NGHỆ THUẬT HỌC ĐẠI CƯƠNGGeneral Artistry
Chức danh: Giảng viên Học vị: Tiến sĩ Show Đơn vị công tác: Khoa Văn học – Trường ĐH KHXH&NV – ĐH Quốc gia Hà Nội
Chức danh: Giảng viên Học vị: Tiến sĩ Đơn vị công tác: Khoa Văn học – Trường ĐH KHXH&NV – ĐH Quốc gia Hà Nội
Chức danh: Giảng viên chính Học vị: Cử nhân Đơn vị công tác: Khoa Văn học – Trường ĐH KHXH&NV – ĐH Quốc gia Hà Nội (cán bộ nghỉ hưu)
- Kiến thức Nắm được đầy đủ, chính xác kiến thức chung của môn học như: + Hiểu được khái niệm nghệ thuật là gì? Nghệ thuật khác với khoa học, chính trị và tôn giáo như thế nào? + Hiểu được đặc trưng và bản chất của nghệ thuật nói chung. + Hiểu được nguồn gốc và quá trình phát triển nghệ thuật + Hiểu được những thành tựu cơ bản của một số nền nghệ thuật tiêu biểu + Hiểu được quá trình sáng tác, thưởng thức và phê bình một tác phẩm nghệ thuật + Hiểu được đặc trưng của các loại hình nghệ thuật cụ thể như nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật sân khấu, nghệ thuật điện ảnh. - Kĩ năng: + Có kĩ năng nhận biết, thưởng thức, phân loại một tác phẩm nghệ thuật cụ thể. + Có kĩ năng phân tích, đánh giá, phê bình một tác phẩm nghệ thuật độc lập (một bức tranh, một công trình điêu khắc, kiến trúc, một tác phẩm điện ảnh, một bản nhạc, một tác phẩm thơ hay tiểu thuyết...). + Có kĩ năng vận dụng các kiến thức nghệ thuật nói chung; đặc biệt: kịch, thơ, tiểu thuyết, điện ảnh, so sánh và liên hệ giữa chúng với nhau. - Thái độ: + Có thái độ trân trọng, nghiêm túc và khoa học khi đánh giá một tác phẩm nghệ thuật cụ thể, thấy được cái hay và cái đẹp của nó. + Tự bồi dưỡng cho bản thân về tình yêu với cái đẹp trong nghệ thuật để từ đó có khả năng tạo lập được cái đẹp trong cuộc sống. + Có cái nhìn đúng đắn, khoa học khi tiếp xúc với các loại hình nghệ thuật. + Hiểu được tính cách, tâm hồn, tình cảm con người ở các dân tộc khác nhau qua các nền nghệ thuật khác nhau. Từ đó có sự trân trọng thành tựu nghệ thuật và con người Việt Nam.
9.1. Học liệu tham khảo bắt buộc: 1.Trần Hinh & Hoàng Cẩm Giang, Bài giảng Nhập môn Nghệ thuật học, Tài liệu lưu hành nội bộ, Trường ĐHKHXH & NV, 2012 2. Nguyễn Quân, Ghi chú về nghệ thuật, NXB Trẻ, 2008 3. Lê Lưu Oanh, Văn học và các loại hình nghệ thuật, NXB ĐHSP Hà Nội, 2006 4. M.Cagan, Hình thái học nghệ thuật, NXB Hội Nhà Văn, 2004 5. Nguyễn Quân, Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, NXB Tri Thức, 2010 6. Davide Bordwell & Kristin Thompson, Nghệ thuật điện ảnh, NXB GD, 2008 7. Warren Buckland, Nghiên cứu phim, NXB Tri Thức, 2010 9.2. Học liệu tham khảo thêm 8. E.H.Gombrich, Câu chuyện nghệ thuật, NXB Văn nghệ th.ph HCM, 1998 9. Nguyễn Thị Minh Thái, Phê bình tác phẩm văn hóa nghệ thuật trên báo chí, ĐHQG Hà Nội, 2005 10. Vưgôxki, Tâm lý học nghệ thuật, NXB KHXH, 1995 11. Bruno Toussaint, Ngôn ngữ điện ảnh và truyền hình, Hội Điện ảnh VN, 2007 12. Nhiều tác giả, Mỹ học và văn học kịch, NXB Sân khấu, 1984 13. Cinthia Freeland, Một đề dẫn về lý thuyết nghệ thuật, NXB Tri Thức, 2001 14. Pôxpêlốp, Dẫn luận nghiên cứu văn học, 2 tập, NXb GD,
Môn học có nội dung là những kiến thức cơ bản nhất về bản chất và nguồn gốc của nghệ thuật, các khuynh hướng và quan điểm khác nhau về quá trình hình thành, phát triển của nghệ thuật ở Phương Tây và Phương Đông, từ đó đi sâu phân tích các loại hình nghệ thuật: nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật sân khấu và nghệ thuật điện ảnh, mối quan hệ giữa các ngành nghệ thuật với nhau, đặc biệt ở những ngành nghệ thuật gần gũi với văn học như sân khấu, điện ảnh. Môn học cũng giới thiệu và phân tích mối liên hệ qua lại giữa sáng tác, thưởng thức và phê bình nghệ thuật, giữa nghệ sĩ và hiện thực đời sống xã hội, về vai trò và chức năng của mỗi loại hình nghệ thuật, tác động qua lại giữa bản thân đối tượng nghệ thuật và nhu cầu thưởng thức cái đẹp của công chúng trong đời sống xã hội
Bài 1: Bản chất của nghệ thuật 1.1. Nghệ thuật là gì? - Một số quan niệm khác nhau về cách xác định các nhóm ngành nghệ thuật. - Phạm vi của nghệ thuật. - Bản chất của nghệ thuật. - Tính năng động chủ quan trong phản ánh đời sống của nghệ thuật. 1.2. Đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật - Đối tượng phản ánh của nghệ thuật. - Phương thức phản ánh của nghệ thuật. - Đặc điểm của hình tượng nghệ thuật. 1.3. Tác dụng xã hội của nghệ thuật - Tác dụng thanh lọc của nghệ thuật. - Tác dụng nhận thức của nghệ thuật. - Tác dụng giáo dục của nghệ thuật. - Tác dụng giải trí của nghẹ thuật - Tác dụng giao tiếp của nghệ thuật - Mối quan hệ giữa các tác dụng thanh lọc, nhận thức, giáo dục, giải trí, giao tiếp của nghệ thuật. Bài 2: Nguồn gốc và lịch sử phát triển nghệ thuật 2.1. Một số học thuyết về nguồn gốc nghệ thuật 2.1.1. Thuyết Trò chơi (du hí) 2.1.2. Thuyết Biểu hiện tâm hồn 2.1.3. Thuyết Mô phỏng (bắt chước 2.1.4. Thuyết Ma thuật 2.1.5. Học thuyết Marx – Lénin về nguồn gốc nghệ thuật. - Nghệ thuật khởi nguồn từ nhu cầu tinh thần lấy thẩm mĩ làm trung tâm. - Vai trò của lao động trong nghệ thuật. - Yếu tố khách quan của sự hình thành nghệ thuật. - Mối quan hệ qua lại giữa nghệ thuật và hiện thực xã hội. - Nghệ thuật là hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng. 2.2. Lịch sử các nền nghệ thuật 2.2.1. Sự phát triển của nghệ thuật và sự phát triển của đời sống xã hội. + Sự phát triển của nghệ thuật và sự phát triển của quan niệm thẩm mĩ của con người. + Tính kế thừa trong phát triển nghệ thuật. + Ảnh hưởng và tác động qua lại giữa các nền nghệ thuật dân tộc. + Ảnh hưởng và tác động qua lại giữa các loại hình nghệ thuật. + Kế thừa truyền thống và cách tân sáng tạo trong nghệ thuật. 2.2.2. Một số thành tựu tiêu biểu trong các nền nghệ thuật Phương Tây. 2.2.3. Một số thành tựu tiêu biểu trong các nền nghệ thuật Phương Đông. 2.2.4. Một số thành tựu tiêu biểu trong nền nghệ thuật Việt Nam. Bài 3: Cấu trúc tác phẩm nghệ thuật 3.1. Nội dung của tác phẩm nghệ thuật - Nội hàm của nội dung tác phẩm nghệ thuật - Các yếu tố của nội dung tác phẩm nghệ thuật 3.2. Hình thức của tác phẩm nghệ thuật - Kết cấu của tác phẩm nghệ thuật - Ngôn ngữ nghệ thuật - Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật. Bài 4: Sáng tác, thưởng thức và phê bình nghệ thuật 4.1. Sáng tác nghệ thuật - Động cơ và quá trình sáng tác nghệ thuật - Hoạt động tư duy trong sáng tác nghệ thuật - Nguyên tắc sáng tác nghệ thuật - Phong cách và trường phái nghệ thuật. 