Phản ứng tiêu bạch cầu đặc hiệu là gì năm 2024

Hội chứng tăng bạch cầu ưa axit là một tình trạng đặc trưng bởi tăng bạch cầu ưa axit trong máu ngoại vi với các triệu chứng của hệ thống cơ quan hoặc các rối loạn chức năng có liên quan trực tiếp đến tăng bạch cầu ưa axit khi không nhiễm ký sinh trùng, không dị ứng, hoặc . Triệu chứng là đa dạng, tùy thuộc vào những cơ quan bị rối loạn chức năng. Chẩn đoán bao gồm việc loại trừ các nguyên nhân khác của tăng bạch cầu ưa axit bao gồm xét nghiệm tủy xương và di truyền. Việc điều trị có thể bao gồm prednisone và đôi khi imatinib nhưng phụ thuộc vào loại phụ cụ thể của hội chứng tăng bạch cầu ái toan.

Hội chứng tăng bạch cầu ưa axit theo truyền thống được định nghĩa là bạch cầu ưa axit máu ngoại vi \> 1500/mcL (> 1,5 × 109/L) kéo dài ≥ 6 tháng. (Xem thêm Sản xuất và Chức năng bạch cầu ưa axit.)

Hội chứng tăng bạch cầu ái toan trước đây được coi là vô căn, nhưng việc xác định đặc điểm phân tử cho thấy nhiều trường hợp có rối loạn dòng đặc hiệu. Một hạn chế của định nghĩa truyền thống là nó không bao gồm những bệnh nhân có một số bất thường tương tự (ví dụ khiếm khuyết về nhiễm sắc thể) là những nguyên nhân được biết đến của HES nhưng những bệnh nhân này không đáp ứng được định nghĩa HES truyền thống về mức độ hoặc thời gian tăng bạch cầu ưa axit. Một hạn chế nữa là một số bệnh nhân tăng bạch cầu ưa axit và tổn thương cơ quan là những triệu chứng đặc trưng của HES. Những bệnh nhân này cần thiết phải điều trị sớm hơn 6 tháng là khoảng thời gian cần thiết để khẳng định chẩn đoán HES. Tăng bạch cầu ái toan của bất kỳ nguyên nhân nào cũng có thể gây ra các tổn thương mô tương tự.

Có hai thể phụ của tăng bạch cầu ái toan vô tính (xem bảng ):

  • Biến thể tăng sinh tủy
  • Biến thể tăng sinh lympho

Biến thể tăng sinh tủy thường liên quan đến việc mất đoạn nhiễm sắc thể số 4 tại vị trí CHIC2 tạo ra gen lai FIP1L1/PDGFRA(có hoạt tính tyrosine kinase gây chuyển dạng tế bào tạo máu). Bệnh nhân thường bị

  • Thiếu máu
  • Tăng nòng độ vitamin B12 huyết thanh
  • Bạch cầu ưa axit giảm đoạn và có không bào
  • Xơ tủy
  • Lách to
  • Giảm tiểu cầu

Những bệnh nhân phân nhóm này thường phát triển xơ cơ tim và hiếm khi tiến triển thành lơ xê mi cấp dòng tủy hoặc dòng lympho. Bệnh nhân có gen lại FIP1L1/PDGFRA thường là nam giói có thể đáp ứng với imatinib liều thấp (là thuốc ức chế tyrosine kinase).

Một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân tăng sinh tủy biến thể của hội chứng tăng bạch cầu ưa axit có biến đổi di truyền liên quan đến PDGFRB (thụ thể beta của yếu tố phát triển có nguồn gốc từ tiểu cầu) và cũng có thể đáp ứng với điều trị bằng các chất ức chế tyrosine kinase như imatinib (). Các bất thường về tế bào học khác bao gồm việc sắp xếp lại gen cho thụ thể yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi 1 (FGFR1) hoặc Janus kinase 2 (PCM1-JAK2).

Một số bệnh nhân bị bệnh bạch cầu ái toan mạn tính, trong đó tế bào blast tăng lên khi kiểm tra tủy xương nhưng không quá 20%.

