Sáng kiến kinh nghiệm kỹ năng tự phục vụ cho học sinh tiểu học

SKKN rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 13 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn sáng kiến
Để đáp ứng các nhu cầu thực tiễn, góp phần thực hiện mục tiêu Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước thì giáo dục đã và
đang có những đổi mới. Việc đổi mới đó được thực hiện với tất cả các cấp học.
Đại hội Đảng lần thứ XII (2016), Đảng ta xác định một trong những nhiệm vụ
tổng quát có liên quan đến giáo dục và đào tạo là “Đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu,
phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ; phát huy vai trò quốc sách hàng đầu
của giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ đối với sự nghiệp đổi mới và phát
triển đất nước”. Cùng với quan điểm phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục
từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
của người học. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà
trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Để tạo một bước chuyển mới trong giáo dục, Bộ Giáo dục - Đào tạo ban
hành Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về Quy định đánh giá học sinh tiểu học; Thông
tư số 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định đánh giá học sinh tiểu
học nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học
sinh; góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học. Trong đó, nội dung rèn
năng lực tự phục vụ, tự quản là một trong những nội dung cần thiết trong đánh
giá thường xuyên sự hình thành và phát triển năng lực của học sinh và là một
trong những căn cứ xét hoàn thành chương trình lớp học.
Kế thừa và phát huy những ưu điểm của đổi mới phương pháp dạy học
theo mô hình trường học mới. Đổi mới việc đánh giá thường xuyên học sinh
không dùng điểm số, thay vào đó học sinh nhận được những lời nhận xét, động
viên, phản hồi từ giáo viên về sản phẩm học tập, các câu trả lời của các em,… và
biện pháp để các em có hướng điều chỉnh nhằm vượt qua các khó khăn trong
học tập.


Tuy nhiên, trong thực tế năng lực tự phục vụ, tự quản của học sinh chưa
được thực hiện tốt, nhiều em còn phụ thuộc nhiều vào bố mẹ, thầy cô, bạn bè; ý
thức tự giác chưa cao, chưa chủ động thực hiện công việc được giao; chưa mạnh
dạn, tự tin trước tập thể để bộc lộ ý kiến của mình,…
Nhằm góp phần thực hiện tốt việc đánh giá đúng chất lượng giáo dục học
sinh thông qua các môn học và hoạt động giáo dục, tôi đã chọn đề tài: “Rèn kĩ
năng tự phục vụ, tự quản cho học sinh lớp 4”.

1


1.2. Điểm mới của sáng kiến
Sáng kiến kinh nghiệm này tuy đã có nhiều đồng nghiệp nghiên cứu
nhưng ở mỗi vùng miền, mỗi trường học, mỗi lớp học có đối tượng học sinh,
điều kiện học tập khác nhau. Bản thân tôi căn cứ vào kinh nghiệm thực tế,
chuyên đề về đổi mới sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề về đổi mới đánh giá học
sinh, đổi mới phương pháp dạy học áp dụng mô hình trường học mới.
Sáng kiến chủ yếu thể hiện:
+ Tìm hiểu thực trạng của việc tự phục vụ, tự quản của học sinh
+ Đề cập đến một số giải pháp cụ thể nhằm rèn kĩ năng tự phục vụ, tự
quản cho học sinh
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của việc tự phục vụ, tự quản của học sinh
Năm học 2018 - 2019 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4 1, ngay từ tuần
đầu nhận lớp, tôi đã quan sát kĩ các biểu hiện của học sinh trong từng hoạt động và nhận
được kết quả khảo sát như sau:

HS có ý thức tự
HS có ý thức tự
phục vụ, tự quản

Tổng
Thời gian phục vụ, tự quản tốt
nhưng chưa bền
số
SL
%
SL
%
27 em

Đầu năm
học

5

18,5 %

6

22,2%

Chưa có ý thức tự
phục vụ, tự quản
SL

%

16

55,6%


Biểu hiện của những em chưa có ý thức tự phục vụ, tự quản trong lớp thể
hiện rõ nhất là:
- Học sinh thường tỏ vẻ rụt rè, nhút nhát khi giáo viên gọi trả lời câu hỏi,
không mạnh dạn giơ tay phát biểu xây dựng bài, ngại phát biểu trước đông
người. Các em chưa thể hiện được tinh thần thi đua trong học tập, vào lớp
thường không thuộc bài và làm bài, không mạnh dạn nhận xét góp ý xây dựng
bài.
- Học sinh thường quên chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập. Một số học
sinh vi phạm các nội quy của trường như trang phục, đầu tóc, vệ sinh thân thể,
ăn quà vặt,…
- Phần lớn học sinh vẫn còn mang tính thụ động chưa có tính tự giác cao,
thiếu tính năng động và sáng tạo, tâm lí ỷ lại và trông chờ vào phụ huynh và
giáo viên chủ nhiệm.
- Hội đồng tự quản, các ban trong lớp chưa thật sự hiểu rõ được nhiệm vụ
của mình và cũng chưa phát huy khả năng tốt việc tự quản lớp.
- Các em chưa thực sự tự giác thực hiện theo yêu cầu nhóm, lớp và của cả
giáo viên.
2


- Việc bố trí thời gian học tập và sinh hoạt chưa phù hợp; kết quả về học
tập cũng không đồng đều.
- Thời gian sinh hoạt 15 phút đầu giờ, các hoạt động tập thể,…các em
chưa tập trung hoạt động, nói chuyện riêng, làm việc riêng, chưa chịu khó hợp
tác.
- Một số em có ý thức tự phục vụ, tự quản nhưng chưa bền thường biểu
hiện: khi có mặt của giáo viên thì tỏ ra nghiêm túc nhưng khi vắng mặt giáo viên
hoặc Hội đồng tự quản của lớp thì vẫn còn làm việc riêng,…
Theo tôi nghĩ những thực trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân sau:

Giáo viên thường chỉ quan tâm đến thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng
trong quá trình dạy học. Tư tưởng nhận thức của phụ huynh học sinh lẫn học sinh
cũng chỉ tập trung làm sao học sinh nắm kiến thức bài học là chủ yếu, còn các nội
dung khác trong đánh giá học sinh vẫn chỉ là nội dung phụ, không quan trọng.
Tiết sinh hoạt cuối tuần còn mang tính hình thức, chủ yếu là giáo viên
nhận xét và thông báo kế hoạch cho tuần tới. Việc học sinh tự điều hành tiết sinh
hoạt lớp chưa tốt nên kĩ năng tự phục vụ, tự quản của học sinh không được nâng
cao.
2.2. Các giải pháp rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản cho học sinh lớp 4
2.2.1. Phổ biến và hướng dẫn các việc làm cụ thể:
Phổ biến cho học sinh nội dung Thông tư 30 và Thông tư 22 giúp các em
biết các nội dung cần thực hiện để phục vụ cho việc đánh giá từ đó các em sẽ cố
gắng phấn đấu phát triển năng lực của bản thân.
Tìm các minh chứng cụ thể cho từng nội dung của năng lực tự phục vụ, tự
quản để các em rõ hơn khi thực hiện. Sau đó, giáo viên phân tích, hướng dẫn
từng cá nhân, nhóm, lớp thực hiện.
Ví dụ:
+ Vệ sinh thân thể, ăn, mặc: tắm rửa sạch sẽ, cắt móng tay móng chân, tóc
cắt ngắn, ăn uống từ tốn, trang phục sạch sẽ, gọn gàng, …
+ Chuẩn bị đồ dùng học tập ở lớp, ở nhà: đến lớp có đầy đủ dụng cụ học
tập theo thời khoá biểu và theo bộ môn,...
+ Các việc theo yêu cầu của giáo viên, làm việc cá nhân, làm việc theo sự
phân công của nhóm, lớp: thực hiện các yêu cầu học tập, tích cực cùng nhóm
thảo luận bài học hay vệ sinh, trang trí lớp học theo phân công của nhóm lớp
một cách tự giác,...
- Giáo viên khéo léo đưa các nội dung Thông tư vào nội quy lớp học,
Điều em cần nhớ, các khẩu hiệu trang trí lớp học,...để những điều đó luôn hiện
ra trước mắt các em khi đến lớp, qua đó nhắc nhở các em luôn phải thực hiện
theo quy định.


3


Hình 1: Nội quy lớp em
2.2.2. Thu thập thông tin cá nhân của từng học sinh
Vào đầu năm học, khi được phân công chủ nhiệm lớp, tôi trực tiếp gặp
giáo viên chủ nhiệm cũ để nắm bắt tình hình chung, tình hình của từng học sinh,
thông qua Sổ chủ nhiệm, Sổ học bạ để xem kết quả tổng hợp đánh giá cuối năm.
Nắm bắt thông tin học sinh qua phiếu điều tra cơ bản sau :

THÔNG TIN HỌC SINH
Họ và tên : ……….............................................Lớp:.........................................
Ngày, tháng, năm sinh :……………..................................................................
Địa chỉ :………………………………………..................................................
Họ và tên bố:................................................ Nghề nghiệp :……………..........
Họ và tên mẹ :.............................................. Nghề nghiệp :……………..........
Trong nhà có ….. người con. Em là con thứ ………. trong nhà.
Môn học yêu thích :…………………………Lí do:…………………………
Môn học không yêu thích :………………….Lí do………………………….
Em mong ước gì khi ở lớp: .............................................................................
Sau khi nắm bắt thông tin học sinh thông qua phiếu điều tra cơ bản, tôi tập
hợp các thông tin mà các em đã viết. Từ việc làm này, phần nào tôi hiểu được
hoàn cảnh, biết được các em yêu thích cái gì nhất, có nguyện vọng điều gì ?...
Từ đó, tôi đưa ra giải pháp cụ thể để hướng dẫn các em.
2.2.3. Xây dựng đội ngũ Hội đồng tự quản
Thứ nhất, tổ chức bầu Hội đồng tự quản (HĐTQ)
Hội đồng tự quản (HĐTQ) học sinh là một biện pháp giáo dục nhằm thúc
đẩy sự phát triển về đạo đức, tình cảm và xã hội của học sinh thông qua những
4