4.2. Thưởng thức tác phẩm nghệ thuật - Tính chất của thưởng thức nghệ thuật - Qúa trình thưởng thức tác phẩm nghệ thuật - Đặc điểm tình cảm và sự đồng cảm trong thưởng thức tác phẩm nghệ thuật. 4.3. Phê bình tác phẩm nghệ thuật - Tính chất của phê bình tác phẩm nghệ thuật - Tiêu chuẩn của phê bình tác phẩm nghệ thuật - Thái độ phê bình tác phẩm nghệ thuật - Phương pháp phê bình tác phẩm nghệ thuật Bài 5: Loại hình tác phẩm nghệ thuật 5.1. Quan điểm và nguyên tắc phân chia các loại hình nghệ thuật 5.1.1. Quan điểm phân chia 5.1.2. Nguyên tắc phân chia 5.2. Một số loại hình nghệ thuật tiêu biểu 5.2.1. Nghệ thuật tạo hình 5.2.1.1. Đặc trưng của nghệ thuật tạo hình. - Ngôn ngữ của nghệ thuật tạo hình. - Phân chia nghệ thuật tạo hình - Đặc điểm thẩm mỹ của hình tượng nghệ thuật tạo hình. 5.2.2. Hội hoạ 5.2.3. Nghệ thuật điêu khắc 5.2.4.Nghệ thuật nhiếp ảnh 5.2.5. Nghệ thuật kiến trúc 5.1. Nghệ thuật ngôn từ 5.1.1. Phương thức thể hiện, đặc trưng và sự phân loại của nghệ thuật ngôn từ. - Ngôn từ và phương thức xây dựng hình tượng nghệ thuật. 5.1.2. Đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ. 5.1.3. Phân loại nghệ thuật ngôn từ. - Đặc trưng của thơ. - Đặc trưng của tiểu thuyết. 5.3. Nghệ thuật tổng hợp 5.3.1. Kịch - Đặc trưng của nghệ thuật kịch - Kịch văn học và kịch sân khấu - Kết cấu và xung đột kịch - Nhân vật trong kịch - Ngôn ngữ kịch - Phân loại nghệ thuật kịch - Xu thế phát triển của kịch hiện đại 5.3.2. Điện ảnh 5.3.2.1. Điện ảnh là gì? Một số thuật ngữ quan trọng trong điện ảnh - Khuôn hình cảnh quay trong điện ảnh - Dàn cảnh và montage trong điện ảnh - Âm thanh, tiếng động, âm nhạc và lời thoại trong điện ảnh. 5.3.2.2. Đặc trưng của nghệ thuật điện ảnh và ngôn ngữ điện ảnh - Tính sát thực - Tính hình ảnh - Tính không, thời gian - Tính mongtage - Tính tổng hợp 5.3.2.3. Phân loại tác phẩm điện ảnh 5.3.2.4. Xu thế phát triển của điện ảnh đương đại 5.3.2.5. Điện ảnh và truyền hình. ĐỀ CƯƠNG HỌC PHẦN Каталог: files tải về 2.23 Mb. Chia sẻ với bạn bè của bạn:
nghệ thuật đại cương
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.56 KB, 34 trang ) Mở đầu múa là đối tượng chính yếu của các công trình nghiên cứu khoa học nghệ thuật múa. Nhận biết, thấu hiểu những giá trị, đặc trưng, vai trò của nghệ thuật múa trong văn hóa, xã hội và tiến trình lịch sử hình thành phát triển một loại hình nghệ thuật có đặc thù riêng biệt, kể từ thời xa xưa đến ngày nay, nghệ thuật múa đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, văn hóa học, nghệ thuật học, trong đó có nghệ thuật múa. Xuất phát từ tình yêu, trách nhiệm nghề nghiệp, các nhà khoa học, nghệ sĩ múa đã tiến hành nhiều công trình khoa học với các cấp nghiên cứu khác nhau. Đó cũng là quá trình hình thành đội ngũ lý luận nghiên cứu nghệ thuật múa, tuy còn khiêm tốn, nhưng chính đội ngũ này đã gặt hái được những thành quả nhất định. Chỉ tính từ thời điểm sau Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước đến nay, ngành nghệ thuật múa đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo nghệ thuật múa và luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ về đề tài nghệ thuật múa đã bảo vệ thành công. Nghệ thuật múa thực sự là đối tượng nghiên cứu khoa học hấp dẫn, thu hút nhiều nghệ sĩ múa, nhiều nhà khoa học để tâm nghiên cứu. Theo thống kê chưa đầy đủ, ngành nghệ thuật múa đã có những kết quả sau: 28 công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, cấp Thành phố, cấp Tỉnh, cấp ngành, trong đó có các phần, chương, mục về nghệ thuật múa; 5 công trình độc lập chuyên về nghệ thuật múa, thuộc công trình cấp Bộ, cấp thành phố Hà Nội; 57 công trình sách nhiều loại, nhiều nội dung chuyên ngành về nghệ thuật múa; 60 đề tài luận văn chuyên về nghệ thuật múa dân tộc, hiện đại đã bảo vệ thành công và nhận học vị thạc sĩ, 5 đề tài luận án chuyên về nghệ thuật múa đã bảo vệ thành công và nhận học vị tiến sĩ… Từ kết quả trên, có thể kể đến những công trình, sách, đề tài, luận văn, luận án có tính đại diện để minh chứng cho những kết quả nghiên cứu khoa học chuyên ngành nghệ thuật múa Việt Nam. 1.2.sự ra đời. Nghệ thuật múa những năm đầu thế kỷ XXI, công chúng hâm mộ chủ yếu là múa tạp kỹ, nhảy múa, múa ba lê, còn khoảng cách. Ngôn ngữ múa biểu cảm có phần trừu tượng hoặc phương pháp tạo hình động biến đổi nhanh, nhiều động tác ước lệ chưa biểu cảm trực tiếp trong nhận biết số đông công chúng. Những năm 1954, sau 1975 bình thường sử dụng khái niệm “vũ”, là từ Hán bao gồm những biến thể nghệ thuật nhảy múa. Nhiều thuật ngữ Hán ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống xã hội và nghệ thuật văn hoá Việt. Sau 1954 còn sử dụng từ Hán trong ngôn ngữ giao tiếp, nhưng đa số công chúng bình dân thường sử dụng tiếng Việt gọi tên các đoàn nghệ thuật là: ban hát, đoàn kịch… không sử dụng từ Hán. Trong kháng chiến hai cách sử dụng ngôn ngữ cứ đan xen nhau, gọi là: đội tuyên văn, đội tuyên truyền Việt Minh, đoàn ca vũ… Năm 1951, Nhà nước chính thức công nhận thuật ngữ ‘đoàn văn công” khi Bộ Văn hoá ra quyết định thành lập đoàn nghệ thuật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gọi là: Đoàn [1]Văn công Nhân dân Trung ương, đến năm 1954 đổi thành Đoàn Ca vũ Nhân dân Trung ương lại thêm từ Hán (vũ) thay cho từ múa. Sau đó, Đoàn Ca vũ đổi thành Đoàn Ca múa Nhân dân Trung ương. Khái niệm ca múa phổ biến trong ngôn ngữ đại chúng và văn bản Nhà nước. Những thay đổi ấy như bước thăng trầm định mệnh, múa còn bỡ ngỡ trước công chúng, trải nhiều thập kỷ múa dần phổ biến được số đông đón nhận, xem là nét sinh hoạt văn hoá. Nhảy múa là nghệ thuạt cổ xưa, ra đời cùng loại hình âm nhạc trong bầy người nguyên thuỷ cách đây 3000 * năm trước công nguyên với đặc trưng biểu cảm trực tiếp niềm vui, sự chiến thắng, kết quả săn bắt thú… bằng động tác biểu cảm các hoạt động đời sống con người. Múa là nghệ thuật tạo hình không gian động, lấy con [2][3]người và đạo cụ làm ngôn ngữ ước lệ, tái hiện các hoạt động đời sống xã hội. Nghệ thuật nhảy múa nguyên thuỷ mang tính tôn giáo - ma thuật, chưa tách khỏi nghi lễ tâm linh. Vào thế kỷ thứ I năm 96 1 sau công nguyên, loài người phát triển nẩy sinh các thứ bậc xã hội, múa phân hoá biến đổi thành nhảy múa sinh hoạt dân dã, múa nghi lễ mang tính chuyên nghiệp trong các tu viện, nhà thờ châu Âu. Khoảng năm 476 2 , kết thúc chế độ chiếm hữu nô lệ mở ra chế độ phong kiến châu Âu kéo dài đến năm 1640 3 , đây là thời kỳ phát triển múa chuyên nghiệp, hình thành vũ công, đội múa trong các nhà quý tộc, phong kiến. Múa chuyên nghiệp