Biến thể tăng sinh lympho với tăng sinh dòng lympho T với bất thường kiểu hình. Phản ứng chuỗi polymerase (PCR) cho thấy sự sắp xếp lại thụ thể tế bào T vô tính. Bệnh nhân thường có

  • Phù, bất thường da, hoặc cả hai
  • Các phức hợp miễn dịch lưu hành với bệnh huyết thanh
  • Tăng gammaglobulin (đặc biệt là IgE cao)

Bệnh nhân có biến thể tăng sinh bạch huyết cũng thường đáp ứng tốt hơn với corticosteroid và đôi khi phát triển ung thư hạch tế bào T.

Các biến thể HES khác bao gồm hội chứng Gleich (tăng bạch cầu ưa axit và phù chu kỳ), hội chứng tăng bạch cầu ưa axit gia đình có bất thường 5q 31-33 và các hội chứng đặc hiệu về cơ quan khác. Trong hội chứng tăng bạch cầu ái toan đặc hiệu của cơ quan, tình trạng thâm nhiễm bạch cầu ái toan chỉ giới hạn ở một cơ quan duy nhất (ví dụ, bệnh đường tiêu hóa tăng bạch cầu ưa acid viêm phổi tăng bạch cầu ái toan mạn tính – ).

Tăng bạch cầu có thể xảy ra ở những bệnh nhân lơ xê mi dòng bạch càu ưa acid và số lượng bạch cầu ưa axit rất cao (ví dụ, \> 100.000 cells/mcL [> 100 × 109/L]). bạch cầu ưa axit ngưng tập lại và gây tắc mạch máu nhỏ dãn đến thiếu máu cục bộ và nhồi máu vi mạch. Các biểu hiện phổ biến là thiếu oxy não, phổi (ví dụ, bệnh não, khó thở hoặc suy hô hấp).

Hội chứng tăng bạch cầu ái toan vô căn hiếm gặp, tỷ lệ hiện mắc không rõ và thường ảnh hưởng đến những người từ 20 đến 50 tuổi. Chỉ có bệnh nhân có tăng bạch cầu ưa axit kéo dài gây rối loạn các cơ quan mới đặc trưng cho hội chứng tăng bạch cầu ưa axit. Mặc dù bất kỳ cơ quan nào cũng có thể liên quan, nhưng chủ yếu là tim, phổi, lách, da, và hệ thần kinh bị ảnh hưởng. Liên quan đến tim có thể gây ra bệnh nặng và tử vong đáng kể.

  1. 1. Apperley JF, Gardembas M, Melo JV, et al: Response to imatinib mesylate in patients with chronic myeloproliferative diseases with rearrangements of the platelet-derived growth factor receptor beta. N Engl J Med 347:481–487, 2002.
  2. 2. Shomali W, Gotlib J : World Health Organization-defined eosinophilic disorders: 2022 update on diagnosis, risk stratification, and management. Am J Hematol 97:129–148, 2022.

Các triệu chứng và dấu hiệu của hội chứng tăng bạch cầu ái toan

Các triệu chứng rất đa dạng và phụ thuộc vào những cơ quan nào có rối loạn chức năng (xem bảng ).

Đôi khi, bệnh nhân tăng bạch cầu ưa axit mức độ nặng (ví dụ, số lượng bạch cầu ái toan \> 100.000/mcL [> 100 × 109/L]) sẽ có những biến chứng do tăng bạch cầu như thiếu oxy não hay phổi (ví dụ bệnh não, khó thở, suy hô hấp). Các biểu hiện huyết khối khác (ví dụ, huyết khối trong tim) cũng có thể xảy ra.

Chẩn đoán hội chứng tăng bạch cầu ái toan

  • Loại trừ tăng bạch cầu ưa axit thứ phát
  • Các xét nghiệm xác định sự tổn hại cơ quan
  • Kiểm tra tủy xương bằng xét nghiệm di truyền tế bào nếu không xác định được nguyên nhân thứ phát gây tăng bạch cầu ái toan

Cần nghĩ đến hội chứng tăng bạch cầu ưa axit ở những bệnh nhân có bạch cầu ưa axit máu ngoại vi \> 1500/mcL (> 1,5 × 109/L) xuất hiện nhiều lần không lý giải, đặc biệt khi có biểu hiện tổn thương cơ quan. Cần thực hiện các xét nghiệm để loại trừ các chứng rối loạn gây .