kinh nghiệm hoạt động thực tế của các em trong nhà trường và mối quan hệ với
những người xung quanh. HĐTQ học sinh giúp học sinh phát triển kỹ năng ra
quyết định, kỹ năng hợp tác và kỹ năng lãnh đạo. Đồng thời cũng chuẩn bị cho
các em ý thức trách nhiệm khi thực hiện những quyền và bổn phận của
mình.Việc bầu chọn và xây dựng đội ngũ Hội đồng tự quản là một công việc rất
quan trọng mà người giáo viên chủ nhiệm nào cũng cần phải làm ngay sau khi
nhận lớp mới. Với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ tổ chức bầu HĐTQ
và thành lập các ban để lập kế hoạch và thực thi hoạt động, các công việc của
lớp. Để làm công việc này tôi nghiên cứu kĩ lí lịch trích ngang, thăm dò ý kiến
học sinh trong lớp, tham khảo ý kiến của giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ
môn, Tổng phụ trách Đội. Tiến trình bầu chọn HĐTQ được diễn ra như sau:
- Trước hết, tôi phân tích để các em hiểu rõ về vai trò và trách nhiệm của
Chủ tịch HĐTQ, Phó Chủ tịch HĐTQ, trưởng các ban (ban học tập, ban văn
nghệ - TDTT, ban sức khỏe - vệ sinh, ban quyền lợi, ban đối ngoại, ban thư
viện)
- Tôi khuyến khích các em xung phong ứng cử. Bằng lời thuyết phục của
mình để hướng các bạn trong lớp bình chọn mình. Sau đó giáo viên hướng dẫn
học sinh chọn 5 em tiêu biểu để cả lớp bầu chọn.
- Tiến hành bầu chọn và chọn 3 học sinh đạt số phiếu cao nhất sẽ được lớp
biểu quyết các nhiệm vụ (Chủ tịch HĐTQ, Phó Chủ tịch HĐTQ) sau khi có sự
phân tích của giáo viên và tập thể.
Việc bầu trưởng các ban cũng thực hiện tương tự.
Thứ hai, phân công nhiệm vụ cụ thể
Sau khi đã bầu chọn được HĐTQ của lớp, tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho
từng em như sau:
Đối với Chủ tịch HĐTQ: Phụ trách chung, tổ chức, quản lí lớp học.
Ví dụ: Vào đầu giờ hay cuối giờ học mời các bạn đứng lên chào thầy cô
giáo; Nhắc nhở các ban hoạt động vào mỗi tiết học như: Ban văn nghệ lên sinh
hoạt văn nghệ; Ban học tập lên phát vở, chữa bài tập; Chủ trì xây dựng chương

trình hoạt động theo tháng hay theo đợt...
Đối với Phó chủ tịch HĐTQ: (Phụ trách văn nghệ, thể dục thể thao) và
trực tiếp phụ trách các Ban: Ban văn nghệ - Thể dục thể thao, đối ngoại, sức
khỏe - vệ sinh
Đối với Phó chủ tịch HĐTQ: (Phụ trách học tập) và trực tiếp phụ trách
các Ban: Ban học tập, thư viện, quyền lợi.
Cụ thể:
- Ban văn nghệ - Thể dục thể thao: Tổ chức cho các bạn hát, múa, chơi trò
chơi vào đầu tiết học và cuối tiết học. Theo dõi phần tập thể dục giữa giờ và các
tiết học thể dục xem bạn nào thực hiện tốt, bạn nào thực hiện chưa tốt.
5


- Ban học tập: Có nhiệm vụ phát vở ở lớp. Kiểm tra chuẩn bị bài, bài tập
ứng dụng của các bạn, báo cáo với cô giáo vào đầu giờ. Trong tiết học ngoài
nhiệm vụ học tập của mình phải quan sát bao quát lớp để cuối mỗi tiết học nhận
xét đánh giá tình hình học tập của lớp.
Ngoài ra, tùy từng bài mà đặc biệt là ở hoạt động làm việc cả lớp, giáo
viên có thể để ban học tập thay cô giáo kiểm tra lại kiến thức mà các nhóm vừa
thảo luận xong. Muốn làm được tốt công việc đó, cuối mỗi buổi học, giáo viên
cần mời ban học tập ở lại để giao nhiệm vụ trước cho các em.
- Ban sức khỏe - vệ sinh: Nhắc nhở các bạn thực hiện tốt vệ sinh thân thể,
quy định về trang phục, quét dọn lớp, sân trường sạch sẽ; chăm sóc và bảo vệ
cây xanh. Nhắc nhở các bạn trật tự khi hoạt động tập thể, thu dọn ngăn nắp chỗ
ngồi khi ra chơi và ra về. Theo dõi sức khỏe của các bạn, nếu bạn ốm thì báo với
cô giáo.
- Ban quyền lợi: Quyền được được học tập và rèn luyện đầy đủ. Quyền
được đối xử công bằng, tôn trọng, bình đẳng. Quyền được trợ giúp, bảo vệ tính
mạng, thân thể, danh dự. Báo cáo với thầy, cô phân xử, xử lý các tình huống, sự
việc xảy ra trong lớp.

- Ban đối ngoại: Tổ chức các bạn lớp mình giao lưu, hợp tác, ứng xử tốt
với học sinh lớp khác. Tổ chức các bạn lớp mình giao lưu, ứng xử tốt với thầy,
cô giáo trong trường. Chào hỏi, giới thiệu về trường, lớp, các góc học tập, cô
giáo, các bạn với khách.
- Ban thư viện: Hướng dẫn, nhắc nhở các bạn mượn sách, đọc sách, trả
sách đúng quy định. Hướng dẫn, nhắc nhở các bạn sắp xếp, bảo vệ thư viện
trường, lớp gọn gàng, ngăn nắp. Giúp các bạn tự quản tốt các "tiết đọc sách".
Vận động các bạn quyên góp, ủng hộ sách, truyện cho thư viện.
Sau mỗi buổi học, HĐTQ ở lại về sau các bạn 5 phút để gặp giáo viên báo
cáo những việc đã làm được những việc chưa làm được còn gặp khó khăn để
giáo viên kịp thời tư vấn giúp đỡ và giao nhiệm vụ ngày mai cho các bạn.
2.2.4. Thông qua phong trào Lớp học thân thiện.
Với phong trào lớp học thân thiện, giáo viên sẽ giúp học sinh cùng nhau
thực hiện các hoạt động chung của lớp, hình thành kĩ năng tự phục vụ, biết xem
lớp học thân thiện là hình ảnh đẹp để cá nhân tự điều chỉnh mình thực hiện theo
cái đẹp như ăn mặc gọn gàng, vệ sinh thân thể tốt, biết sắp xếp đồ dùng ngăn
nắp,...Hàng tuần/ tháng, cùng với sự chỉ đạo của Liên đội, tôi tổ chức cho lớp
tổng dọn vệ sinh lớp học: quét mạng nhện, lau cửa kính, bảng biểu trong lớp,
chăm sóc bồn hoa ... Hàng ngày, yêu cầu nhóm trực phải đổ rác đúng nơi, theo
dõi việc thực hiện vệ sinh của học sinh trong lớp, trong việc phân loại rác, thực
hiện tiết kiệm nước, đi tiểu tiện đúng nơi quy định. Các nhóm trưởng phải
thường xuyên kiểm tra việc sắp xếp bàn ghế, đồ dùng học tập của thành viên
6


đảm bảo gọn gàng,.... để nhắc nhở các bạn, có tổng hợp đánh giá cụ thể trong
tiết sinh hoạt. Mỗi hành vi sai không chịu chỉnh sửa theo góp ý của bạn tôi đều
để học sinh tự phân tích tác hại thái độ đó đối với trường với lớp của các em một
cách tự giác để giúp các em tự nhìn thấy trách nhiệm của mình mà sửa chữa.
Nhờ vậy mà lớp học của tôi luôn đảm bảo tốt vệ sinh, lớp học sạch sẽ, học sinh

có thói quen tốt trong việc giữ gìn vệ sinh trường lớp, hoàn thành nhiệm vụ
chăm sóc bồn hoa, khu vực được phân công lao động, đoàn kết thương yêu giúp
đỡ nhau, tự giác hoàn thành các yêu cầu chung của nhóm, lớp trong học tập. Bên
cạnh đó, các nội quy, hình ảnh, khẩu hiệu trang trí lớp vừa tạo lớp học đẹp, vừa
góp phần giáo dục các em rèn các kĩ năng. Phong trào Lớp học thân thiện cũng
luôn được nhà trường khen ngợi.

Hình 2: Học sinh tích cực giữ gìn vệ sinh
2.2.5. Hình thành, phát triển các mối quan hệ trong lớp:
Bản thân tôi nhận thức việc xây dựng mối quan hệ thân thiết giữa thầy và
trò, giữa trò và trò là một việc làm cần thiết. Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu
sót, tôi luôn cố gắng kiềm chế và tôn trọng học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo
nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các em sửa chữa; lời nói, cử chỉ nhẹ
nhàng. Giáo viên cần phải quan tâm một cách nghiêm túc tới tiết sinh hoạt lớp
cuối tuần để nâng cao năng lực tự phục vụ, tự quản cho học sinh và phát triển
quan hệ giữa giáo viên - học sinh, học sinh với nhau.Trên cơ sở có được Hội
đồng tự quản đã biết làm việc, tổ chức giờ sinh hoạt lớp là điều kiện để các em
thể hiện tính chủ động, tự quản, vai trò của mình đối với lớp.
+ Hội đồng tự quản: Được đánh giá về những việc làm được và chưa được
của các bạn.
+ Học sinh: Được phát biểu tự do, thoải mái, thể hiện hết tâm tư nguyện
vọng của mình.
Ngoài ra, tôi còn tổ chức một cuộc “đối thoại nóng” với học sinh, vừa để
nắm được một cách cụ thể chi tiết hơn tình hình của từng học sinh trên lớp,
7


vừa tạo cơ hội để các em thể hiện tâm tư nguyện vọng…
Ví dụ: Tôi hỏi các câu: “Các em nói cho cô nghe ăn mặc, vệ sinh thân thể
như thế nào là đúng, thế nào là chưa đúng?” hoặc “ Các em không tự giác thực

hiện tốt các yêu cầu, nội quy thì có ảnh hưởng gì tới lớp mình không?”. Như
vậy, để các em tự nói là cách để các em tự điều chỉnh làm sao cho đúng. Trong
giờ sinh hoạt các em được nói, được hát, được chơi, được thể hiện hết mình, nên
giờ sinh hoạt đã trở thành sự háo hức, sự chờ đợi đối với các em. Nó thực sự lôi
cuốn được cả tập thể lớp nên tính tự quản, tinh thần tập thể có dịp để phát huy.
Bạn bè là người để các em chia sẻ buồn vui ngoài những người thân trong
gia đình. Nếu các em có nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác
vui vẻ với nhau và sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Là một giáo viên chủ nhiệm,
tôi luôn quan tâm đến vấn đề này. Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết,
đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong mọi hoạt động, tôi luôn tạo ra các
hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác, chia sẻ của nhiều học sinh.
Ví dụ: Tôi khuyến khích học sinh tự viết ra những điều em chưa đồng ý
về việc làm, cách cư xử của các bạn trong lớp, bỏ vào hộp thư “Điều em muốn
nói”, chứ không nói xấu, không xa lánh bạn. Sau cuối mỗi tuần, tôi kiểm tra hộp
thư và căn cứ vào những điều các em viết ra, nếu là những điều tốt thì tôi đọc
cho cả lớp nghe rồi tuyên dương ngay trước lớp. Còn những điều các em phê
bình thì tôi phải điều tra nắm rõ đúng hay sai. Sau đó mới góp ý riêng với những
học sinh bị bạn phê bình, yêu cầu các em phải xin lỗi bạn và phải sửa chữa.

