm ý đánh giá: Việc anh ta giải xong bài toán chỉ được thực hiện với một khoảng thời gian nhất định, khoảng thời gian ấy là dài.
Đồng ý là động từ, vì nó kết hợp với phụ từ chỉ thời gian đã.
Đồng ý là danh từ, vì nó kết hợp với một danh từ trống nghĩa: cách. Toàn bộ kết hợp cách đồng ý cũng có thể được xem là một danh từ trừu tượng.
Vì là động từ quan hệ, vì nó là trung tâm của vị ngữ. (Có thể dựa vào tiêu chí khả năng kết hợp: Tôi đãvì anh).
Vì là một quan hệ từ. Nó nối hai vế trong câu ghép, vế chứa nó chỉ nguyên nhân.
Vì là quan hệ từ, nó nối trạng ngữ với nòng cốt câu, biểu thị quan hệ mục đích.
Mấy là đại từ nghi vấn, vì nó được dùng để hỏi.
Kết hợp biết mấy là quán ngữ tình thái, biểu thị sự khẳng định, nhấn mạnh: Tình yêu của anh dành cho em là nhiều.
Mấy là số từ, vì nó chỉ số lượng. Đây là số từ chỉ số lượng ước chừng (cùng nhóm với vài, dăm).
Vừa là quan hệ từ, kết hợp thành cặp: vừa… vừa…, dùng để nối.
Vừa là tính từ, vì nó chỉ đặc điểm: khớp, đúng, hợp về mặt kích thước.
Vừa là phụ từ, vì nó bổ sung ý nghĩa thời gian cho hoạt động đến: hoạt động này diễn ra trong quá khứ, gần sát với thời điểm nói (cùng nhóm với mới).
Vừa là tính từ, chỉ tính chất: thuộc cỡ không lớn, không nhỏ.
Vừa là tình thái từ, kết hợp thành cặp với đã, biểu thị hàm ý đánh giá: Việc cô ấy vừa đến đã đi ngay là nhanh.
Để là động từ, vì nó chỉ hoạt động, với nghĩa: làm cho ở vào một vị trí nào đó. (Tương tự như đặt)
Để là quan hệ từ, nó nối động từ trung tâm với bổ ngữ; chỉ mục đích.
Để là quan hệ từ, nó nối trạng ngữ chỉ mục đích với nòng cốt câu.
Để là động từ, nhưng không giống với từ để trong câu (61). Trong câu này, nó mang ý nghĩa cầu khiến.
Để bụng là động từ, với nghĩa: giữ trong lòng không nói ra.
Lại là phụ từ, biểu thị ý nghĩa cách thức cho hành động giảng.
Lại là quan hệ từ, được dùng thành cặp với đã, biểu thị quan hệ tăng tiến.
Lại là động từ, vì nó biểu hiện ý nghĩa vận động di chuyển. Nó cùng nhóm với các từ ra, vào, lên, xuống.
Là là động từ quan hệ (hay hệ từ), nó biểu thị quan hệ đồng nhất.
Là là quan hệ từ, vì nó được dùng để nối động từ tin với bổ ngữ Hùng sẽ thành công. Nó cùng nhóm với rằng.
Là là quan hệ từ, kết hợp thành cặp với đã, dùng để nối.
Là là tình thái từ, dùng trong kết hợp: A ơi là A, nhằm nhấn mạnh A.
Là là quan hệ từ, dùng để nối.
Là là động từ, vì nó chỉ hoạt động.
Trước là phụ từ, bổ sung ý nghĩa cách thức cho động từ nói.
Trước là quan hệ từ, vì nó dùng để nối trạng ngữ với nòng cốt câu. Về mặt vị trí, nó đứng trước danh từ (sân).
Trước là danh từ, chỉ vị trí, vì nó đứng sau danh từ (cổng).
Trước saulà danh từ, chỉ vị trí, bao gồm cả phía trước và phía sau.
Trước là danh từ, biểu thị ý nghĩa: khoảng của những thời điểm đã đến rồi, khi thời điểm lấy làm mốc nào đó còn chưa đến.
Với là quan hệ từ, biểu thị quan hệ đẳng lập, dùng để nối hai danh từ người với nhau.
Với là phụ từ, bổ sung ý nghĩa cách thức cho động từ gọi, biểu thị hướng của hành động, nhằm tới một đối tượng ở một khoảng cách hơi quá tầm. (Cùng nhóm với ngay, liền, luôn, mãi, nữa, dần).
Với là quan hệ từ, vì nó dùng để nối.
Với là phụ từ, phụ cho động từ đợi, bổ sung ý nghĩa mệnh lệnh.
Với là động từ, vì nó chỉ hoạt động, với nghĩa: vươn tay ra cho tới một vật ở hơi quá tầm tay của mình.
Rằng là quan hệ từ, vì nó dùng để nối động từ trung tâm (tin) với bổ ngữ (anh ta phản bội). Trường hợp này, nó có thể thay bằng là.
Rằng là động từ, vì nó chỉ hoạt động nói năng (tương tự như nói, bảo).
Rằng là quan hệ từ, kết hợp thành cặp tuy rằng… nhưng; dùng để nối hai vế trong câu ghép, biểu thị quan hệ đối lập.
Được là động từ, vì xét về mặt chức vụ cú pháp, nó là trung tâm của vị ngữ. Đây là động từ thuộc nhóm động từ chỉ tình thái bị động (cùng nhóm với bị)
Được là phụ từ, nó bổ sung ý nghĩa kết quả cho động từ giải.
Đã là tính từ, vì nó chỉ tính chất, mang nghĩa hết cảm giác khó chịu, do nhu cầu sinh lý hoặc tâm lý nào đó đã được thoả mãn đến mức đầy đủ.
Đã là phụ từ chỉ mệnh lệnh, vì nó bổ sung ý nghĩa mệnh lệnh cho động từ uống, biểu thị việc vừa nói đến cần được hoàn thành trước khi làm việc nào khác.
Đã nằm trong cấu trúc chưa… đã, mang tính chất của một tình thái từ, biểu thị hàm ý đánh giá: sớm hơn chuẩn thông thường.
Đã là tình thái từ, vì nó mang hàm ý đánh giá: Việc ngày mai tôi có mặt ở nhà được đánh giá là sớm.
Đã là phụ từ chỉ thời gian, vì nó bổ sung ý nghĩa thời gian cho động từ đến. Nó chỉ ra rằng hành động đến đã diễn ra trước thời điểm nói.
Đã nằm trong cấu trúc mới… đã, là tình thái từ biểu thị hàm ý đánh giá sớm hơn bình thường.
Đã nằm trong cấu trúc đã… lại còn, là tình thái từ biểu thị hàm ý nhấn mạnh, tăng tiến.
Đã là tình thái từ, nhấn mạnh khoảng thời gian năm năm là nhiều.
Lắm là tính từ, vì nó biểu thị tính chất nhiều về số lượng.
Lắm là phụ từ, vì nó bổ sung ý nghĩa mức độ cho động từ yêu.
Thành công là động từ, vì nó kết hợp với đã - một phụ từ chỉ thời gian.
Thành công là danh từ trừu tượng, vì nó kết hợp với sự – một danh từ trống nghĩa. (Tất cả các kết hợp có sự đứng đầu đều là danh từ trừu tượng). |