Đánh giá tổn thương cơ quan: xét nghiệm enzym gan, kinase creatine, chức năng thận và troponin; ECG; siêu âm tim; chức năng phổi; và CT ngực, bụng và xương chậu. Chọc hút và sinh thiết tủy xương với phép đo dòng chảy, xét nghiệm di truyền tế bào và phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (rtPCR) hoặc lai huỳnh quang tại chỗ (FISH) được thực hiện để xác định gen dung hợp liên kết FIP1L1/PDGFRA hoặc các bản sao dung hợp phổ biến khác và để đánh giá để vô tính tế bào T-thụ thể để loại trừ biến thể tế bào lympho của hội chứng tăng bạch cầu ái toan và các nguyên nhân có thể gây tăng bạch cầu ái toan khác.

Tiên lượng cho Hội chứng tăng bạch cầu ái toan

Tử vong thường do tổn thương các cơ quan, đặc biệt là tim, rối loạn chức năng. Không thể dựa vào mức độ và thời gian tăng bạch cầu ưa axit để tiên lượng biến chứng tim. Tiên lượng thay đổi tùy thuộc vào đáp ứng với điều trị. Đáp ứng với imatinib cải thiện tiên lượng bệnh nhân có gen lai FIP1L1/PDGFRA dung hợp liên kết và các dung hợp gen đáp ứng khác.

Điều trị hội chứng tăng bạch cầu ái toan

  • Corticosteroid: cần điều trị liên tục nếu có tổn thương các cơ quan
  • Imatinib: cho bệnh nhân có FIP1L1/PDGFRA
  • Thuốc kiểm soát số lượng bạch cầu ưa axit: đôi khi sử dụng (ví dụ hydroxyurea, interferon alfa, etoposide, cladribine)
  • Chăm sóc hỗ trợ

Các phương pháp trị liệu bao gồm:điều trị sớm, điều trị trực tiếp các rối loạn, điều trị hỗ trợ (). Không có quy định về mức độ tăng bạch cầu ái toan mà tại đó tổn thương cơ quan xảy ra hoặc phải bắt đầu điều trị, nhưng hầu hết các chuyên gia khuyên bạn nên bắt đầu điều trị với số lượng bạch cầu ái toan tuyệt đối là 1500 đến 2000 bạch cầu ái toan / mcL (1,5 đến 2 × 109/L).

Đối với bệnh nhân tăng bạch cầu ưa acid nặng, các biến chứng của tăng bạch cầu, hoặc cả hai (thường là lơ xê mi dòng bạch cầu ưa axit), cần dùng corticosteroid liều cao (ví dụ, prednisone 1 mg/kg hoặc tương đương) càng sớm càng tốt. Nếu số lượng bạch cầu ưa axit thấp xuống nhanh (ví dụ: ≥ 50%) sau 24 giờ, liều corticosteroid có thể được nhắc lại hàng ngày; nếu không, sẽ bắt đầu điều trị khác (ví dụ, hydroxyurea). Khi số bạch cầu ưa axit bắt đầu giảm và đang được kiểm soát tốt hơn, có thể bắt đầu dùng thêm thuốc.

Bệnh nhân có gen dung hợp liên quan đến FIP1L1/PDGFRA (hoặc các gen dung hợp tương tự liên quan đến PDGFA/B) thường được điều trị bằng imatinib () và đặc biệt nếu nghi ngờ tổn thương tim cũng như corticosteroid. Imatinib bắt đầu khi được chẩn đoán có thể ngăn ngừa tổn thương các cơ quan. Nếu imatinib không có hiệu quả dung nạp kém, có thể sử dụng thuốc ức chế tyrosine kinase thế hê sau (ví dụ, dasatinib, nilotinib, sorafenib) hoặc có thể sử dụng ghép tế bào gốc tạo máu đồng loại.