Hình 4: Hộp thư Điều em muốn nói

Hình 5: Học sinh gửi tâm sự vào hộp thư

Từ mối quan hệ này, tôi thấy các em đã gắn bó tình đoàn kết, tạo tính tự
giác, tính mạnh dạn, biết lắng nghe, biết tự điều chỉnh khắc phục những lỗi mắc
phải nhằm thực hiện tốt các hoạt động, kế hoạch đề ra trong nhóm, lớp.
(

2.2.6. Sự gương mẫu giáo viên.
8



Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lí cũng như sự hình
thành tính cách của học sinh. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn chú đến cả cách đi
đứng, nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết, thái độ,...để học trò noi
theo.
Giáo viên chủ nhiệm có sắp xếp khoa học công việc của mình thì sẽ là
một gương sáng thuyết phục các em học sinh có thói quen tổ chức việc chuẩn bị
đồ dùng, sắp xếp góc học tập, cặp đi học, bàn học,… của mình khoa học hơn.
Bàn giáo viên phải có khăn bàn, lọ hoa, hộp đựng bút và được xếp ngay ngắn.
Hình ảnh một giáo viên luôn chủ động trong giảng dạy kiến thức, sử dụng
tốt đồ dùng dạy học trên lớp sẽ giúp học sinh tin tưởng giáo viên hơn. Vì vậy,
mỗi giờ dạy, tôi nghiên cứu kĩ nội dung, chuẩn bị các hình thức tổ chức cũng
như sử dụng đầy đủ các đồ dùng dạy học. Có như vậy, tiết học sẽ sinh động hơn.
Học sinh sẽ thấy việc mình chuẩn bị nội dung học tập, đồ dùng học tập cho tiết
học góp phần tạo thành công trong tiết học. Từ đó, các em sẽ noi gương theo sự
chuẩn bị chu đáo của giáo viên.
Như vậy, thông qua hình ảnh đẹp của giáo viên, học sinh sẽ noi gương
thực hiện tốt hơn hình thức của mình cũng như chú ý hơn đến sắp xếp đồ dùng
sách vở của mình trên lớp cũng như ở nhà, chuẩn bị tốt bài vở, đồ dùng học tập
trước khi đến lớp.
2.2.7. Thông qua giảng dạy các môn học
Thông qua kiến thức, giáo dục phẩm chất, năng lực cho học sinh và cũng
là mục tiêu chung của ngành giáo dục. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài học các
môn, tìm các nội dung phù hợp nhằm lồng ghép giáo dục thêm trong các môn
học. Qua đó gián tiếp rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản cho học sinh.
Ví dụ 1: Để định hướng cho học sinh những hành vi đúng trong sinh hoạt,
quan hệ bạn bè, tôi cho học sinh xử lý các tình huống, trò chơi đóng vai...(môn
Đạo đức), hay sắp xếp bố trí thời gian học tập và sinh hoạt hợp lí qua bài Đạo
đức Tiết kiệm thời giờ,...Từ đó các em biết tự sửa sai, học tập và làm theo gương

tốt một cách nhẹ nhàng, thoải mái.
Đối với Bài 5: “Tiết kiệm thời giờ” tôi tiến hành như sau:
Hoạt động 1: Tìm hiểu truyện kể “Một phút”
Việc 1: Học sinh chia vai kể lại câu chuyện của Mi - chi - a
Việc 2: Chia sẻ câu chuyện, trả lời câu hỏi: Từ câu chuyện của Mi - chi - a
các em rút ra bài học gì?
Việc 3: Báo cáo kết quả
Đánh giá:
- Tích cực hợp tác với bạn tìm hiểu câu chuyện.
- Học sinh biết quý trọng và tiết kiệm thời giờ. Biết tự phục vụ bản thân:
9


sắp xếp thời gian biểu học tập và vui chơi hợp lí.
Ví dụ 2: Để giúp học sinh có các năng lực: vệ sinh thân thể sạch sẽ, ăn
mặc gọn gàng qua các bài: Phòng một số bệnh lây qua đường tiêu hoá, Bạn cảm
thấy thế nào khi bị bệnh (Khoa học), Mở rộng vốn từ: Sức khoẻ. Cái đẹp (Luyện
từ và câu),...
Bài 14 : Phòng một số bệnh lây qua đường tiêu hóa
Hoạt động 2: Nguyên nhân và cách phòng bệnh lây qua đường tiêu hoá
Việc 1: Cá nhân quan sát tranh ở sách giáo khoa trang 30, 31.
Việc 2: Hoàn thành câu hỏi theo phiếu học tập:
- Bạn nào có việc làm đúng, bạn nào có việc làm sai dẫn đến bệnh lây qua
đường tiêu hóa? Giải thích?
- Nêu nguyên nhân và cách phòng bệnh lây qua đường tiêu hoá?
- Để phòng các bệnh lây qua đường tiêu hoá ta cần làm thế nào?
Việc 3: Nhóm trưởng tổng kết câu trả lời, báo cáo.
Đánh giá: - Nêu được nguyên nhân và cách phòng bệnh lây qua đường
tiêu hoá.
- Mạnh dạn, tự tin khi khi trình bày trước lớp.

- Biết giữ gìn vệ sinh thân thê: ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ,...
Ngoài ra, tôi thường xuyên tổ chức các hoạt động tìm hiểu bài theo nhóm
để hình thành tinh thần trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ được giao, động viên
nhau thực hiện các yêu cầu của nhóm, lớp, giáo viên.

Hình 6: Tích cực thực hiện yêu cầu học tập của nhóm
2.2.8. Phối hợp chặt chẽ với tổ chức đội, sao trong nhà trường và các
lực lượng giáo dục ngoài nhà trường
Các tổ chức trong nhà trường, đặc biệt là đội, luôn có tác động tới học
sinh. Việc kiểm tra, đánh giá nề nếp tác phong hàng ngày (qua đội cờ đỏ), kiểm
tra hàng tuần của Tổng phụ trách, các em sẽ có ý thức thực hiện tốt để không
ảnh hưởng đến thi đua của lớp.
Phối hợp với cha mẹ học sinh để cùng trao đổi nắm vững tình hình học
tập và thói quen, hành vi đạo đức của các em ở lớp và ở nhà. Trong các cuộc họp
10


phụ huynh hoặc liên hệ, khuyến khích phụ huynh hướng dẫn hoặc kiểm tra con
em mình thực hiện các nề nếp tập trung vào rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản như:
+ Tích cực hướng dẫn con em mình tự làm một số việc để phục vụ bản
thân như đánh răng, rửa mặt, gấp chăn màn, mặc quần áo, sắp xếp sách vở và đồ
dùng học tập,... phù hợp với lứa tuổi;
+ Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em mình; nhắc nhở con em chuẩn
bị các nội dung học tập ngày mai, sách vở và đồ dùng học tập trước khi đến lớp;
+ Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi; sinh hoạt
điều độ, đúng thời gian biểu, giờ nào việc nấy, tránh tình trạng vừa học vừa
chơi, tự phân bố thời gian học tập, sinh hoạt khi không có người lớn,...
- Giáo viên thông báo kịp thời qua thư trao đổi, điện thoại hoặc đến nhà,
trao đổi trực tiếp về sự tiến bộ của các em nên cũng giúp cho các em tự giác
thực hiện tốt các yêu cầu, từng bước nâng cao kĩ năng tự phục vụ.

Theo tôi, dù là sử dụng hình thức hay phương pháp nào để rèn kĩ năng tự
phục vụ, tự quản thì việc nêu gương, khen thưởng đóng một vai trò quan trọng.
Bởi vì, tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên
nên tôi thực hiện các việc sau:
- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ
huynh lớp về việc khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt yêu cầu, nội
quy.
- Sau mỗi tuần học, Chủ tịch HĐTQ đánh giá chung các mặt hoạt động,
trưởng các ban đánh giá cụ thể các mặt hoạt động của từng thành viên, sau đó
bầu chọn học sinh tuyên dương trước lớp và nhận thưởng. Đặc biệt chú ý đến
học sinh chậm tiến trong học tập nhưng có tiến bộ về các mặt vệ sinh, thực hiện
tốt các hoạt động, yêu cầu thì được tuyên dương và khen thưởng. Tôi đã chú ý
tìm ra những ưu điểm, tiến bộ của học sinh dù là việc nhỏ cũng khen các em để
động viên, tạo nguồn động lực cho các em.
*Từ những việc làm trên, giáo viên đã động viên khích lệ tinh thần các
em khi thực hiện các yêu cầu của nhóm, lớp, giáo viên, các nội quy, quy định.
2.3 Kết quả
Qua thời gian áp dụng những phương pháp trên, bản thân tôi nhận thấy
lớp học đã đạt được những kết quả như sau:
- Tất cả các em học sinh biết tự phục vụ bản thân, giữ vệ sinh cá nhân,
tham gia mọi hoạt động của trường, của lớp một cách nhiệt tình và có hiệu quả.
Luôn tự giác chấp hành các quy định, yêu cầu của nhóm, lớp, giáo viên.
- Nề nếp lớp học ngày một tốt hơn, có quy cũ hơn. Học sinh tự giác trong
công tác vệ sinh trường lớp, trình bày bài trong vở, …
- Kỹ năng giao tiếp của các em trôi chảy, lưu loát hơn; các em tự tin hơn
trong giao tiếp, học tập, mạnh dạn trao đổi những khó khăn vướng mắc với giáo
11


viên chủ nhiệm.

