"Thanh Chương mời bạn về thăm" Sáng tác: Phan Thanh Chương; "Nhớ lắm quê mình ơi" Sáng tác: Hồ Hữu Thới; "Trở lại Thanh Chương" Sáng tác: Trần Hoàn; "Thanh Chương mến thương" Sáng tác: An Thuyên; "Lời ru tháng Chín" Sáng tác: Tân Huyền; "Khúc hát sông quê" Thơ: Lê Huy Mậu, nhạc: Nguyễn Trọng Tạo; "Mơ quê" Sáng tác: Nguyễn Tài Tuệ; "Ngọt ngào Thanh Chương" Sáng tác: Như Khôi; "Đêm xuân Thanh Mai" Thơ: Trần Duy Ngoãn, nhạc: Ngô Quốc Tính; "Về Thanh Chương" Sáng tác: Lê Văn Hoan; Show Toạ độ: 18°44'22"N 105°13'8"E Thị trấn Thanh Chương được thành lập theo Quyết định số 141/QĐ-HĐBT ngày 27 - 10 - 1984 của Hội đồng Bộ trưởng, trên cơ sở tách 64ha của xã Đồng Văn, 124ha của xã Thanh Đồng và 92ha của xã Thanh Ngọc.
Ngày 27/10/1984, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), ban hành Quyết định số 141/QĐ-HĐBT, Dùng được lấy tên mới là Thị trấn Thanh Chương. Từ đó, trong các văn bản hành chính đều thống nhất tên gọi là thị trấn Thanh Chương nhưng địa danh Dùng vẫn được lưu giữ trên cột số hay giao dịch, trao đổi dân sự,... 2. Vị trí địa lý và địa giới hành chính b) Địa giới hành chính 3. Sơ lược về Thị trấn Thanh Chương qua các thời kỳ lịch sử Xa xưa, đây là vùng hoang vắng, hẻo lánh. Đã từng có câu ca: Khi mô cho hết Truông Dùng/ Cho qua Truông Rạng, cho cùng Truông Si. Qua bao thế kỷ chống chọi với thiên tai, thú dữ và giặc giã để tồn tại và phát triển, cư dân ở đây ngày càng đông đúc và tiếp nhận nhiều nguồn dân cư - chủ yếu từ phương Bắc về khai khẩn, lập nghiệp. Huyện Thanh Chương xưa nằm hoàn toàn phía hữu ngạn sông Lam. Vùng tả ngạn sông Lam (từ Thanh Hưng xuống Thanh Khai ngày nay) thuộc huyện Nam Đường (Nam Đàn). Năm 1831, Vua Minh Mệnh cắt tổng Đặng Sơn, phía trên của Thanh Chương để lập huyện mới Lương Sơn (Nay là Anh Sơn và Đô Lương). Thời vua Thành Thái (1889 - 1907), cắt tổng Nam Kim ở phía cuối của Thanh Chương sáp nhập vào huyện Nam Đàn. Đổi lại, phần lớn tổng Xuân Lâm (trước gọi là Lâm Thịnh) và toàn bộ tổng Đại Đồng của Nam Đàn (từ Thanh Khai lên Thanh Hưng ngày nay) được sáp nhập với huyện Thanh Chương. Xa xưa, huyện lỵ Thanh Chương được đặt ở Tổng Bích Triều. Từ thời Thành Thái, trung tâm huyện đặt tại Rộ (xã Võ Liệt) cho đến sau Cách mạng Tháng Tám-1945. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, trên cơ sở 5 tổng cũ, huyện Thanh Chương chia thành 12 xã. Lúc này, tổng Đại Đồng có hai xã Đại Đồng và Đồng Văn. Lúc bấy giờ Dùng thuộc xã Đồng Văn. Đầu năm 1954, Thanh Chương chia thành 41 xã mới. Xã Đại Đồng chia thành 5 xã là: Thanh Hưng, Thanh Văn, Thanh Tường, Thanh Đồng và Thanh Phong. Xã Đồng Văn chia thành 3 xã là: Thanh Ngọc, Thanh Luân và Thanh Tài. Dùng thuộc một phần của xã Thanh Ngọc, một phần của Thanh Luân, một phần của Thanh Đồng. Trong kháng chiến chống Pháp (1946 -1954), chống Mỹ (1965-1973), cơ quan huyện sơ tán đến nhiều địa điểm khác nhau và cũng chỉ là nơi chỉ huy, hành chính, không đồng nghĩa với trung tâm về kinh tế, văn hóa, xã hội. Về cơ bản, sau ngày hoà bình lập lại (tháng 7/1954), Dùng là huyện lỵ của Thanh Chương cho đến ngày nay. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, Dùng được lần lượt đầu tư xây dựng cơ quan Huyện ủy, UBND huyện, Công an, Quân sự huyện, Trường Cấp III Thanh Chương, Bệnh viện huyện, Nhà máy Diêm, Nhà máy Đường, Nhà máy mì sợi, Xí nghiệp Quyết Thắng, Xí nghiệp Dược phẩm, Xí nghiệp Thủy lợi, Cửa hàng Bách hóa, Cửa hàng ăn uống, Bưu điện, Ngân hàng Nhà nước,... Ngày 19/3/1965, Mỹ ném bom xuống Dùng, Rạng. Hàng chục người chết và bị thương. Nhiều cơ quan, trường học, tài sản của Nhân dân bị phá hoại nghiêm trọng. Các cơ quan, công sở, trường học lại tiếp tục sơ tán. Sau năm 1973 mới từng bước trở lại khôi phục. Ngày 27/10/1984, theo Quyết định số 141/QĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), thành lập Thị trấn Thanh Chương, trên cơ sở tách 64ha của xã Đồng Văn, 124 ha của xã Thanh Đồng và 92 ha của xã Thanh Ngọc. Ngày 11/10/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 96/NQ-CP điều chỉnh địa giới hành chính thị trấn Thanh Chương trên cơ sở sáp nhập thêm 358,1ha diện tích tự nhiên và 1.871 nhân khẩu của xã Thanh Ngọc; 13,23ha diện tích tự nhiên và 357 nhân khẩu của xã Đồng Văn. Ngày 17/07/2019, Hội đồng Nhân dân tỉnh Nghệ An ban hành Nghị quyết số 08/NQ-HĐND về việc sáp nhập, đổi tên xóm, khối, bản trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Thị trấn Thanh Chương từ 15 khối sáp nhập thành 07 khối và lấy tên các khối từ Khối 1A đến Khối 7A. Ngày 19/5/2018, thị trấn Thanh Chương đã được UBND tỉnh Nghệ An công nhận là đô thị loại V và hiện nay đang trong quá trình hướng tới xây dựng Thị trấn Thanh Chương trở thành đô thị loại IV. 4. Điều kiện tự nhiên Đường giao thông: Đường quốc lộ 46B, trên cơ sở nâng cấp đường 15B chạy dọc thị trấn 3,8 km, là trục chính nối thị trấn Thanh Chương với Vinh, Đô Lương. Trên địa bàn hiện có 10,1 km đường nhựa, 21,2 km đường xi măng, 4 km đường cấp phối,... Trong đó đã có 30 tuyến đường được mang tên các danh nhân. Về sông ngòi: Sông Lam chạy dọc huyện, ngăn cách thị trấn với Thanh Lĩnh và các xã vùng hữu ngạn. Sông bồi đắp phù sa màu mỡ ven sông, cung cấp nguồn hải sản, là nơi cấp và thoát nước, phục vụ cho sản xuất và đời sống, là nguồn cát sạn làm vật liệu xây dựng quan trọng. Xa xưa, sông Lam còn là tuyến giao thông đường thủy quan trọng. Tuy nhiên, những năm mưa to, lụt lớn, sông Lam cũng đe dọa đến sản xuất và đời sống. Rào Gang (sông Đa Cương), không chỉ là nguồn nước giúp ích cho sản xuất, sinh hoạt mà còn có ý nghĩa thoát nước cho thị trấn và các xã lân cận, chảy xuống Tổng Xuân Lâm ra sông Lam. Về thổ nhưỡng: Vùng ven sông, suối, soi bãi, chủ yếu là đất phù sa, pha cát, đất thịt nhẹ có thể trồng cây lương thực, rau màu. Vùng đồi núi chủ yếu là đất feralit đỏ vàng, một số ít bị bào mòn, trơ sỏi đá, chua phèn, bạc màu, có thể trồng cây ăn quả. Một số ruộng quanh chân đồi trũng thấp, lầy thụt được cải tạo thành ao hồ. Về khí hậu: Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, thị trấn Thanh Chương có chung đặc điểm khí hậu của vùng Bắc Trung Bộ. Khí hậu chia thành hai mùa khá rõ. Mùa nắng nóng từ tháng 4 đến tháng 9, nóng nhất là tháng 7, kèm theo gió phơn Tây Nam (còn gọi là gió Lào) gây khô nóng, hạn hán, nhiệt độ cao nhất lên đến trên 40°C. Mùa lạnh từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ thấp nhất có khi xuống dưới 10°C. Lượng mưa bình quân hàng năm khoảng 1.500mm. Lượng mưa phân bố không đều, lớn nhất vào tháng 8, 9, 10, thường gây ngập úng; thấp nhất từ tháng 1 đến tháng 3 hàng năm, kèm theo gió mùa Đông Bắc gây giá rét. Hàng năm, thường chịu ảnh hưởng từ 2 - 4 cơn