Bệnh nhân không có FIP1L1/PDGFRA, thậm chí không có triệu chứng thường dùng thử một liều prednisone 60mg (hoặc 1mg/kg) đường uống để xác định đáp ứng corticosteroid (nghĩa là số lượng bạch cầu ưa axit giảm). Ở bệnh nhân có triệu chứng hoặc tổn thương cơ quan, điều trị prednisolon ở liều tương tự một lần một ngày trong 2 tuần, sau đó giảm dần. Bệnh nhân không có triệu chứng và tổn thương cơ quan được theo dõi ít nhất 6 tháng. Nếu không thể giảm liều corticosteroid, cần thay thể thuốc khác (ví dụ, hydroxyurea, interferon alfa).

epolizumab, một kháng thể IgG đơn dòng được nhân tính hóa hoàn toàn có thể ức chế sự gắn IL-5 vào thụ thể của nó, có thể được sử dụng để điều trị chứng tăng bạch cầu ái toan vô căn ().

Có thể cần phải điều trị bằng thuốc hỗ trợ và phẫu thuật cho các biểu hiện tim (ví dụ: bệnh cơ tim thâm nhiễm, tổn thương van tim, suy tim). Có thể sử dụng các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu khi có biến chứng huyết khối (ví dụ, aspirin, clopidogrel, ticlopidine); chỉ định thuốc chống đông khi có huyết khối vách tâm thất trái hoặc nếu vẫn có cơn thiếu máu cục bộ thoáng mặc dù đã sử dụng aspirin.

Reslizumab, một kháng thể đơn dòng kháng IL5 được sử dụng trong bệnh hen suyễn nặng, đang được kiểm tra trong tình trạng tăng bạch cầu ái toan, cũng như benralizumab, một kháng thể kháng thụ thể IL5 khác. Các chất ức chế mới lạ của FGFR1 đang được đánh giá trong quần thể bệnh nhân tăng bạch cầu ái toan hiếm gặp này. Các chất ức chế JAK2 đang được kiểm tra ở những chất có sự sắp xếp lại JAK2.

  1. 1. Ogbogu PU, Bochener BS, Butterfield HJ, et al: Hypereosinophilic syndromes: A multicenter, retrospective analysis of clinical characteristics and response to therapy. J Allergy Clin Immunol 124:1319–1325, 2009.
  2. 2. Cortes J, Ault P, Koller C, et al: Efficacy of imatinib mesylate in the treatment of idiopathic hypereosinophilic syndrome. Blood 101:4714–4716, 2003.
  3. 3. Roufosse F, Kahn JE, Rothenberg FE, et al: Efficacy and safety of mepolizumab in hypereosinophilic syndrome: a phase III, randomized, placebo-controlled trial. J Allergy Clin Immunol 146: 1397–1405, 2020. doi: 10.1016/j.jaci.2020.08.037
  4. 4. Rothenberg ME, Klion AD, Roufosse FE, et al: Treatment of patients with the hypereosinophilic syndrome with mepolizumab. N Engl J Med 358:1215–28, 2008.

Những điểm chính

  • Hội chứng tăng bạch cầu ưa acid là bệnh bạch cầu ái ưa axit máu ngoại vi (\> 1500/mcL [> 1,5 × 109/L]) không do bởi ký sinh trùng, dị ứng, hoặc các nguyên nhân thứ phát gây tăng bạch cầu ưa axit, tăng kéo dài ≥ 6 tháng và gây ra tổn thương hoặc rối loạn chức năng các cơ quan.
  • HES là một biểu hiện của một số rối loạn huyết học, một số trong đó có một nguyên nhân di truyền.
  • Tổn thương có thể ở mọi cơ quan nhưng thường gặp ở tim, phổi, lách, da và hệ thần kinh, sự liên quan đến tim có thể làm bệnh nặng hơn và tử vong đáng kể.
  • Cần xét nghiệm để kiểm tra tổn thương các cơ quan, bao gồm các enzym gan; creatine kinase, creatinine và troponin; ECG và siêu âm tim; kiểm tra chức năng phổi; và CT ngực, bụng và xương chậu.
  • Cần xét nghiệm tủy xương và di truyền để tìm nguyên nhân.

Điều trị corticosteroid trường hợp tăng bạch cầu ưa axit thể nặng và/hoặc có tổn thương các cơ quan. Các chất ức chế tyrosine kinase như imatinib liều thấp có thể có lợi trong các phân nhóm có liên quan đến bất thường về nhiễm sắc thể.