- Học sinh ý thức được tinh thần trách nhiệm trong các hoạt động, phong
trào thi đua của lớp; tinh thần đoàn kết, kĩ năng hợp tác và khả năng làm việc
theo nhóm hiệu quả cao hơn.
- Nghiêm túc tập thể dục, múa hát giữa giờ, xếp hàng ra vào lớp một cách
trật tự. Sinh hoạt 15 phút đầu giờ nghiêm túc, chất lượng (kể cả những khi
không có giáo viên chủ nhiệm).
- Kết quả theo dõi của đội sao đỏ trong những tuần gần đây đã có tiến bộ
rõ rệt, cụ thể:
Tuần
1
2
3
4
5
6
7
8
Xếp thứ
8
9
7
5
3
1
1
1
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa và phạm vi áp dụng của sáng kiến
Việc vận dụng các biện pháp trên không những giúp các em có kĩ năng tự
phục vụ tự quản, góp phần hình thành và phát triển toàn diện năng lực và phẩm

chất của học sinh: tự phục vụ, tự quản; hợp tác; tự học và giải quyết vấn đề;
phẩm chất: chăm học, chăm làm; tự tin, trách nhiệm; trung thực, kỉ luật; đoàn
kết, yêu thương. Giúp các em hình thành những thói quen hành vi văn minh
trong cuộc sống.
* Phạm vi áp dụng:
Sáng kiến này được áp dụng trong việc rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản cho
học sinh lớp 41 có kết quả tốt. Tôi nhận thấy có thể áp dụng sáng kiến này cho
tất cả các lớp ở trường Tiểu học và có thể nhân rộng cho các lớp trên.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Tăng cường đổi mới phương pháp dạy học, cùng chia sẻ, học hỏi kinh
nghiệm của nhau để giúp học sinh rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản nói riêng và
các năng lực, phẩm chất nói chung.
Cần khen thưởng kịp thời đối với những tập thể lớp, cá nhân thực hiện có
hiệu quả việc xây dựng nền nếp lớp học, tấm gương tốt của học sinh về học tập,
rèn luyện đạo đức, giúp đỡ bạn bè, thực hiện gương mẫu mọi hoạt động trong
nhà trường.
Trên đây là một số biện pháp của bản thân trong việc “Rèn kĩ năng tự
phục vụ, tự quản của học sinh lớp 4”. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý bổ
sung của Ban giám hiệu nhà trường, các cấp quản lý giáo dục để bản sáng kiến
có được những kinh nghiệm bổ ích có thể áp dụng cho các năm học sau.
Xin chân thành cảm ơn!

12


XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
.……..
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………

13



Một số giải pháp nâng cao năng lực tự phục vụ, tự quản cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.47 KB, 17 trang )

1.MỞ ĐẦU
1.1, Lí do chọn đề tài
Bậc học tiểu học là bậc học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc
hình thành và phát triển tồn diện nhân cách của con người. Mục tiêu của
giáo dục Tiểu học là nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản góp phần hình thành và phát triển toàn diện về
nhân cách cho các em, là cơ sở để học sinh học tiếp các bậc học sau.
Tự phục vụ bản thân là một trong những kỹ năng quan trọng thúc
đẩy học sinh hoàn thiện nhân cách một cách tốt nhất. Rèn kĩ năng Tự phục
vụ, tự quản cũng là rèn kĩ năng sống, rèn khả năng thích ứng với những thay
đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống, giúp học sinh biết giải quyết các vấn
đề cơ bản một cách tự lập. Vì vậy, khơng có con đường nào khác, giáo viên
chủ nhiệm phải hướng tới rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản cho học sinh.
Rèn kĩ năng Tự phục vụ, tự quản là việc làm cần thiết trong nội dung
đổi mới công tác chủ nhiệm, công tác giáo dục nhân cách học sinh. Chúng
ta phải biến quá trình giáo dục thành tự giáo dục, tự phục vụ, tự ý thức, tự
quản lấy chính mình, tổ, lớp mình. Chỉ có như thế nhân cách học sinh mới
được xác lập bền vững. Chất lượng giáo dục của chúng ta mới không bị tụt
hậu, mới sánh ngang tầm các nước trong khu vực, mới đáp ứng được những
yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống hiện đại.
Tuy nhiên, qua thời gian chủ nhiệm lớp, tôi nhận thấy phần lớn các
em thiếu kiến thức về kĩ năng sống, mà trong đó kĩ năng cơ bản nhất là kĩ
năng tự phục vụ, tự quản. Nhiều học sinh thường xuyên vi phạm nội quy,
chưa tự giác học tập, cịn tâm lí ỷ lại vào thầy cô và cha mẹ. Ban cán sự lớp
chưa thật sự hiểu rõ được nhiệm vụ của mình và cũng chưa được bồi dưỡng
khả năng tự quản lớp. Giáo viên quan tâm nhiều đến việc dạy kiến thức cho
học sinh, chưa tập trung nhiều vào giáo dục, trang bị cho học sinh năng lực
tự phục vụ, tự quản và khi đánh giá năng lực, phẩm chất cho HS cịn dựa
trên trực giác của mình. Nhiều cha mẹ chưa thực sự quan tâm đến việc rèn
tính tự lập cho con nên các em chưa xác định được cho mình một hướng


đi đúng (ý thức, trách nhiệm) trong học tập và kỉ luật.
Chính vì những lý do trên, tơi mạnh dạn đưa ra “Một số giải pháp
nâng cao năng lực tự phục vụ, tự quản cho học sinh lớp 3” trường Tiểu
học Hải Lộc nhằm nâng cao chất lượng trong cơng tác chủ nhiệm lớp của
mình nói riêng và nhân rộng trong trường nói chung.
1.2, Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu Sáng kiến kinh nghiệm này để tìm ra những biện pháp
giúp học sinh lớp 3 nâng cao năng lực tự phục vụ, tự quản

1


- Góp phần đổi mới cơng tác chủ nhiệm lớp cho bản thân, nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện cho học sinh lớp 3 nói riêng và học sinh tiểu học
nói chung.
- Việc nâng cao năng lực Tự phục vụ, tự quản cho học sinh sẽ giải quyết
được mâu thuẫn giữa nhiệm vụ học tập và ý thức học tập của học sinh.
- Tìm ra những giải pháp phù hợp để làm tốt công tác chủ nhiệm gắn với
việc nâng cao chất lượng giáo dục.
1 .3, Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu Sáng kiến kinh nghiệm này để tìm ra những giải pháp
giúp học sinh lớp 3A trường Tiểu Học Hải lộc nâng cao năng lực tự phục
vụ, tự quản.
1.4, Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện sáng kiến này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
*. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
- Đọc và nghiên cứu các tài liệu: sách, báo, tạp chí giáo dục…có liên
quan đến nội dung sáng kiến kinh nghệm
- Nghiên cứu tài liệu về đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh Tiểu học.
*. Phương pháp điều tra:

- Điều tra, khảo sát đối tượng học sinh lớp 3 về khả năng lực tự phục
vụ, tự quản
- Điều tra về thực trạng về khả năng lực tự phục vụ, tự quản của học
sinh lớp 3 trường tiểu học Hải Lộc.
* Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
- Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về khả năng lực tự phục vụ, tự
quản của học sinh khối lớp 3 trường tiểu học Hải Lộc.
- Qua việc thực hiện các biện pháp giúp HS lớp 3 nâng cao năng lực tự
phục vụ, tự quản.
* Phương pháp đánh giá.
- Đánh giá thực trạng của vấn đề.
- Đánh giá kết quả thực nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Tự phục vụ bản thân là một trong những kỹ năng quan trọng thúc
đẩy học sinh hoàn thiện nhân cách một cách tốt nhất. Việc hình thành
năng tự phục vụ sẽ giúp các em ý thức được sự cần thiết phục vụ bản thân,
biết tự chăm sóc bản thân, tăng cường tính độc lập; các em sẽ sống có trách
nhiệm hơn đối với chính mình; biết quan sát và làm theo hướng dẫn của
người lớn trong các công việc hàng ngày ở nhà cũng như ở lớp,… Thiếu
năng lực tự phục vụ sẽ dẫn đến hệ luỵ trẻ lười biếng, thụ động và gặp khó
khăn khi tham gia vào các hoạt động của tập thể.
2


Việc rèn học sinh có năng lực tự quản là việc làm cần thiết của giáo
viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm không thể ôm đồm, làm thay mọi việc
của học sinh, không phải lúc nào giáo viên chủ nhiệm cũng có mặt trên lớp
để chỉ đạo những cơng việc thường ngày của lớp. Mặt khác, sự hiện diện
quá nhiệt tình của giáo viên chủ nhiệm sẽ khiến cho học sinh nảy sinh tâm lí

ỷ lại, trơng chờ vào giáo viên chủ nhiệm, thiếu trách nhiệm với bản thân và
với tập thể, làm lu mờ vị trí, vai trị của chính các em ngay tại tập thể lớp.
Nâng cao năng lực Tự phục vụ, tự quản cho học sinh là nâng cao kĩ
năng sống, khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong
cuộc sống của trẻ, giúp học sinh biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách
tự lập.
Trong quá trình giảng dạy, phần lớn giáo viên chỉ quan tâm đến trang
bị kiến thức cho học sinh, chưa thực sự chú trọng vào việc nâng cao năng
lực học tập và rèn kĩ năng sống cho học sinh. Bên cạnh đó, cha mẹ học sinh
mới quan tâm tới việc nhắc nhở con em mình nắm kiến thức bài học, còn
các nội dung khác trong đánh giá học sinh vẫn chỉ là nội dung phụ, chưa
thực sự quan trọng.
2.2, Thực trạng năng lực tự phục vụ, tự quản của học sinh
2.2.1, Thực trạng chung
* Thuận lợi
Giáo viên rất quan tâm đến việc rèn năng lực tự phục vụ, tự quản
cho học sinh.
Ban giám hiệu luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao việc rèn nề nếp học
tập và năng lực tự phục vụ, tự quản cho học sinh.
Ban đại diện Cha mẹ học sinh của lớp, trường nhiệt tình, trách
nhiệm; mối quan hệ giữa giáo viên và cha mẹ học sinh gắn bó chặt chẽ.
* Khó khăn
Học sinh lớp Ba cịn nhỏ, tâm sinh lý chưa hồn thiện, nhận thức
chưa đồng đều, khả năng ghi nhớ chưa cao.
Trình độ nhận thức học sinh không đồng đều, một số em có khả
năng nhận thức tốt thì nhút nhát, một số em nhận thức cịn hạn chế thì q
hiếu động.
Tiết sinh hoạt cuối tuần cịn mang hình thức, giáo viên nhận xét và
thông báo kế hoạch cho tuần tới.
Một số GVCN tự đánh giá năng lực, phẩm chất cho HS dựa trên

trực giác của mình.
Một số cha mẹ chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục cho các
em những năng lực Tự phục vụ, tự quản.
2.2.2. Thực trạng năng lực tự phục vụ, tự quản của học sinh lớp
3A, trường Tiểu học Hải Lộc, năm học 2020-2021