chia thành nhảy múa tạp kỹ, múa ba lê. Múa tạp kỹ là tiết mục nhảy múa riêng, dựa trên chất liệu múa dân gian hoặc hiện đại cấu thành điệu nhảy mang nội dung cốt truyện, một cảnh múa, diễn trong chương trình ca múa tổng hợp nghệ thuật tạp kỹ. Múa ba lê (Balette) ra đời thế kỷ XVII (năm 1661)*, từ múa cung đình Pháp, phát triển sang Ý, Nga… là nghệ thuật tổng hợp đỉnh cao tạo hình múa. Múa ba lê, cấu trúc tác phẩm bằng các nhân tố: kịch bản văn học, âm nhạc, nhảy múa đích thực nghệ thuật tạo hình múa. Múa ba lê, cấu trúc nhiều loại nhảy múa: sô lô, tam tứ, nhảy múa tập thể – màn ba lê tạo hình. Cấu trúc vở múa ba lê sử dụng ba thành phần: Nhảy múa ba lê, múa điệu bộ ước lệ tượng trưng, nhảy múa giải trí. Múa ba lê, tạo dựng hình tượng biểu cảm nội dung tình cảm tư tưởng kịch bản múa. Múa điệu bộ, nhảy múa mang tính diễn xuất tái hiện lại những động tác biểu đạt tình cảm nhân vật, miêu tả tình huống hoàn cảnh theo sát nội dung kịch bản múa. Nhảy múa giải trí, không phát triển hành động kịch múa, là những tiết mục riêng diễn tả tính cách, trạng thái tình cảm nhân vật, hoặc tạo không khí vũ hội, xây dựng môi trường sống các nhân vật kịch múa. Những điệu nhảy ra đời năm 570 sau công nguyên ở Tây Ban Nha lan truyền sang Achentina, Áo, Mỹ… đến thời đại xã hội công nghiệp 1919, chia thành bốn loại: múa dân gian, múa tạp kỹ, kịch múa ba lê, nhảy múa sinh hoạt đại chúng ra đời cùng nhạc rock… Những năm cuối thế kỷ XX, xuất hiện nhảy múa thể thao, kết hợp con người, đạo cụ làm ngôn ngữ biểu cảm thẩm mỹ. Nhảy múa thể thao thay đổi căn bản ngôn ngữ nghệ thuật là các đạo cụ: cái vòng, rải lụa, chiếc khăn, đôi giầy ba tanh, dụng cụ nhào lộn trên không, vũ điệu dưới nước bơi tạo hình… Ngoài ra còn múa do động vật trình diễn trong rạp xiếc, bằng những động tác tự nhiên nhào lộn, nhảy theo điệu nhạc trữ tình, hài hước… mang tính mỹ học, một tinh thần trí tuệ mà công chúng khâm phục hào hứng. Múa đồ vật, là nghệ thuật tung hứng, uốn dẻo tạo hình nhào lộn trên thang, dây dọc… là những sáng tạo ngôn ngữ múa hiện đại. Ba hình thức múa mới được công nhận bởi nằm trong cấu trúc loại hình nghệ thuật không thời gian, diễn cảm trực tiếp bằng tạo hình trừu tượng, không miêu tả trong cấu trúc tác phẩm. Quá trình phát triển nhảy múa cấu thành các thể loại: múa dân gian, nhảy múa tạp kỹ, kịch múa ba lê, nhảy múa thể thao, nhảy múa đại chúng có hàng chục loại biến tướng khác nhau rock – rap, rock, hard rock, pop rock, rock heavy me tal, rock & roll, rock dance… nhảy múa động vật, nhảy múa đồ vật. Những hình thức nhảy múa mới ra đời là sự lớn mạnh nghệ thuật múa, đáp ứng mọi đối tượng khán giả mang tính đại chúng. 1.2.Đặc trưng nghệ thuật múa. 2.Lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật múa. Từ nghệ thuật múa dân gian truyền thống… Nghệ thuật múa Việt Nam từ khi hình thành đã mang dấu ấn của cư dân nông nghiệp gắn bó với thiên nhiên, muông thú với các vũ điệu tả cảnh sản xuất, săn bắn. Những hình ảnh đời thường đi vào múa được cách điệu hay đúng hơn là nghệ thuật hoá bằng tài năng của người nghệ sĩ. Cho nên nghệ thuật múa giữ vị trí quan trọng và là một thành tố trong văn hoá Việt Nam. Đời sống cộng đồng, cộng cảm được thể hiện rõ nét qua múa, vì nó không phải là sự diễn tấu của một người mà là hoạt động của một nhóm người sử dụng nghệ thuật để phục vụ quần chúng. Thực tế rất khó định mốc được thời gian ra đời của nghệ thuật múa Việt Nam. Nhìn chung, các nghiên cứu chỉ ra rằng nghệ thuật múa đã ra đời từ kho tàng diễn xướng dân gian (gồm cả phục vụ tín ngưỡng và nhu cầu thưởng thức của con người). Nếu như trước thế kỷ X múa thường được dùng trong tín ngưỡng, thì từ khi có nhà nước độc lập, nghệ thuật múa đã phát triển rộng hơn trong dân gian và được nâng cao về nghệ thuật bởi triều đình phong kiến. Hầu như phải đến dịp hội làng, tế lễ nơi tôn miếu, người nông dân làng xã mới có dịp thưởng thức nghệ thuật múa, nhưng nó đã ăn sâu vào tiềm thức của họ, và chính họ lại tác động trở lại, phát triển múa dân gian. Múa dân gian và múa cung đình phát triển trong những điều kiện không giống nhau và có cách tiếp cận riêng của từng loại. Điều đó chủ yếu phụ thuộc vào những người tổ chức, diễn viên và khán giả tiếp nhận. Đề cập tới múa dân gian có thể cho thấy sự phát triển của loại hình này và vai trò của nó trong lịch sử. Múa dân gian là loại hình nghệ thuật múa được biểu diễn trong quần chúng do những người diễn viên không chuyên biểu diễn. Bình thường họ là những người nông dân, khi hội làng, hội tế cần họ tham gia tập luyện và biểu diễn. Triều đình phong kiến thể hiện sự quan tâm và có định chế rõ ràng để nhân dân thực hiện. Năm 1025, Lý Thái Tổ đặt chức quản giáp cho những người múa hát phục vụ ở làng xã, khi mở hội vào đám tế xuân. Thời kỳ này đã xuất hiện các phường múa do nhân dân tự tổ chức. Nhà Trần phát triển múa hát dân gian làm tăng tinh thần và hoà khí nhân dân, góp phân đoàn kết dân tộc. Nhưng vào thời hậu Lê, múa hát dân gian bị hạn chế, đặc biệt múa hát của các dân tộc thiểu số bị coi thường. Đến thời Nguyễn, múa dân gian và cung đình đã tách rời nhau. Múa cung đình tập trung vào chức năng lễ thức hoặc biểu tượng vương quyền, còn múa dân gian được bảo lưu bằng những phong tục, lễ nghi. Trong múa dân gian, nhóm cổ nhất được quy vào những điệu múa phản ánh lễ nghi nông nghiệp như: múa Chạy Cày, Tùng rí, múa Mo. Chúng là những điệu múa không có hát mà diễn theo nhịp trống chiêng với âm hình, tiết tấu khá đơn giản. Nhóm muộn hơn được sáng tác trong thời phong kiến dân tộc, gắn với tục thờ Thành Hoàng, anh hùng giải phóng dân tộc như điệu múa Dậm ( Thờ Lý Thường Kiệt), múa Dô ( Thờ Tản Viên và bộ tướng của ông), múa Xuân Phả (Pha trộn yếu tố cung đình và dân gian)… Nội dung múa dân gian có 3 điệu chính: Cầu thần linh hoặc chào hỏi, Sản xuất hoặc chiến đấu chống thiên tai, ngoại xâm; Tình yêu lao động. Ngôn ngữ của múa dân gian chủ yếu là các động tác phản ánh quá trình lao động của người dân làng xã: đi cấy, đánh cá, săn thú,…Song nó không quá dễ dãi muốn thể hiện sao cũng được. Người Việt có những điệu múa trống, đèn, quạt và đặc biệt là những động tác múa tay không với tính chất nổi bật là sự mềm mại, uyển chuyển, trữ tình, khoan thai. Người nghệ sỹ đưa vào động tác múa tính hài hoà đăng đối của vẻ đẹp; động tác thể hiện cả giới tính của nhân vật: nữ múa mềm mại, uyển chuyển, khoan thai, múa tay là chính với những đường tròn trĩnh, uốn lượn, không gãy góc, cơ thể không vận động