bão, sức gió từ cấp 7 đến cấp 10, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Về khoáng sản: Hiện tại, chưa phát hiện tài nguyên khoáng sản gì đáng kể. Chỉ có cát sạn từ sông Lam; một vùng có mỏ đất sét, tạo điều kiện cho việc tạo nguồn vật liệu xây dựng. 5. Dân số, lao động b) Lao động 6.Dân tộc, tôn giáo b) Về tôn giáo Nét nổi bật là người dân chịu khó, chăm chỉ, có ý chỉ vươn lên. Một bộ phận buôn bán nhỏ, hàng vặt, nhưng nhờ tiết kiệm, “góp gió thành bão” mà tạo cho mình cuộc sống ổn định. Nhiều gia đình từ buôn bán nhỏ mà làm nên những của hàng, cửa hiệu khá giả, có uy tín. Khác với cư dân những đô thị mới, đô thị lớn, cư dân ở đây có truyền thống đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Do thử thách trong quá trình chống chọi với thiên tai, giặc dã, người dân cố kết cộng đồng, “tối lửa tắt đèn có nhau”. Tôn giáo, tín ngưỡng được tự do và tôn trọng theo đúng pháp luật. Phần lớn cư dân theo đạo thờ cúng Tổ tiên, ông bà; có cơ sở thờ tự Phật giáo (chùa Ngưu tử), có 26 hộ dân với 56 người theo đạo Thiên chúa. Bà con lương, giáo, giới phật tử tôn trọng lẫn nhau, chung sống lành mạnh với nhau trên địa bàn. 8. Một số thông tin, tình hình, số liệu về phát triển kinh tế 9. Một số thông tin, tình hình, số liệu về văn hóa-xã hội 10. Vài nét về quốc phòng, an ninh Tin tưởng rằng với sự quan tâm của Huyện ủy – HĐND – UBND, các Ban, Ngành, Đoàn thể cấp huyện, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Thị trấn Thanh Chương sẽ khắc phục mọi khó khăn, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị trấn Thanh Chương nhiệm kỳ 2020-2025, đoàn kết chung sức thi đua thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, thi đua xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống, thu nhập người dân, hướng đến đơn vị đạt chuẩn đô thị văn minh vào năm 2024./. Huyện Thanh Chương có bao nhiêu xã và thị trấn nêu cụ thể tên xã thị trấn?1 - Xã Cát Văn chia thành 3 xã là: Thanh Cát, Thanh Bài và Thanh Bình. 2 - Xã Minh Sơn chia thành 4 xã là: Thanh Đức, Thanh Mỹ, Thanh Nho và Thanh Hòa. 3 - Xã Tam Đồng chia thành 3 xã là: Thanh Tiên, Thanh Liên và Thanh Chung. 4 - Xã Đồng Thanh chia thành 2 xã là: Thanh Hương và Thanh Lĩnh.
Huyện Nam Đàn có bao nhiêu xã thị trấn?Huyện Nam Đàn có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Nam Đàn (huyện lỵ) và 18 xã: Hồng Long, Hùng Tiến, Khánh Sơn, Kim Liên, Nam Anh, Nam Cát, Nam Giang, Nam Hưng, Nam Kim, Nam Lĩnh, Nam Nghĩa, Nam Thái, Nam Thanh, Nam Xuân, Thượng Tân Lộc, Trung Phúc Cường, Xuân Hòa, Xuân Lâm.
Huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An có bao nhiêu xã?Huyện Yên Thành có 38 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm các xã: Hậu Thành, Hùng Thành, Bảo Thành, Bắc Thành, Công Thành, Đô Thành, Đồng Thành, Đức Thành, Hồng Thành, Hợp Thành, Hoa Thành, Khánh Thành, Lăng Thành, Liên Thành, Long Thành, Lý Thành, Mã Thành, Minh Thành, Mỹ Thành, Nam Thành, Nhân Thành, Phúc Thành, Phú ...
Huyện Thanh Hà Hải Dương có bao nhiêu xã?Huyện Thanh Hà có thị trấn Thanh Hà và 24 xã: An Lương, Cẩm Chế, Hồng Lạc, Hợp Đức, Liên Mạc, Phượng Hoàng, Quyết Thắng, Tân An, Tân Việt, Thanh An, Thanh Bính, Thanh Cường, Thanh Hải, Thanh Hồng, Thanh Khê, Thanh Lang, Thanh Sơn, Thanh Thủy, Thanh Xá, Thanh Xuân, Tiền Tiến, Trường Thành, Việt Hồng, Vĩnh Lập.
|