3


Năm học 2020-2021, tôi được Nhà trường phân công giảng dạy và
chủ nhiệm lớp 3A. Đầu năm học, tôi thiết kế phiếu thăm dò năng lực tự phục
vụ, tự quản và phát cho 35/ 35 học sinh của lớp 3A để lấy ý kiến đánh giá của
cha mẹ học sinh.
PHIẾU THĂM DÒ NĂNG LỰC TỰ PHỤC VỤ, TỰ QUẢN
Họ và tên:.........................
Lớp: 3A
Dưới đây là những biểu hiện hành vi có thể quan sát thấy ở một học
sinh. Phụ huynh hãy đọc kỹ từng câu và đánh giá xem con mình thực hiện ở
mức độ nào? (chỉ chọn 1 trong 3 mức độ)
Mức độ 1: Cần cố gắng (C) ;Mức độ 2: Đạt (Đ);Mức độ 3: Tốt (T)
ST
T

Mức độ

Các biểu hiện cụ thể được quan sát ở năng lực Tự
phục vụ, tự quản

1


2

3

1 HS tự vệ sinh thân thể, ăn, mặc gọn gàng sạch sẽ
2 HS tự chuẩn bị đồ dùng học tập cá nhân ở trên lớp, ở nhà
3 HS tự giác hồn thành cơng việc được giao đúng hạn
4 HS chủ động khi thực hiện các nhiệm vụ học tập
5 HS tự sắp xếp thời gian HT, sinh hoạt cá nhân, vui chơi hợp lí
6 HS tự sắp xếp thời gian làm các bài tập theo yêu cầu của GV

Sau 2 tuần quan sát, theo dõi và căn cứ kết quả thăm dò từ cha mẹ
học sinh lớp 3A, tôi thu được thực trạng năng lực tự phục vụ, tự quản của
học sinh như sau:
ST Các biểu hiện cụ thể được quan sát ở năng
T
lực Tự phục vụ, tự quản
1

1 HS tự vệ sinh thân thể, ăn, mặc gọn gàng
sạch sẽ

Mức đạt được
%

2

%

3


%

7 20.0 18 51.5 10 28.5

2

HS tự chuẩn bị đồ dùng học tập cá nhân ở
trên lớp, ở nhà

13 37,1 15 42.8 7 20.1

3

HS tự giác hoàn thành công việc được giao
đúng hạn

11 31,5 15 42.8 9 25,7

4 HS chủ động khi thực hiện các nhiệm vụ HT

19 54.4 11 31,4 5 14,2

HS tự sắp xếp thời gian học tập, sinh hoạt cá
nhân, vui chơi hợp lí

25 57.2 11 31,4 4 11.4

6 HS tự sắp xếp thời gian làm các bài tập theo


19 54.4 10 28.5 6 17,1

5

4


yêu cầu của giáo viên

Lưu ý: mức độ 1: Cần cố gắng (C); mức độ 2: Đạt (Đ), mức độ 3: Tốt (T)
Từ kết quả trên, tơi phân tích tìm ra những ưu điểm và tồn tại về
năng lực Tự phục vụ, tự quản của học sinh đó là:
- Các em nhận được sự quan tâm hết mực của cha mẹ, thầy cô…
được trang bị tương đối đầy đủ về đồ dùng học tập, môi trường học tập
thân thiện…Song, các em vẫn còn bộc lộ rõ những tồn tại:
- Học sinh chưa biết tự chuẩn bị và tự quản đồ dùng học tập cá
nhân ở lớp, ở nhà.
- Các em chưa thực sự tự giác thực hiện theo yêu cầu nhóm, lớp và cả
giáo viên.
- Việc bố trí thời gian học tập và sinh hoạt chưa phù hợp; kết quả về
học tập cũng không đồng đều.
- Thiếu tự tin khi giao tiếp..
* Nguyên nhân của thực trạng
- Trước hết là do nhận thức của học sinh, một bộ phận phụ huynh
chưa thấy hết vị trí, tầm quan trọng của việc rèn năng lực tự phục vụ, tự
quản của con em mình, thời gian dành cho con cái khơng nhiều vì điều
kiện đi làm ăn xa hoặc đi công ty; e ngại sợ con mình làm hư hỏng, chậm
chạp nên làm thay, làm hộ.
- Học sinh phải học nhiều môn, nhưng môn học nào cũng mới mẻ
đối với các em nên gây nhiều lúng túng cho các em trong mỗi giờ học.

- Học sinh chưa có thói quen trong việc tự chuẩn bị đồ dùng học
tập, chưa biết cách sử dụng bảng con, đồ dùng học tập.
- Hội đồng tự quản lớp chưa thật sự hiểu rõ được nhiệm vụ của
mình và cũng chưa được bồi dưỡng khả năng tự quản lớp cho các Ban tự
quản.
- Giáo viên chủ nhiệm tự đánh giá năng lực, phẩm chất cho học sinh
dựa trên trực giác của mình mà chưa căn cứ vào bảng tham chiếu đánh giá
năng lực học sinh.
Với những biểu hiện trên, lớp học chưa có nề nếp, khơng khí lớp
học nặng nề, giáo viên giảng dạy hết sức vất vả, tiết học kéo dài lấn thời
gian của tiết sau, hiệu quả tiết học không đạt như mong muốn. Trước
những thực trạng trên tơi suy nghĩ và tìm ra giải pháp nhằm nâng cao
năng lực tự phục vụ, tự quản cho học sinh lớp mình phụ trách.
2.3 Một số giải pháp nâng cao năng lực tự phục vụ, tự quản cho học sinh
2.3.1.Thu thập thông tin cá nhân của học sinh và sắp xếp học
sinh theo tổ, nhóm tương đồng

5


a. Thu thập thông tin học sinh: Đầu năm học, khi được phân công
chủ nhiệm lớp 3A, tôi đã tiến hành thu thập thơng tin, tìm hiểu đặc điểm của
từng đối tượng học sinh trong lớp thông qua:
- Hồ sơ học sinh như giấy khai sinh, sổ hộ khẩu: để nắm được thơng
tin học sinh một cách chính xác và tiện cho việc theo dõi, liên hệ với cha mẹ
học sinh.
- Giáo viên dạy lớp 1: để nắm được đặc điểm của đối tượng học sinh
và ban đầu hỗ trợ cho việc tiếp cận, giúp đỡ học sinh theo từng đặc điểm
riêng biệt của từng em.
- Học sinh trong lớp: nhằm phát hiện những ưu điểm, hạn chế của các

em nhằm tạo điều kiện và làm cơ sở xây dựng để các em cùng giúp đỡ nhau
trong học tập cũng như trong sinh hoạt.
- Cha mẹ học sinh: Nhằm nắm được hồn cảnh, cá tính và khả năng
đặc biệt hay những hạn chế của học sinh để có biện pháp bồi dưỡng, giúp đỡ
thiết thực.
b. Tiến hành phân loại đối tượng học sinh: Qua việc nắm được đối
tượng, đặc điểm học sinh, tôi tiến hành phân loại đối tượng học sinh để đưa
vào sổ kế hoạch công tác chủ nhiệm, cụ thể:
- Học sinh gặp hồn cảnh khó khăn
- Học sinh khuyết tật
- Học sinh cá biệt về đạo đức
- Học sinh có khả năng nhận thức tốt
- Học sinh hạn chế về khả năng nhận thức
* Đối với những học sinh có hồn cảnh gia đình khó khăn: Tổng số
học sinh khó khăn trong lớp 05 em, trong đó có 01 em đặc biệt khó khăn,
để giúp đỡ các em đặc biệt khó khăn có đủ điều kiện học tập tôi đã lập
danh sách đề nghị nhà trường hỗ trợ trang phục, sách vở cho các em từ
quỹ khuyến học của nhà trường. Riêng các em khó khăn, tơi tiến hành rà
sốt lại để biết mặt khó khăn của từng học sinh, từ đó xây dựng biện pháp
như “Gây quỹ giúp đỡ bạn nghèo của lớp” để giúp đỡ bạn.
* Đối với những học sinh khuyết tật (lớp không có đối tượng học sinh
này)
* Đối với học sinh cá biệt về đạo đức
- Tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa
bố và mẹ, gia đình thiếu quan tâm hoặc có thể bị bạn bè, kẻ xấu lơi kéo….
Hoặc trẻ có những tính xấu mà bản thân gia đình chưa giáo dục được…
- Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học
sinh nhưng không cứng nhắc. Tuyệt đối không sử dụng phương pháp trách
phạt, chú ý gần gũi các em và thường xuyên nhắc nhở động viên khen chê
kịp thời. Giao cho các em đó một chức vụ trong lớp nhằm gắn với các em

trách nhiệm để từng bước điều chỉnh mình. Tạo mối quan hệ bạn bè cho các
6


em dần dần gắn bó với nhau vì đối với các em học sinh cá biệt về đạo đức
thì ít khi hòa đồng với bạn bè xung quanh, tạo cho đối tượng học sinh này
có cơ hội giúp bạn một việc dù nhỏ. Từ đó, các em sẽ được bạn bè quý mến
hơn và ngược lại đối với cả lớp cũng phải có thái độ ân cần giúp đỡ bạn
bằng lời động viên, cổ vũ để giúp bạn dần hoàn thiện mình.
* Đối với học sinh hạn chế về nhận thức
- Tìm hiểu ngun nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những mơn
nào. Có thể là ở gia đình các em đó khơng có thời gian học tập vì phải làm
nhiều việc hoặc em đó bị hỏng về kiến thức nên cảm thấy chán nản.
- Tôi lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:
+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu vào những thời gian ngoài giờ
lên lớp như: 15 phút đầu giờ, giờ ra chơi hoặc cuối mỗi buổi học,...
+ Đối với học sinh bị hổng kiến thức, tôi thống kê theo môn, nội dung
bị hổng và tập trung các em lại thành nhóm yếu theo mảng kiến thức. Bản
thân tôi cùng học với các em những lúc ra chơi hàng ngày có thể dùng hình
thức trị chơi, thi đố vui, thi tìm nhanh… vừa giúp các em được giải trí mà
cịn tiếp thu được kiến thức bị hỏng (việc làm này đòi hỏi mỗi giáo viên phải
hết sức nhiệt tình, linh hoạt trong cách tổ chức cho từng nhóm được luân
phiên giúp đỡ). Sau lúc cùng học giáo viên có yêu cầu nhỏ cho từng nhóm
yếu nghiên cứu và xem nội dung cụ thể nào đó và lần sau báo lại cho cô và
các bạn cùng nghe. Như thế các em sẽ thực hiện nhiệt tình hơn và điều
khơng thể thiếu trong lúc này là lời khen cho những em thực hiện tốt lời
dặn, như vậy lần sau các em sẽ tiếp tục thực hiện tốt hơn, dần dần lấp được
những chỗ hổng về kiến thức của các em một cách nhẹ nhàng.
+ Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh có thể trả lời được
nhằm tạo hứng thú và củng cố niềm tin ở các em.