mạnh, chân thường khép kín và dùng gối; múa nam phóng khoáng với động tác tay chân mở rộng, khoẻ nhưng trong cứng có mềm. Đồng thời tình cảm và tính cách nhân vật cũng được thể hiện ở động tác múa. Những đường nét lượn sóng được thể hiện qua nhiều động tác múa, tuyến múa, đội hình múa làm tôn nên sắc thái văn hoá lúa nước và những vẻ duyên dáng, tinh tế, kín đáo của người Việt. Những điệu múa ô, múa khèn của người Mông, những điệu múa khiên, múa giáo của các dân tộc Tây Nguyên, xét về mặt luật động, tạo hình và tuyến múa nó có nhiều điểm phong phú và khác biệt. Chính vì lẽ đó, nên trong mỗi tác phẩm múa đòi hỏi người biên đạo múa phải nắm bắt được một cách chính xác những yếu tố ngôn ngữ, đội hình, cấu trúc múa và những yếu tố môi trường, xã hội, phong tục, tập quán, phần “hồn”, phần “sắc” riêng biệt của mỗi dân tộc. Ví dụ như: động tác vai nữ chính (Tiểu Kính) khác với động tác vai nữ lệch (Thị Màu). Tiểu Kính guộn đổi ngón tay một cách chân phương, tuần tự, còn Thị Màu guộn đổi ngón tay một cách ngoắt ngoéo và chuyển động tác đột ngột: khi thì chậm rãi, khi thì nhanh và dừng ở thế ngón tay dở dang. Tính chất ước lệ có trong múa dân gian nhưng không quá siêu thực, huyền bí, không đồ sộ, lộng lẫy mà bình dị, trong sáng, hài hoà cân đối, phản ảnh quan niệm thẩm mỹ của dân tộc. Sinh hoạt văn hoá thông qua biểu diễn múa được người dân thưởng thức cả trên phương diện cảm thụ và hiểu biết. Sự phát triển của múa dân gian trong cộng đồng đưa đến sự phong phú về làn điệu và tích diễn. Người nghệ sĩ dân gian xuất phát từ làng quê, gắn bó với cuộc sống nông thôn nên họ hiểu và diễn gần với đời sống của người dân làng xã hơn. Mỗi miền có những điệu múa đặc trưng và cũng có khi sự đặc trưng ấy được lan toả ra nhiều cộng đồng người ở khu vực khác. Sự di chuyển từ không gian văn hoá này tới không gian văn hoá khác, tự thân nghệ thuật múa không làm được, mà chính giá trị của nó đã đưa đến nhiều vùng khác nhau. Khi phân loại các điệu múa dân gian, điều đáng chú ý là sự xuất hiện phổ biến của điệu múa chèo thuyền ở mọi miền đất nước, đi vào sinh hoạt văn hoá tinh thần của các cộng đồng ở nhiều khu vực khác nhau. Nhờ có sự giao lưu văn hoá giữa nhiều tộc người đã tạo ra nét phong phú cho điệu múa chèo thuyền. Múa Dô ( Ở đền Khánh Xuân) hay còn gọi là Xuân ca cung tại làng Liệp Tuyết, xã Liệp Hạ, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Đây là điệu múa thờ thần Tản Viên và các bộ tướng của ông. Trong các phần như hát thờ, hát chúc, hát dâng hương, dâng rượu có múa tay ( Tay cầm quạt tượng trưng cho mái chèo). Các tay chèo (gọi là “con”) đứng thành hai hàng dọc, hướng thẳng vào bàn thờ và hát vừa xô làm động tác chèo thuyền. Tay chèo thuyền (bằng quạt), chân trái hơi chùng gối, chân phải hơi nhún khi tiến khi lùi, người hơi đổ về phía trước (không gian là hai vuông chiếu vải). Ở Hà Tây có hội hát chèo Tầu khá nổi tiếng. Đây là hình thức diễn xướng dân gian tổng hợp, vừa hát vừa múa có các trò chơi. Các bài hát có dân ca nghi lễ (hát thờ) và dân ca trữ tình (hát bỏ bộ). Hội hát chèo tầu bắt đầu từ ngày rằm đến hết ngày 23 tháng Giêng, diễn ra ở Tổng Gối (Phủ Hoài Đức), nay là xã Tân Hội, Huyện Đan Phượng, Tỉnh Hà Tây. Để chuẩn bị cho buổi hát, người ta làm thuyền rồng bằng gỗ dài 4-5m, rộng 2m, đủ chỗ cho 13 cái tầu và con tầu (người) đi lại ca hát, ở giữa có lầu nhỏ trên cắm cờ hội và 13 cái lọng cho 13 người. Ngoài thuyền ra người ta còn làm những con voi có cắm cờ. Cả voi và thuyền được gắn bánh xe gỗ cho dễ di chuyển. Hát chèo tàu có 3 hình thức: khấn, xô và ca khúc. Trong khi hát người hát phải kết hợp với động tác múa như đang chèo thuyền. Hội Hát Bả Trạo khá phổ biến ở vùng đồng bằng duyên hải miền Trung. Nó gắn liền với tục thờ cá ông của ngư dân vùng ven biển. Tham gia hát Bả Trạo là những ngư dân trong làng chài, được lựa chọn kỹ và mặc trang phục truyền thống khi hát. Đội Bả Trạo gồm: tổng mũi, tổng lái và khoảng 10 thuyền viên. Tất cả đều tay cầm dầm chèo được sơn phết đủ các màu. Đội hát được sắp xếp theo đội hình như một chiếc thuyền: phía trước là Tổng mũi, sau là Tổng lái và hai bên là các thuyền viên. Họ vừa đi vừa làm động tác chèo thuyền và hát, Ngoài những hội hát có sử dụng động tác múa chèo thuyền ở trên, hầu hết các địa phương của Việt Nam đều có những lễ hội truyền thống có sử dụng điệu múa này. Sự phát triển của điệu múa chèo thuyền từ cụ thể đến cách điệu ( cầm quạt thay cho cầm mái chèo), nhưng không vì thế mà ý nghĩa của nó thay đổi. Sở dĩ có sự chuyển biến là do không gian biểu diễn khác nhau. Ngoài mục đích tín ngưỡng, điệu múa này đã thể hiện tình yêu lao động và sức sáng tạo văn hoá của người Việt Nam. Từ hình ảnh cụ thể của đời sống, con người đã nhân cách hoá thành hình tượng nghệ thuật. Qua hàng trăm năm, nghệ thuật múa của người Việt Nam đã phát triển không ngừng, từ điệu thức đơn giản đến phức tạp, từ quy mô một vùng mở rộng ra nhiều khu vực và phát triển với nhiều hình thức khác nhau, trở thành bản sắc văn hoá Việt Nam. …Đến sự kế thừa và phát triển nghệ thuật múa Việt Nam trong thời kỳ mới Bước sang thế kỷ XXI – thế kỷ của thông tin, khoa học, công nghệ, xu thế toàn cầu hoá trên các mặt kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá, đã và đang mở ra những cơ hội và thách thức mới. Cuốn theo vòng xoáy đó, văn hoá nghệ thuật nói chung, nghệ thuật múa nói riêng phải tìm cho mình những bước đi, hướng đi mới để thích ứng và phát triển. Vấn đề đặt ra cho những người làm công tác nghệ thuật múa là phải suy nghĩ, tìm tòi cái mới trong sáng tạo để những tác phẩm múa mang tính tư tưởng, thẩm mỹ và giáo dục cao, thể hiện được hơi thở, nhịp sống của ngày hôm nay. Có như vậy, nghệ thuật múa mới tồn tại và đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của công chúng trong thời đại mới. Nền nghệ thuật múa Việt Nam hôm nay được bắt nguồn và kế thừa từ nền nghệ thuật múa dân tộc truyền thống. Trên cái nền cội nguồn đó, mỗi thế hệ đã góp phần sáng tạo của mình để gìn giữ và làm giầu hơn bản sắc tâm hồn dân tộc bằng cách phát huy những giá trị vốn có, bên cạnh đó cần phải sáng tạo những yếu tố mới, sắc thái mới trên cơ sở tiếp nhận và cải biên các giá trị của sự lan toả văn hoá nội vi và ngoại lai để phát triển nền nghệ thuật múa nước nhà cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của dân tộc mình. Giữ gìn cái cốt lõi, tinh tuý nhất trong vốn múa, giữ được cái “đặc trưng”, “tiêu biểu” nhất để từ đó phát triển và bổ xung cho hoàn