+ Thường xuyên kiểm tra các đối tượng đó trong qua trình lên lớp.
+ Tổ chức cho học sinh học theo nhóm ở nhà để học sinh khá giỏi
giúp đỡ học sinh yếu kém tiến bộ theo nhóm nhà gần nhau. Tổ chức cho các
em thi đua đôi bạn cùng tiến ở lớp, hướng dẫn các em cách học cách giúp đỡ
bạn.
+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như
sự tiến bộ của con em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các
em.
+ Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt
chí, xấu hổ trước bạn bè.
Tóm lại dù với đối tượng nào bản thân giáo viên phải lưu ý dùng
phương pháp tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, phối hợp với
phụ huynh để giáo dục và đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then
chốt.
c. Phân tổ trong lớp
7


- Trên cơ sở thu thập thông tin, tôi tiến hành phân học sinh theo tổ,
nhóm.
- Giữa các tổ, nhóm có sự đồng đều về số lượng, tương đương về giới
tính, xếp loại học tập và rèn luyện cũng như nơi ở.
- Sau đó, tơi trao đổi cùng các thành viên trong tổ để bầu ra một bạn có
khả năng nhận thức tốt, nhanh nhẹn, nói to, rõ ràng làm tổ trưởng, nhóm
trưởng.
2.3.2. Xây dựng Hội đồng tự quản lớp
Đây là một việc quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại
của việc rèn kĩ năng tự quản nói riêng và cơng tác chủ nhiệm nói chung.
Việc bầu chọn và xây dựng Hội đồng tự quản lớp là một công việc rất quan
trọng mà người giáo viên chủ nhiệm nào cũng cần phải làm ngay sau khi

nhận lớp mới.
Để xây dựng Hội đồng tự quản lớp, tôi tiến hành các bước như sau:
Bước 1: Lựa chọn đối tượng học sinh
Ngay từ đầu năm học, tôi rất chú trọng việc thành lập Hội đồng tự
quản, việc giúp các em lựa chọn ra một Hội đồng tự quản có thể đạt các yêu
cầu sau:
- Nhận thức nhanh;
- Nhanh nhẹn, hoạt bát;
- Mạnh dạn, tự tin và có trách nhiệm cao trong các cơng việc được
giao.
Sang học kì II, để phát huy tinh thần dân chủ và ý thức trách nhiệm đối
với tập thể nên tôi tổ chức cho các em ứng cử và bầu cử để chọn lựa Hội đồng
tự quản của lớp.
Bước 2: Huấn luyện học sinh
- Huấn luyện cách làm việc cho từng học sinh
- Phân công việc làm phù hợp với từng học sinh
Bước 3: Phân công nhiệm vụ cụ thể cho các ban của Hội đồng tự
quản.
Sau khi lựa chọn được Hội đồng tự quản lớp, tôi giúp các em phân
công nhiệm vụ cụ thể cho từng ban như sau:
- Chủ tịch Hội đồng quản trị
+ Theo dõi sĩ số lớp
+ Theo dõi và nhắc nhở các bạn xếp hàng ra vào lớp đúng quy định.
+ Hô cho cả lớp chào các thầy cô khi vào lớp, ra chơi, tan học.
+ Vào đầu giờ mỗi ngày, Chủ tịch Hội đồng tự quản yêu cầu các bạn
lấy sách ra đọc bài, ôn lại những bài đã học trong tuần qua; hoặc ôn lại các
bảng cộng, bảng trừ,...
Ban học tập

8



+ Theo dõi các thành viên đi học đầy đủ, đúng giờ, học tập nghiêm
túc.
+ 15 phút đầu giờ kiểm tra việc chuẩn bị bài của bạn và báo cáo lại
cho cô giáo, làm cơ sở tổng kết thi đua cuối tuần.
+ Báo cáo kịp thời với giáo viên chủ nhiệm những sự việc “có vấn
đề” trong cơng việc học tập hàng ngày.
- Ban lao động
+ Nhắc nhở các bạn thực hiện lao động tập trung, lao động trực tuần,
hàng ngày.
+ Theo dõi các bạn thực hiện vệ sinh lớp học, trang trí lớp, các góc học
tập, chăm sóc bồn hoa và cây trồng của lớp.
+ Theo dõi, kiểm tra các bạn khi tham gia các buổi lao động do trường, lớp
tổ chức.
+ Phối hợp với các Ban trong Hội đồng tự quản quản lý lớp học.
- Ban văn nghệ
+ Phụ trách văn nghệ, tổ chức cho lớp hát tập thể đầu giờ học hoặc
những lúc chuyển tiết.
+ Phối hợp cùng các Ban tham gia các tiết mục văn nghệ chào mừng
các ngày lễ lớn do Đoàn đội tổ chức, tham gia đầy đủ các tiết Giáo dục hoạt
động ngoài giờ lên lếp…
Bước 4: Bồi dưỡng, tổ chức sinh hoạt, rút kinh nghiệm cho Ban tự
quản
Sự trưởng thành của một tập thể lớp gắn liền với chức năng tự quản
của tập thể lớp đó. Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần có kế hoạch bồi
dưỡng Ban tự quản thơng qua việc thực hiện các nhiệm vụ, các hoạt động
giáo dục của học sinh.
Trước hết, tôi giúp các em thiết kế sổ theo dõi năng lực tự phục vụ,
tự quản giúp các em. Hàng ngày, hàng tuần các Ban tự quản theo dõi và

báo cáo với Chủ tịch Hội đồng tự quản và giáo viên chủ nhiệm những
việc các bạn đã thực hiện đúng và những việc các bạn chưa làm được.
SỔ THEO DÕI HỌC SINH
TỔ 1
Thứ /ngày

Họ và tên

Nội dung khuyết điểm

Nội dung khen

Thứ hai 22/ 9
Thứ ba 23/ 9
Thứ tư 24/9
Thứ năm26/9
Thứ sáu 27/9

9


Tổng hợp

Họ và tên

Tổng số lần mắc
khuyết điểm

Tổng số lần
được khen


- Trong giai đoạn đầu hình thành tập thể lớp tự quản, tôi thường xuyên
đối thoại với Hội đồng tự quản. Cứ mỗi tuần, vào tiết sinh hoạt lớp, tôi lại tổ
chức một cuộc “đối thoại nóng” với từng Ban để biết cụ thể tình hình của từng
học sinh trong lớp và khả năng tự quản của từng Ban. Cuộc đối thoại có
thể thường bắt đầu bằng các gợi ý “mềm” của giáo viên: “Theo các em thế
nào là ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ?” hoặc “Các em vi phạm nội quy của trường
sẽ ảnh hưởng như thế nào đến tập thể lớp?” Để các em tự nói cũng là cách để
các em tự địi hỏi bản thân mình phải tự điều chỉnh làm sao cho đúng.
- Đồng thời, tôi dành thời gian cuối tiết sinh hoạt lớp để động viên,
khen ngợi những việc Ban tự quản đã làm tốt và hướng dẫn các em cách
khắc phục những khó khăn để phát huy năng lực tự quản tốt hơn.
Như vậy, giáo viên chủ nhiệm đóng vai trị là người cố vấn và bồi
dưỡng đội ngũ Hội đồng tự quản. Giáo viên chủ nhiệm khơng được
khốn trắng hoặc biến Hội đồng tự quản thành cơng cụ để quản lí lớp.
2.3.3. Hướng dẫn học sinh thực hiện nề nếp, nội quy của lớp.
a. Hướng dẫn học sinh thực hiện nề nếp, nội quy của lướp theo từng
thời điểm
* Chuẩn bị đi học
- Phải học bài và làm bài ở nhà đầy đủ.
- Chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ theo đặc trưng bộ môn.
- Vệ sinh cá nhân sạch sẽ.
- Ăn mặc đúng quy định ( mặc đồng phục vào ngày thứ hai và thứ
năm hàng tuần, không mặc quần ngố, quần đùi,...).
- Không ăn quà trước cổng trường, không mang đồ ăn, nước uống
vào lớp.
- Nghe lệnh trống phải tập trung vào lớp, ổn định trật tự.
* Trong mười lăm phút đầu giờ
- Ổn định tổ chức
- Mỗi học sinh tự lấy sách vở ôn bài, không đi lại tự do trong lớp.

- Lớp trưởng phối hợp với sao đỏ cho cả lớp ôn bài.
- Các tổ trưởng làm nhiệm vụ, kiểm tra nhanh vở bài tập, dụng cụ
học tập, nền nếp của tổ mình.
* Trong giờ học
- Cả lớp đứng dậy chào thầy, cô khi vào lớp.
- Dụng cụ học tập đã để đầy đủ ở bàn trước mặt (sách giáo khoa, vở
ghi, vở bài tập, giấy nháp, thước…)
- Khi thầy, cô kiểm tra bài cũ học sinh phải nhanh nhẹn khẩn trương:
trả lời to, rõ ràng.
10


- Tập trung nghe giảng, khơng được nói chuyện, làm việc riêng, ngồi
học với tư thế ngay ngắn, không rút chân lên ghế, khơng dựa tường…
- Tích cực phát biểu xây dựng bài để hình thành kiến thức bài học.
- Biết sử dụng đồ dùng học một cách khoa học, tránh ồn ào gây mất
trật tự.
* Trong giờ ra chơi
- Cả lớp xếp hàng ngay ngắn ra sân tập thể dục giữa giờ, thực hiện
“một phút sạch trường đẹp lớp”.
- Chơi những trị chơi lành mạnh khơng chạy rượt; khơng xơ đẩy,
đánh nhau; khơng nói tục; khơng chơi những trị chơi nguy hiểm.
- Không được ra cổng trường, không được xả rác ra sân trường, lớp
học,...
- Không leo trèo cửa sổ, bàn ghế, cây cối…bảo vệ tài sản của chung của
trường.
* Giờ tan học
- Học sinh cần sếp sách vở vào cặp gọn gàng.
- Khi bố mẹ chưa đến đón phải ngồi ghế đá, chơi xung quanh khu vực
lớp học, khơng la cà trước của lớp khi lớp khác cịn học.

* Trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là những hoạt động được tổ
chức ngồi giờ học các mơn học văn hố. Qua các hoạt động này giúp
hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng ban đầu, cơ bản và cần
thiết phù hợp với sự phát triển chung của học sinh như: kĩ năng giao tiếp,
kĩ năng tham gia các hoạt động tập thể, kĩ năng nhận thức,... góp phần
hình thành và phát triển tính tích cực, tự giác, tinh thần tập thể cho học
sinh.
Một số hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong trường tiểu học:
- Hoạt động giáo dục theo chủ điểm
- Hoạt động trong giờ sinh hoạt lớp
- Hoạt động trong buổi sinh hoạt dưới cờ
- Hoạt động của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Sao Nhi
đồng .
Trong các hoạt động ngồi giờ lên lớp, lớp trưởng cho các bạn xếp
hàng ngay ngắn, đi thẳng hàng ra vị trí tập trung của lớp; lớp phó điểm
danh và nhắc nhở các bạn ngồi ngay ngắn, khơng nói chuyện riêng trong
các hoạt động ngồi giờ lên lớp.
2.3.4. Thực hiện tốt nhận xét, đánh giá học sinh hàng ngày,
hàng tuần, hàng tháng
Nhằm giúp cá nhân, nhóm, tổ, lớp thực hiện tốt các yêu cầu, nội quy,
quy định, giáo viên cần phải giám sát, nhắc nhở các mặt hoạt động của lớp
ngay từ những ngày đầu. Sau một thờigian hướng dẫn, giám sát, nhắc nhở,
11


giáo viên cần phát huy năng lực tự quản cho các em. Các nề nếp như chào
cờ, xếp hàng ra vào lớp, thể dục, hoạt động của nhóm, tổ, lớp trong và ngồi
giờ học, giáo viên cần phân cơng cụ thể các cá nhân hoặc cán sự lớp nhắc
nhở các bạn theo sự hướng dẫn ban đầu của giáo viên.

Khi học sinh thiếu tập trung, chưa thực hiện tốt các năng lực tự phục
vụ, tự quản giáo viên cần tìm hiểu kĩ nguyên nhân, không nên trách phạt các
em. Giáo viên cần có những lời nói, cử chỉ nhẹ nhàng để động viên, khích lệ
các em. Ở tuổi này, lịng tự trọng của các em rất cao, chỉ một lời nói xúc
phạm sẽ làm các em buồn.
Xây dựng bảng tham chiếu năng lực tự phục vụ, tự quản theo
Thông tư 22, làm căn cứ đánh giá năng lực của học sinh.
BẢNG THAM CHIẾU NĂNG LỰC TỰ PHỤC VỤ, TỰ QUẢN
Các biểu hiện cụ thể
TỔ 1
được quan sát ở năng
STT
lực Tự phục vụ, tự
Thư Nam Huy Trí Đăng Nhật An Minh
quản

HS tự vệ sinh thân
1 thể, ăn, mặc gọn gàng 1
sạch sẽ

2

1

1

2

3


3

2

HS tự chuẩn bị đồ
2 dùng học tập cá nhân
ở trên lớp, ở nhà

2

3

2

1

2

2

2

2

HS tự giác hồn
3 thành cơng việc được
giao đúng hạn

2


3

1

1

1

3

2

2

HS chủ động khi thực
4 hiện các nhiệm vụ
1
học tập

3

1

1

2

2

2


2

HS tự sắp xếp thời
gian học tập, sinh
5
hoạt cá nhân, vui
chơi hợp lí

2

2

2

1

1

2

2

2

HS tự sắp xếp thời
gian làm các bài tập
6
theo yêu cầu của giáo
viên


2

3

1

1

3

2

2

1

Lưu ý: Mức 1: Cần cố gắng ; mức 2: Đạt; mức 3: Tốt
12


Hàng tháng, giáo viên chủ nhiệm tổng hợp kết quả mức đạt được về
năng lực tự phục vụ, tự quản của học sinh và ghi chép vào sổ theo dõi làm
căn cứ đánh giá năng lực tự phục vụ, tự quản của học sinh.
2.3.5. Phối kết hợp với cha mẹ học sinh, giáo viên bộ mơn, các tổ
chức, đồn thể trong và ngồi nhà trường
Đây là cơng tác mà bản thân tơi cảm thấy vơ cùng quan trọng. Do
đó, trong q trình làm cơng tác chủ nhiệm lớp, giáo viên cần phối hợp
chặt chẽ với các lực lượng giáo dục như: tổ chức Đồn, Đội, với giáo viên
bộ mơn, Ban giám hiệu nhà trường, cha mẹ học sinh, …

* Phối kết hợp với cha mẹ học sinh
- Trong Hội nghị cha mẹ học sinh đầu năm, tôi trao đổi, chia sẻ và
khuyến khích phụ huynh hướng dẫn, theo dõi và kiểm tra con em mình thực
hiện các nề nếp tập trung vào rèn kĩ năng tự phục vụ, tự quản như:
+ Tích cực hướng dẫn con em mình tự làm một số việc để phục vụ
bản thân như đánh răng, rửa mặt, gập chăn màn, mặc quần áo, sắp xếp sách
vở và đồ dùng học tập,... phù hợp với lứa tuổi;
+ Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em mình;
+ Nhắc nhở con em chuẩn bị các nội dung học tập ngày mai trước khi
đến lớp;
+ Nhắc nhở chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con em theo
thời khoá biểu hằng ngày;
+ Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi;
+ Sinh hoạt điều độ, đúng thời gian biểu, giờ nào việc nấy, tránh tình
trạng vừa học vừa chơi, tự phân bố thời gian học tập, sinh hoạt khi khơng có
người lớn,...
- Giáo viên cùng cha mẹ học sinh uốn nắn, hướng dẫn học sinh tự vệ
sinh cá nhân, chuẩn bị đồ dùng học tập trong thời gian đầu lớp Một, sau đó
chỉ đứng ngồi quan sát, nhắc nhở để các em tự thực hiện;
- Giáo viên thông báo kịp thời qua nhóm zalo lớp, tin nhắn điện tử,
điện thoại hoặc đến nhà, trao đổi trực tiếp về sự tiến bộ của các em giúp các
em tự giác thực hiện tốt các yêu cầu, từng bước nâng cao kĩ năng tự phục
vụ.
* Phối kết hợp với giáo viên bộ môn, giáo viên dạy cùng khối và các
đoàn thể
- Hàng tháng/tuần, từ kế hoạch của nhà trường, kết hợp giáo dục chủ
điểm tháng, chủ đề tuần vào nội dung giáo dục kĩ năng này hàng ngày.
- Ngay từ khi học sinh bước vào lớp một, ngồi cơ giáo chủ nhiệm
lớp, các em cịn được học các thầy giáo, cơ giáo dạy Âm nhạc, Mĩ thuật,
Thể dục,..Nâng cao năng lực tự phục vụ, tự quản cho học sinh trong các

giờ học bộ môn giáo viên chủ nhiệm cần:

13


+ Quan sát, theo dõi, nhắc nhở các em thực hiện tốt năng lực tự
phục vụ, tự quản trong tất cả các giờ học bộ môn.
+ Giáo viên chủ nhiệm nhờ giáo viên bộ môn nhắc nhở học sinh
nghiêm túc thực hiện các quy định về học tập.
+ Sau mỗi tiết học bộ môn, tôi liên hệ , trao đổi kịp thời với giáo viên
bộ mơn đó những vấn đề phát sinh trong lớp về nề nếp cũng như học tập.
- Các tổ chức trong trường, đặc biệt là Đoàn, Đội ln có tác động
lớn tới học sinh. Việc kiểm tra, đánh giá nề nếp tác phong hàng ngày (qua
đội Sao đỏ), kiểm tra hàng tuần của Tổng phụ trách sẽ giúp các em sẽ có ý
thức thực hiện tốt nội quy trường, lớp. Sau 15 phút đầu giờ, tôi liên hệ, trao
đổi với sao đỏ của lớp mình để nắm được các thông tin về nề nếp tự quản và
có biện pháp điều chỉnh các hoạt động theo hướng tích cực.
Thơng qua việc phối hợp thường xun với cha mẹ học sinh, giáo viên
bộ môn, giáo viên kịp thời điều chỉnh các kĩ năng của các em, dễ dàng có sự
đánh giá chính xác q trình rèn luyện của học sinh, tạo sự công bằng trong
xếp loại cuối năm.
2. 4. Hiệu quả của sáng kiến
Sau hơn một năm chính thức áp dụng sáng kiến vào quá trình giảng
dạy và giáo dục học sinh, tơi tự nhận thấy mình đã tìm được hướng đi đúng,
cách làm phù hợp cho việc nâng cao nề nếp học tập cũng như chất lượng
dạy - học của học sinh lớp tôi chủ nhiệm, cụ thể:
* Năm học 2019 - 2020, lớp tôi chủ nhiệm đạt những thành tích sau:
+ Kiến thức, kĩ năng: 35/35 học sinh lên lớp = 100%
+ Năng lực - phẩm chất: 100 % học sinh đạt Hoàn thành và hoàn
thành tốt.