thiện hơn vốn múa của dân tộc, nó sẽ là nguồn mạch bản sắc văn hoá vô cùng quan trọng để các nhà biên đạo khai thác và kế thừa. Kế thừa không đơn thuần là sự khai thác và sử dụng tinh hoa của múa dân gian dân tộc mà còn phải biết phát huy, bổ sung những thiếu hụt của nó. Múa dân gian dân tộc Việt Nam là hệ thống múa phong phú, đa dạng, nhưng điều đó không có nghĩa rằng nó đã hoàn chỉnh, bất biến. Nắm vững và vận dụng ngôn ngữ múa nước ngoài (múa ballet, múa hiện đại…), một di sản văn hoá của nhân loại tiếp thu vào việc sáng tác múa hiện nay, là việc làm vô cùng cần thiết. Múa ballet, múa hiện đại phương Tây với hệ thống ngôn ngữ động tác múa khoa học, linh hoạt, có kỹ thuật cao, những bước nhảy dài trên không, những vòng quay lớn, cùng với phương pháp cấu trúc ngôn ngữ, cấu trúc tác phẩm chặt chẽ có tính lôgic cao…Có thể sử dụng những nét tiên tiến đó để hoà trộn với ngôn ngữ múa dân gian dân tộc giúp phản ánh sâu sắc hơn tâm tư, tình cảm nguyện vọng của con người Việt Nam đương đại. Do đó, phải công nhận rằng sự có mặt của ballet cổ điển châu Âu và múa hiện đại phương Tây ở nhiều nước trên thế giới, được sử dụng như một phương tiện, phương pháp trong quá trình xây dựng ngôn ngữ múa của mình, đã làm tăng lên hiệu quả nghệ thuật cho các tác phẩm múa của nước đó. Chính vì vậy mà sự kết hợp giữa hai dòng ngôn ngữ múa dân gian dân tộc với múa ballet cổ điển châu Âu hoặc múa hiện đại phương Tây đã trở thành một xu hướng trong thời đại ngày nay. Ở Việt Nam, các nhà biên đạo múa cũng đã vận dụng phương pháp kết hợp ngôn ngữ này áp dụng vào vào trong quá trình sáng tạo những tác phẩm múa mới. Ngay từ những năn 60 của thế kỷ XX, tác phẩm múa Cánh chim và mặt trời của biên đạo múa NSND Thái Ly đã như một minh chứng cho sự kết hợp ngôn ngữ Đông – Tây, sự kết hợp hài hoà giữa múa dân tộc Khơme và múa cổ điển châu Âu, tạo nên sức sống cho tác phẩm múa này. Những đường nét cong lượn của đôi cánh chim, của những tạo hình múa mang đậm dáng điệu từ những bức tượng và những điệu múa đặc sắc của dân tộc Khơme, bên cạnh đó là những bước quay, nhảy lớn và những cách kết cấu ngôn ngữ tổ hợp, cấu trúc tác phẩm đã khắc hoạ được hình tượng của con chim vươn lên bay bổng dưới ánh sáng mặt trời. Tác phẩm múa điển hình này mang đậm bản sắc dân tộc và nó thành như một di sản của nền nghệ thuật múa Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình lai tạo ngôn ngữ này đòi hỏi các nhà biên đạo phải nghiên cứu một cách khoa học, tìm tòi và kết hợp khéo léo, biết nhào nặn cái nào là chính, cái nào là phụ, ứng dụng chúng vào trong mỗi tổ hợp múa, mỗi một đoạn múa, khúc múa đều có sự liên kết lôgíc giữa những động tác múa dân gian dân tộc với những động tác múa nước ngoài. Sao cho nhân vật, tác phẩm một mặt vẫn mang phong cách, tâm hồn dân tộc, mặt khác vẫn đáp ứng và hoàn thiện hơn về kỹ năng, kỹ xảo múa, góp phần làm phong phú hơn ngôn ngữ múa trong quá trình xây dựng múa dân tộc hiện đại. Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý hiện tượng lạm dụng ngôn ngữ múa nước ngoài, sự hoà trộn một cách sống sượng, đan xen hoặc quá ham khai thác những yếu tố kỹ thuật cao của ngôn ngữ múa nước ngoài mà quên mất sự tinh tế, kín đáo của múa dân tộc, đánh mất đi các giá trị thẩm mỹ vốn có của nó, gây cho người xem những cảm nhận hoàn toàn trái ngược, phản cảm trong hưởng thụ nghệ thuật. Trên con đường sáng tạo nghệ thuật, các biên đạo Việt Nam đã đi bằng nhiều con đường khác nhau, tìm kiếm sáng tạo theo nhiều xu hướng khác nhau để cùng đến một đích – múa Việt Nam dân tộc hiện đại. Chúng ta có thể điểm qua một số xu hướng sáng tác như: Xu hướng phát triển từ chất liệu múa dân gian; Xu hướng kết hợp múa dân gian với những động tác sinh hoạt đương đại; Xu hướng kết hợp múa dân gian với múa nước ngoài (múa ballet cổ điển và múa hiện đại phương Tây). Dù sáng tạo theo một xu hướng nào đi chăng nữa, thực tiễn đòi hỏi mỗi nhà biên đạo múa phải nắm vững 2 yếu tố: Dân tộc và hiện đại – 2 yếu tố không thể tách rời trong một tác phẩm múa hiện nay. Dân tộc để không đánh rơi truyền thống, đánh mất chính mình, Hiện đại để phù hợp với nhịp sống mới, hơi thở mới của thời đại. Phải biết coi trọng vốn múa dân gian, khai thác chọn lọc và phát triển chúng theo những quy luật thẩm mỹ của dân tộc . Đồng thời, phải biết vận dụng tiếp thu những ưu điểm từ hệ thống ngôn ngữ cùng phương pháp sáng tác của dòng múa ballet châu Âu và múa hiện đại phương Tây – cụ thể là sự linh hoạt, khoa học và có tính kỹ thuật, kỹ xảo của ngôn ngữ múa, cách kết cấu ngôn ngữ tổ hợp, câu, đoạn múa có tính phát triển, có cao trào trong tác phẩm, cấu trúc đề tài tác phẩm lôgic… Đặc biệt là những phương pháp tư duy trừu tượng nhưng gợi mở, được thể hiện thông qua tính tạo hình sâu sắc, giầu sức biểu cảm, được kết hợp với tính phức điệu cao trong một bố cục không gian đa chiều của dòng múa hiện đại phương Tây, sẽ là những sự tìm tòi mới lạ với những yếu tố bất ngờ lúc thuận, lúc nghịch tạo nên những giá trị thẩm mỹ mới, sự lôi cuốn, sức hấp dẫn đầy ấn tượng cho tác phẩm múa. Ở đây, tính chất dân tộc và hiện đại phải được kết hợp chặt chẽ, xen vào từng hơi thở của từng yếu tố ngôn ngữ, tạo hình và cấu trúc đề tài trong mỗi tác phẩm múa. Giải quyết tốt vấn đề dân tộc và hiện đại trong nghệ thuật múa trên cơ sở biết kế thừa nguồn vốn của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của ngon ngữ múa nước ngoài trong quá trình sáng tạo nghệ thuật sẽ mang lại những tác phẩm múa có giá trị, có sức cuốn hút cao, nhiều ấn tượng và cảm xúc mãnh liệt cho công chúng đương thời. Trên sân khấu múa chuyên nghiệp hiện nay xuất hiện nhiều tác phẩm múa được công chúng đón nhận và đánh giá cao như: Hồn là ai?, Mùa xuân trên bản H’Mông, Y Đăm, (NSND Công Nhạc); Hương quê, Hoa mai nở (NSND Chu Thuý Quỳnh); Pho tượng cổ (NSND Ứng Duy Thịnh); Lời ru của rừng, Mênh mang mùa xuân, Khai sơn phá thạch (NSƯT Anh Phương); Mẹ mặt trời, (Xuân Thanh); Cân bằng (Mai Anh); Tình quê (Thu Hà); Sự tích trầu cau(NSƯT Minh Thông); Còng Còng gió (Quang Minh)…. Những tác phẩm ấy thành công trước hết nhờ những ý tưởng mới, cách cấu từ độc đáo, diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ múa tiên tiến mà nền tảng là tinh hoa trong múa dân gian dân tộc, đồng thời mang đậm những tinh thần tìm tòi, đổi mới. Các tác giả đã vận dụng được sự kết hợp cách nghĩ theo tâm lý dân tộc, với tính triết lý thời đại để phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ của ngày nay. Mặt khác, qua các tác phẩm trên chúng ta thấy rằng: Quá trình gìn giữ bản sắc dân tộc không chỉ được hiểu như là quá trình phát huy những giá trị vốn có mà chủ yếu phải sáng tạo những đường nét, sắc thái mới của dân tộc dựa trên những đặc điểm múa dân gian Việt Nam theo những phong tục tập quán, quan niệm đạo đức, quan niệm thẩm mỹ của dân tộc và sự tiếp thu có sáng tạo tinh hoa nghệ thuật múa của các nước trên thế giới. Xây dựng và phát triển nền nghệ thuật múa chuyên nghiệp Việt Nam bằng tâm huyết của nhiều thế hệ nghệ sĩ nối tiếp nhau đã tạo nên bề dày thành tựu bằng những tác phẩm múa có giá trị cao đáp ứng nhu cầu của đất nước trong từng giai đoạn. Những gì mà ngành múa Việt Nam đạt được, cho phép chúng ta tin tưởng rằng: Nghệ thuật múa Việt Nam đã và sẽ có những bước tiến dài hoà mình vào bước tiến của dân tộc, của thời đại. Chương II.nghệ thuật múa 1.1.nghệ thuật múa. 1.1.1.đặc điểm Múa thời hiện đại, hậu hiện đại nhiều thể loại đan xen hoà nhập vào các loại hình nghệ thuật không - thời gian đầy biểu cảm thẩm mỹ. Nghệ thuật nhảy múa mang đặc trưng ngôn ngữ tạo hình biểu cảm trực tiếp trong cấu trúc tác phẩm, bằng những quy phạm chuyển động ngôn ngữ nghệ thuật. Những hình thức cấu trúc tác phẩm múa tạp kỹ, là các điệu múa đơn lẻ thường bố cục thể một đoạn, hai đoạn hoặc ba đoạn. Nguyên tắc phát triển ngôn ngữ múa thường lấy chất liệu dân gian hoặc những động tác múa hiện đại phương Tây, xây dựng chủ đề, phát triển có nhắc lại hoặc biến hoá. Xem một điệu múa ngắn thường thấy đoạn A, các thủ pháp phát triển ngôn ngữ tạo hình nhắc lại và kết thúc. Loại dài có thể cấu trúc hai đoạn A – B, A – B - A’ , hoặc A – B – C. Múa sử dụng động tác ước lệ diễn tả bằng các loại chuyển động đội hình: vòng cung, hàng dọc, hàng ngang, vòng tròn, chữ V và các biến thể của những quy ước trên làm phong phú kỹ thuật tạo hình múa. Những động tác múa không bắt chước hiện thực cuộc sống, thường mô tả hình tượng diễn biến nội tâm con người, nhân vật múa bằng động tác ước lệ tạo hình. Múa là nghệ thuật diễn viên gần với sân khấu, nhưng phản ánh quy luật tình cảm con người bằng động tác biểu cảm. Mỗi dân tộc, tác giả có những quy ước riêng, khi sáng tác động tác múa sắp xếp thành hệ thống động tác chuyển động trong câu múa biểu đạt một ý tưởng. Nhiều câu múa liên kết thành tác phẩm có chủ đề, ý tưởng diễn tả cao trào, tính kịch và kết thúc. Những động tác ước lệ múa biểu cảm của các dân tộc: múa xoè, múa sạp Thái, nhiều người đã biết, nhảy múa toàn thân, đôi tay chuyển động cùng những bước nhảy biểu hiện niềm vui rộn ràng. Múa Then Tày Nùng, ngôn ngữ động tác chuyển động nửa thân phía trên làm chủ đạo. Luật chuyển động đôi cánh tay, vai và ngực tạo tuyến gấp khúc thành đường vòng cung, cổ tay nhấn nẩy biểu cảm mạnh, diễn tả tính ma thuật, huyền bí. Nhìn vào đôi mắt nét mặt bà Then sẽ thấy cái âm u trầm cảm, khi bùng phát bất ngờ, lúc trầm tư như đang đối thoại với thần quyền tà ma… Múa cổ điển đồng bào Khơ me Nam Bộ, ước lệ động tác bất biến chào khán giả, tay trái ngửa ngang ngực, tay phải giơ ra phía trước. Động tác chém cá sấu: hai tay cuộn ngửa, tay trái co, tay phải vươn ra chặt xuống. Khi khóc: hai tay khoanh lại, buồn tay chống cằm… Muốn hiểu múa phải theo dõi liên tục hệ thống động tác chuyển động, quan sát nét mặt, đôi mắt diễn viên là hệ thống biểu cảm nghệ thuật nghe nhìn tổng hợp. Múa có nhiều loại hình ngôn ngữ khác nhau nhưng đặc trưng là: - Nghệ thuật tạo hình không gian động, ngôn ngữ ước lệ biểu cảm trực tiếp. - Cấu trúc động tác trừu tượng tạo hình tượng, cảm xúc thẩm mỹ. - Là loại hình nghệ thuật không thời gian, nghe nhìn tổng hợp. Múa phát triển trong đời sống xã hội cổ xưa đến thời đại công nghệ, hình thành bẩy thể loại, mỗi thể loại ngôn ngữ biểu cảm riêng, cần nhận biết ba hình thức cơ bản. Nhảy múa sinh hoạt vũ hội đại chúng mang lại niềm vui, thoả mãn người nhảy múa. Nhảy múa chuyên nghiệp, trình diễn trên sân khấu là nghệ thuật tạo hình chuyển động theo thời gian, vận động biến đổi biểu cảm trực tiếp nội tâm con người, thể hiên đời sống xã hội, đáp ứng công chúng. Nhảy múa tâm linh là nghệ thuật nghi lễ, không để công chúng xem mà mang lại chân ngã thượng thức. CHƯƠNG II: CÁC HÌNH THÁI NGHỆ THUẬT MÚA I. Hình thái múa dân gian 1.1. Khái niệm - Gs,Ts Lâm Tô Lộc: Múa dân gian là một hình thái múa dân tộc do nhân dân, chủ yếu là nông dân sáng tạo theo phương thức: đầu tiên có một người khởi thảo, sau đó những người khác qua nhiều thế hệ kế tục công việc hoàn chỉnh điệu múa ấy, bởi vậy nó chưa có một cấu trúc nghệ thuật ổn định ngay từ đầu mà được lưu truyền qua nhiều thế hệ để tiếp tục sự sáng tạo nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa của một cộng đồng. 1.2. Một số phương pháp phân loại múa dân gian - Múa sinh hoạt dân gian - Múa biểu diễn dân gian (Múa biểu diễn dân gian là Múa sinh hoạt dân gian được nâng cao lên, mang tính bán chuyên nghiệp) 1.3. Đặc điểm của hình thái múa dân gian - Tên của điệu múa dân gian: + Thường gắn với tên của địa phương, của đạo cụ, của tộc người + Khuyết danh - Chủ thể sáng tạo: người dân lao động - Khách thể sáng tạo: người dân lao động → Các điệu múa mang màu sắc cuộc sống sinh hoạt; thể hiện tâm tư, tình cảm của nhân dân; không đặt ra nhiều chuẩn mực. - Múa dân gian mang tính đơn giản trong: + Trang phục: phong phú, không quy định chặt chẽ + Đạo cụ: gắn với đời sống nhân dân (tre, trúc) + Âm nhạc: thường là nhạc cụ truyền thống của dân tộc đó + Hình thức: thường là múa tập thể với những động tác đơn giản, kết cấu ngắn, nhịp chẵn 2/4, động tác múa ngắn gọn → Đội hình mang tính đồng đều, tôn lên vẻ đẹp của động tác-đội hình hang ngang và vòng tròn - rất cơ động → Múa thường kết hợp với hát, mang tính dị bản. II. Hình thái múa tín ngưỡng tôn giáo 2.1. Khái niệm - Múa tín ngưỡng tôn giáo là một hình thái múa dân tộc phục vụ cho tôn giáo dưới dạng những lễ thức hoặc mang nội dung tôn giáo do những người làm nghề tôn giáo hoặc giáo dân biểu diễn 2.2. Vài nét về sự hình thành tín ngưỡng và múa tôn giáo 2.3. Đặc điểm và các loại múa tín ngưỡng tôn giáo - Sự chế định của kỉ luật, kỉ cương + Trang phục: khắt khe + Động tác: được luyện tập, quy định khắt khe + Âm nhạc: + Đạo cụ: Nhưng cũng rất cởi mở cho con người (có lúc múa tự do, thăng hoa…) - Thường là múa cá nhân (múa đơn) đòi hỏi động tác phức tạp hơn, mang nét huyền bí - Chia làm hai đoạn: + Múa của thần thánh: là múa của người mà thần thánh nhập vào họ + Múa trước thần thánh: là múa của người trước thần thánh Ví dụ 1: “Múa hầu đồng” - Chỗ dựa tinh thần - Củng cố lòng yêu nước - Là môi trường giá trị văn hóa dân gian → tích cực - Khi con người bị rang buộc quá vào niềm tin, ảnh hưởng đến sinh hoạt đời sống → mê tín dị đoan Ví dụ 2: “Múa mo trong tang lễ của người Mường” - Tùy theo địa vị xã hội (lang hoặc dân) đám tang sẽ kéo dài từ 3-12 ngày đêm - Nhân vật quan trọng trong tang lễ là ông Mo(một thầy cúng)nhằm bảo vệ linh hồn người chết, đưa người chết từ cõi sống về cõi chết - Gồm các màn múa: + Múa dâng lễ: thầy Mo cầm quạt, rung chuông để mời thánh sư và hồn tổ tiên về chứng giám lễ đưa hồn người chết về cõi chết. Động tác múa của thầy Mo: 2 tay dâng lễ, đưa lên hạ xuống, chân bước nhún vừa tiến vừa lùi theo nhịp cồng chiêng. Vừa múa thầy Mo vừa niệm thần chú để đuổi ma dữ quấy nhiễu hồn người chết. + Múa mặt nạ: (do 1 người nam giới đeo mặt nạ hình người hoặc hình thú vật). Các động tác múa tự do, ngẫu hứng, bước tiến bước lùi, lúc quỳ lúc đứng, ngả người chạy quanh quan tài, miệng hú đệm theo tiếng cồng chiêng và lời hát Mo. + Múa cờ: (đoàn người múa từ 60-70 người, chỉ diễn ra trong đám tang của tầng lớp lang, tầng lớp quý tộc). Những người này 2 tay cầm cờ, lúc đi lúc chạy, tung phất cờ sang 2 bên phải trái, lên trên xuống dưới theo nhịp chiêng trống. Điệu múa này biểu tượng cho đoàn quân lính bảo vệ linh hồn người chết khỏi sự quấy rối của tà ma. + Múa quạt ma: (điệu múa đặc sắc nhất trong tang lễ của người Mường). Những người múa là những nàng dâu trong gia đình, thể hiện tấm lòng hiếu thảo của nàng dâu với bố mẹ. Các nàng dâu cầm quạt, xếp hàng theo thứ tự thứ bậc từ dâu trưởng đến dâu út, làm động tác quạt dâng lên hạ xuống, uốn lượn như hình sóng triền miên không dứt, biểu tượng cho tình cảm của người sống, của các nàng dâu đối với gia đình chồng. + Múa phá ngục: giải thoát cho linh hồn người chết. III. Hình thái múa cung đình 3.1. Vài nét về sự phát triển của múa cung đình - Đối tượng múa chuyên nghiệp, là những nghệ nhân múa giỏi trong dân gian → là sự phát triển vượt bậc, các điệu múa có sự tập luyện công phu với nhiều động tác phức tạp - Có sự đầu tư thỏa đáng về vật chất và tinh thần → tạo ra không gian sáng tạo - Mang trong mình nét đặc trưng, nét tinh hoa của múa dân gian các dân tộc - Sự quy định, chế định chặt chẽ về (địa điểm, thời gian, trang phục) 3.2. Các loại múa cung đình … CHƯƠNG III: ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT MÚA I. Đặc trưng nghệ thuật múa - Theo nghệ sỹ nhân dân Lê Ngọc Canh: + Cách điệu: thêm bớt + Tượng trưng: thay thế + Khái quát: cái chung + Tạo hình: tư thế đặc trưng (có thể do 1 người hoặc nhiều người tạo nên; thường được tạo thành từ đầu hoặc kết thúc 1 tác phẩm; đặc tính cơ bản: cô đọng nội dung) - Theo nghệ sỹ nhân dân Đặng Hùng: + Phương tiện biểu hiện đặc thù + Quy tắc kết cấu + Tình cảm, sự say mê và cảm xúc II. Đặc trưng ngôn ngữ múa 2.1. Khái niệm 2.2. Các thành phần cấu tạo ngôn ngữ múa - Động tác: + Là thành phần cấu tạo nhỏ nhất của nghệ thuật múa, không có động tác thì không có nghệ thuật múa + Có 2 loại: . Động tác chính: do người biên đạo sáng tạo ra nhằm phục vụ cho tác phẩm của mình. Trong 1 tác phẩm múa chỉ có 1 vài động tác chính, được lặp đi lặp lại nhiều lần khiến người xem có thể nhớ được toàn bộ hoặc 1 phần động tác chính. . Động tác phụ: có vai trò bổ sung, làm rõ nghĩa cho động tác chính. Là yếu tố để phân biệt múa của dân tộc này với múa của dân tộc khác bởi trong mỗi động tác đều ẩn chứa những đặc trưng về văn hóa, xã hội, tự nhiên của mỗi cộng đồng - Đội hình: + Giúp tăng thêm vẻ đẹp của động tác + Biểu đạt nội dung nào đó + Các kiểu đội hình: . Hàng ngang: thường xuất hiện khi có yêu cầu để biểu dương, đề cao sức mạnh. . Chéo: biểu hiện có tính chất sắc bén, đặc biệt dùng trong múa chiến đấu, diễn tả sức tiến công sắc nhọn, mạnh mẽ gây ấn tượng ở đội hình dài và đông. . Vòng tròn: sử dụng trong nội dung lien hoa, giao hạo. . Mũi tên: biểu hiện khí thế, diễn tả sự nhất trí cao, đồng lòng đi tới. . Chữ V: biểu hiện trong không khí nghênh tiếp, nhận mệnh lệnh. . Vòng cung: biểu đạt sự phô diễn, đề cao đặc trưng khi cần thiết. . Bán nguyệt: sử dụng với yêu cầu trình bày, bày tỏ 1 sự kiện, 1 vấn đề được giãi bày. . Hàng dọc: biểu hiện khí thế gây ấn tượng ở độ dầy, tầng tầng, lớp lớp tạo không khí hung hồn. . Dọc đôi: biểu hiện sự đón chào, mừng đón tâm tình … - Tạo hình: + Cô đọng nội dung + Thường diễn ra (dừng) trong một khoảng thời gian nhất định + Gồm: tạo hình tĩnh và tạo hình động + Thường xuất hiện ở đầu, cuối và giữa tác phẩm + Được phát triển ở 3 khía cạnh (căn cứ vào không gian của sân khấu) . Tầng: cao thấp . Tầm: xa gần . Diện: rộng hẹp - Kịch câm: + Sử dụng kịch câm nhằm bổ sung cho nghệ thuật múa ->kịch câm phải chuyển biến để phù hợp với nghệ thuật múa (âm nhạc gắn liền với động tác) + Luật động: . Là những chuyển động của cơ thể người diễn viên. . Gồm 2 loại: .. Luật động theo quy luật tự nhiên .. Luật động trái quy luật tự nhiên: thường là sự sáng tạo của nhà biên đạo, giúp tác phẩm hấp dẫn khán giả. 2.3. Phân loại ngôn ngữ múa - Ngôn ngữ múa sinh hoạt: là động tác mô phỏng lại sinh hoạt của con người trong lao động, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận dễ múa, nội dung phong phú. - Ngôn ngữ múa biểu hiện: là động tác sáng tạo nhằm thể hiện sắc thái tình cảm của con người; là sự sáng tạo của biên đạo múa; mang tính đa nghĩa (mỗi người hiểu theo 1 hướng khác nhau)(theo quan điểm của nghệ sỹ Lê Ngọc Canh). 2.4. Đặc trưng ngôn ngữ múa - Động tác chuyển động - Đội hình chuyển động - Tiết tấu chuyển động - Tạo hình trong ngôn ngữ múa CHƯƠNG IV: CÁC THỂ LOẠI MÚA I. Các thể loại hình thức 1.1. Múa 1 người (solo) - Tập trung mọi thủ pháp nghệ thuật + Khả năng biểu diễn các kỹ thuật, kĩ xảo + Khả năng biểu hiện cảm xúc + Sự phù hợp về ngoại hình 1.2. Múa 2 người (duo) - Đòi hỏi khả năng biểu diễn các kĩ thuật, kĩ xảo - Khả năng biểu lộ cảm xúc - Phù hợp về ngoại hình - Phải có kĩ thuật bê đỡ (sự phối hợp nhịp nhàng, tạo sự cân bằng, sử dụng lực hợp lý) - Múa bè: trên cùng 1 đoạn nhạc, người này múa động tác này, người kia múa động tác khác - Múa đối đáp: thường dùng trong nội dung mang tính lãng mạn trong tình yêu, 1 người múa 1 người đứng yên và ngược lại 1.3. Múa 3 người (trio) Khả nămg kĩ thuật. - Khả năng biểu hiện. - Thường dùng để khắc học những tính cách trái ngược nhau (Ví dụ: đánh ghen…). - Đội hình có lúc tách ra để giành không gian cho người diễn viên bộc lộ tính cách, tình cảm. 1.4. Múa 4 người (quatuto) Thường là múa đồng điệu, đồng đều với nhau nhưng cũng có lúc sử dụng múa bè. 1.5. Múa tập thể - Là hình thức múa phổ biến, hay được sử dụng trong hình thái múa dân gian. - Động tác đơn giản, chủ yếu sử dụng yếu tố đồng đều của đội hình. 1.6. Tổ khúc múa (suité) - Là thể loại múa được kết cấu theo nhiều chương, mỗi chương có 1 chủ đề riêng nhưng đều phục vụ cho 1 chủ đề chính, có thể tách rời từng chương (ví dụ: tổ khúc múa 4 mùa). 1.7. Thơ múa - Kết cấu theo từng chương, mỗi chương có chủ đề riêng. - Có nhân vật trung tâm(nhân vật chính, nhân vật dẫn truyện). - Có kết cấu, xung đột, kịch tính, giải quyết mâu thuẫn. - Không có nhân vật phản diện trong thơ múa (dùng trong các tác phẩm mang tính ca ngợi). (Ví dụ: thơ múa Tô Vĩnh Diện, Lê Văn Tám…). - Nếu không có nhân vật trung tâm thì thơ múa trở thành múa tập thể. Giáo trình Nghệ thuật họcNghệ thuật học là môn học mang tính đại cương không quá đi sâu vào các loại hình nghệ thuật, không trình bày diễn trình phát triển của lịch sử mỹ thuật nói riêng, mà ở đây vấn đề nghiên cứu chính là những thành tựu của con người đạt được qua các giai đoạn lịch sử về: văn học, âm nhạc, điện ảnh, s... » Xem thêm Chủ đề:
Tóm tắt nội dung tài liệu
Nghệ thuật thuần nhất là gì?Cùng mang tất cả những đặc điểm chung đó, loại nghệ thuật thuần nhất là hình thức sáng tạo đặc biệt, được tạo nên bởi người nghệ sĩ có cá tính độc đáo, có tâm hồn giàu cảm xúc, có tài năng sáng tạo. Chữ thuần nhất nhằm nói tới sự thống nhất chặt chẽ và hài hòa giữa phương tiện và mục đích, giữa nội dung và hình thức trong loại hoạt động này. Nước ngoài có những từ ngữ như beaux arts, belles lettres (Pháp), văn nghệ thuật (Nga), để đối lập với nghệ thuật ứng dụng. Nghệ thuật ở đây là tiếng nói tình cảm, tư tưởng của con người gửi đến con người, nhằm biểu đồng tình, kêu gọi, tác động, định hướng cho con người đi vào chiêm ngưỡng, chọn lựa những kinh nghiệm sống và kinh nghiệm tình cảm, thông qua cái cấu trúc cảm tính sinh động đơn nghĩa và đa nghĩa, tả thực và ước lệ, miêu tả và biểu hiện, tạo nên bởi tưởng tượng và hư cấu, đó là hình tượng. Để tiếng tới một bảng danh mục nghệ thuật với sự phân loại cụ thể, xuất phát từ định nghĩa trên, tìm các tiêu chí, các bình diện để phân loại, xếp loại, đó là công việc của khoa hình thái học nghệ thuật. Tư tưởng hình thái học có rất sớm từ trong mỹ học cổ đại, và trước đó nữa, là trong tư duy thần thoại. Người Hy Lạp xưa có cả một gia hệ các nữ thần (muses) tập hợp dưới trướng của Apollon, thần mặt trời, thần trí tuệ, và phần nghệ thuật. Tất cả 9 nữ thần nghệ thuật tượng trưng cho 9 loại hình như hoạt động như sau: Clio (lịch sử), Euterpe (âm nhạc), Thalie (hài kịch và thơ điền viên), Melpomene (bi kịch), Terpsichore (múa), Erato (oán thi), Polymnie (thơ trữ tình), Uranie (thiên văn và hình học), Calliope (hùng biện và anh hùng ca). Trong gia hệ các nữ thần này, con người cổ đại đã có ý thức kén chọn những tinh hoa thuộc về đời sống trí tuệ và tâm hồn, và coi trọng sự nhận thức của con người cả về khoa học và nghệ thuật, chưa tách biệt nghệ thuật ra khỏi khoa học, vẫn là một khối nguyên hợp những sáng tạo tinh thần. Tuy không có mặt trong gia hệ này, nhưng kiến trúc và thủ công mỹ nghệ vẫn có những vị thần bảo trợ khác nhau, đó là vị thần lữa, cũng là thần luyện kim Hephaistos, chuyên lo xây dựng cung điện và rèn vũ khí cho các thần, dạy cho thế gian làm các lò rèn. Nữ thần Athena con gái của Zeus, cũng là một nữ thần khoa học và nghệ thuật, chăm lo nghề kim chỉ thêu thùa và cả âm nhạc dụng cụ. Căn cứ trên tư duy thần thoại đó, các nhà mỹ học về sau đã dựng nên hai hệ thống nghệ thuật dưới sự chỉ đạo của hai vị thần: hệ thống Apollon (các nghệ thuật tinh thần) và hệ thống Hephaistos (các nghệ thuật vật chất). Thâu tóm những quan niệm phân loại, những tư tưởng hình thái học qua các thời đại, có thể rút ra các cặp tiêu chí phân loại sau đây: a) Tiêu chí bản thể (onthologie): NT không gian/ NT thời gian thực hoặc tĩnh/động. Xác định điều kiện tồn tại của tác phẩm nghệ thuật. Từ đó, nảy sinh những đặc trưng về phương thức sáng tạo và thể hiện. b) Tiêu chí tâm lý: NT thính giác/ NT thị giác Thính giác gắn liền với tiêu chí nghệ thuật thời gian, thị giác gắn liền với nghệ thuật không gian. Cặp tiêu chí này phân chia nghệ thuật thành hai loại bị chi phối đặc trưng tâm sinh lý sáng tác và cảm thụ là nghe và nhìn. c) Tiêu chí ký hiệu (sémiologie): miêu tả/ không miêu tả Còn gọi là miêu tả (description) hay tạo hình (figuratif) / biểu hiện (expressif) Do đặc điểm trực tiếp bộc lộ thái độ của chủ thể hay gián tiếp bộc lộ chủ thể, thông qua những hình ảnh tái tạo hiện thực nghệ thuật, sẽ có hai loại tác phẩm khác nhau, là thiên về chủ quan hay thiên về khách quan. d) Tiêu chí tính năng: NT đơn tính (một tính năng)/ NT lưỡng tính (hai tính năng) Hoặc NT thuần nhất/ NT ứng dụng Đây là tiêu chí quan trọng nhất nhằm phân biệt hai hệ thống nghệ thuật khác biệt nhau: hệ thống nghệ thuật thuần nhất chỉ mang một tính năng là tính năng thẩm mỹ. Hệ thống nghệ thuật ứng dụng mang hai tính năng là tính năng ích dụng và tính năng thẩm mỹ. Trong đó, tính năng ích dụng là cơ bản, và tính năng thẩm mỹ là thứ yếu. Một loại hình nghệ thuật thường mang mấy đặc điểm phù hợp với mấy tiêu chí khác nhau. Chẳng hạn, âm nhạc là nghệ thuật thời gian, thính giác, không miêu tả, một tính năng (hoặc hai tính năng, nếu là nhạc ứng dụng). Hội họa là nghệ thuật không gian, thị giác, miêu tả (trừ thể loại trừu tượng), một tính năng (hoặc hai tính năng, nếu là hội họa ứng dụng). Cuối cùng, có những loại hình mang đặc trưng của nhiều nghệ thuật, vì sử dụng phương tiện của tất cả các nghệ thuật đó, gọi là nghệ thuật tổng hợp (như sân khấu, điện ảnh, kiến trúc,…). Do đó, có thể thêm một cặp tiêu chí thứ 5. e) NT độc lập/ NT tổng hợp Hoặc: NT độc lập/ NT liên kết (chỉ có hai yếu tố như văn học với âm nhạc, múa và nhạc múa. Ngoài ra, người ta có thể kể các cặp tiêu chí khác, như trình diễn/ không trình diễn, ngôn ngữ/ phi ngôn ngữ. Sau đây, xin giới thiệu ba bảng danh mục: bảng danh mục tổng quát bao gồm tất cả các loại hình; bảng danh mục nghệ thuật đơn tính – nghệ thuật thuần nhất; bảng danh mục nghệ thuật lưỡng tính – nghệ thuật ứng dụng. ĐẠI CƯƠNG NGHỆ THUẬT HỌCNghệ thuật tổng hợp vận dụng tất cả các phương thức và phương tiện thể hiện của nghệ thuật...View more |