Trong đó: năng lực Tự phục vụ, tự quản có 18 học sinh xếp loại Tốt,
17 học sinh xếp loại Đạt.
* Khen cấp trường: 28/35 học sinh = 80.0%. Trong đó:
+ Học sinh hồn thành xuất sắc các nội dung học tập và rèn luyện:
18 học sinh = 51.4%
+ Học sinh có thành tích vượt trội về học tập các mơn học: 4 học sinh =
11.4%
+ Học sinh có tiến bộ vượt bậc về học tập: 12 học sinh = 34.2%
+ Học sinh có tiến bộ vượt bậc về phẩm chất: 01 học sinh= 3.0%
Năm học 2020-2021 tôi tiếp tục áp dụng các biện pháp nâng cao năng
lực tự phục vụ, tự quản cho học sinh vào quá trình làm cơng tác chủ nhiệm
lớp.
Tơi phát phiếu thăm dị cho 35/35 em học sinh và thu được thức trạng
năng lực tự phục vụ, tự quản của học sinh như sau:

14


Các biểu hiện cụ thể được quan sát ở
STT
năng lực Tự phục vụ, tự quản

Mức đạt được
1

%

2

%


3

%

1

HS tự vệ sinh thân thể, ăn, mặc gọn
gàng sạch sẽ

5

2

HS tự chuẩn bị đồ dùng học tập cá nhân
ở trên lớp, ở nhà

6 17.1

3

HS tự giác hồn thành cơng việc được
giao đúng hạn

8

22.8 14 40,0 13 37.2

4


HS chủ động khi thực hiện các nhiệm
vụ học tập

9

25.8 13 37.1 13 37.1

5

HS tự sắp xếp thời gian học tập, sinh
hoạt cá nhân, vui chơi hợp lí

9

25.8 13 37.1 13 37.1

6

HS tự sắp xếp thời gian làm các bài tập
theo yêu cầu của giáo viên

8

22.8 14 40,0 13 37.2

14,2 14 40.1 16 45.7
17 48.5 12 34.4

Lưu ý: mức độ 1: Cần cố gắng (C); mức độ 2: Đạt (Đ), mức độ 3: Tốt (T)
Dựa vào kết quả thăm dò (trước và sau khi áp dụng) sáng kiến kinh

nghiệm và thực tế quá trình chủ nhiệm lớp, tôi thu được thực trạng sau:
- Số lượng học sinh biết tự phục vụ bản thân, tự giác chấp hành các
quy định, yêu cầu của nhóm, lớp, giáo viên tăng lên.
- Đa số các em đều biết tự sắp xếp thời gian học tập, sinh hoạt cá
nhân ở nhà phù hợp.
- Trong các hoạt động giáo dục, các em có ý thức tự giác hoàn thành
nhiệm vụ được giao.
- Tăng tình đồn kết, u thương trong lớp giữa bạn bè, thầy cô.
- Sức mạnh cá nhân và sức mạnh tập thể được phát huy cao nhằm
thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đặt ra.
- Lớp luôn xếp loại tốt sau mỗi tuần thi đua.
3. Kết luận, kiến nghị :
Sáng kiến kinh nghiệm này đã được vận dụng ở các lớp trong khối
Ba, trường Tiểu học Hải Lộc và đã đạt được hiệu quả cao. Vì thế, tơi thiết
nghĩ: Để góp phần thực hiện tốt đánh giá học sinh theo Thông tư 22, rèn
luyện tốt năng lực tự phục vụ, tự quản cho học sinh, giáo viên các khối
lớp khác trong hệ thống giáo dục phổ thông cấp tiểu học cũng có thể áp
dụng sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao năng lực tự phục vụ, tự quản
cho học sinh”. Tôi hy vọng với những biện pháp đã đề cập đến trong nội
dung sáng kiến sẽ được mở rộng để nâng cao năng lực tự phục vụ, tự
quản cho học sinh các khối lớp Trung học cơ sở.

15


Bản thân tôi đánh giá những biện pháp đề ra khá đơn giản, khơng cần
tốn q nhiều chi phí đầu tư, việc thực hiện chủ yếu thông qua sự chủ động
của giáo viên và học sinh nên tôi tin tưởng đạt được hiệu quả cao khi áp
dụng ở bất cứ trường học trên địa bàn nào.
Theo ý kiến chủ quan của riêng tôi, để áp dụng hiệu quả sáng kiến

này vào q trình làm cơng tác chủ nhiệm thì nhất thiết phải đáp ứng
được các điều kiện sau:
*Về phía giáo viên
- Thành công của người giáo viên chủ nhiệm lớp phần lớn đòi hỏi
người giáo viên phải hiểu được những động cơ thúc đẩy những hành vi
của các em. Ngoài việc dạy học, người giáo viên chủ nhiệm lớp còn phải
tìm hiểu xem học sinh của mình có cuộc sống như thế nào, những hứng
thú của các em ra sao, đặc điểm cùng ý chí, kết hợp với những nét thuộc
về tính cách của các em. Qua đó mới có thể có những biện pháp sư phạm
hợp lý nhất tác động vào các em thì việc giáo dục mới có hiệu quả.
- Trong quá trình dạy học, giáo viên cần kịp thời giúp đỡ học sinh
khi các em gặp khó khăn. Khen thưởng, động viên kịp thời nhằm phát
huy tác dụng trực tiếp đến tinh thần tự học của các em.
- Tìm hiểu và hướng dẫn học sinh nắm các nội dung đánh giá Thông
tư 22, chú trọng các năng lực tự phục vụ, tự quản, thể hiện qua nội quy, khẩu
hiệu, trang trí lớp học.
- Chú trọng xây dựng và bồi dưỡng Ban tự quản của Hội đồng tự
quản, huấn luyện để các em trở thành những “người lãnh đạo nhỏ” tài ba.
- Thực hiện có chất lượng sổ nhật kí chủ nhiệm và sổ theo dõi.
- Tạo các mối quan hệ thầy trò, bạn bè thật tốt. Việc xây dựng mối
quan hệ bạn bè đồn kết, gắn bó sẽ giúp các em học tập lẫn nhau, tự điều
chỉnh kĩ năng tự phục vụ bản thân, xây dựng được nề nếp tự quản của lớp
học, tiến tới xây dựng môi trường học tập thân thiện. Từ môi trường học tập
thân thiện đó, chất lượng học tập của lớp chắc chắn sẽ được nâng cao.
- Ln biết khích lệ biểu dương các em kịp thời. Khen ngợi những ưu
điểm, sở trường của các em để các em thấy giá trị của mình được nâng cao,
có niềm tin và hứng thú học tập, thực hiện tốt các yêu cầu hơn. Đặc biệt chú
ý đến học sinh nhận thức còn hạn chế nhưng có tiến bộ về việc vệ sinh cá
nhân, biết thực hiện nhiệm vụ hoạt động, yêu cầu của nhóm, lớp để tun
dương.

- Duy trì và sáng tạo trong cơng tác xây dựng “Lớp học thân thiện học sinh tích cực”.
- Lồng ghép nội dung nâng cao năng lực tự phục vụ, tự quản vào nội
dung giảng dạy các môn học.
- Nâng cao chất lượng tiết sinh hoạt lớp cuối tuần.

16


- Phối hợp chặt chẽ với cá đoàn thể, cha mẹ học sinh; kiên trì vận
động cha mẹ học sinh tích cực tham gia vào cơng tác giáo dục học sinh.
- Giáo viên, cha mẹ học sinh luôn gương mẫu trong mọi hoạt động.
*Về phía cha mẹ học sinh
- Cha mẹ cần gương mẫu trong các sinh hoạt hàng ngày để các em
noi theo;
- Xây dựng thói quen tự phục vụ bản thân như: đánh răng, rửa mặt, gập
chăn màn, mặc quần áo, sắp xếp sách vở và đồ dùng học tập,... phù hợp với
lứa tuổi;
- Thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm qua tin nhắn,
nhóm zalo của lớp,...
Tơi tin tưởng rằng với tình u thương bao la của cha mẹ, tấm lòng
bao dung của người giáo viên chủ nhiệm, các thầy cơ sẽ cịn thành cơng
nhiều hơn nữa trong cơng tác chủ nhiệm lớp của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hậu Lộc, ngày 25 tháng 4 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết, khơng sao
chép nội dung của người khác.
Người viết


Nguyễn Thị Hạnh

17



Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học

PHẦN A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong thực tế hiện nay việc rèn kĩ năng sống của các em ở trường tiểu học còn thấp và nhiều hạn chế. Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh chưa có nét chuyển biến, nguyên do chính là trong tư tưởng giáo viên, phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức, việc rèn kĩ năng sống cho học sinh còn chiếu lệ, giáo viên luôn chú trọng đến việc đọc tốt, làm tính tốt …

Ở bậc tiểu học các môn học nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi xã hội chủ nghĩa gắn với những kinh nghiệm đạo đức, để từ đó giúp học sinh hình thành kĩ năng sống, biết phân biệt đúng sai làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, nhắc nhở các em hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức chính vì vậy tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học”. Vì rèn kĩ năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng mà người người làm công tác giáo dục cần quan tâm.

PHẦN B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. Cơ sở lí luận:

Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại… Kĩ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết mà chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.

Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường.

II. Cơ sở thực tiễn:

Ở Việt Nam, từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong năm nội dung thực hiện có nội dung tổ chức trò chơi dân gian cho học sinh đó cũng chính là rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.

Đối với giáo viên tiểu học thường tập trung lo lắng cho những em có những vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những lớp đầu tiên (lớp 1) trẻ đến trường. Đơn giản là vì những học sinh này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho HS không thể tập trung lĩnh hội những điều giáo viên dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian đầu tư để giúp HS có được những kĩ năng sống cơ bản ở trường Tiểu học.

Trong quá trình rèn kĩ năng sống cho trẻ nhằm thực hiện nội dung phong trào “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:

1. Thuận lợi:

Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa phương, Phòng giáo dục - Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kỹ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các bậc học, đây chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kĩ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.

Trong thực tế năm học 2012 - 2013, với yêu cầu sử dụng công nghệ thông tin đổi mới hình thức phương pháp dạy học, giáo viên thường lãng quên các trò chơi dân gian, ngại đưa vào kế hoạch, thậm chí không có thời gian cho trẻ vui chơi. Tôi đã có biện pháp đề ra kế hoạch, tổ chức cho các em chơi những trò chơi dân gian. Vì thế, năm học 2012-2013, khi có chỉ đạo thực hiện nội dung tăng cường tổ chức các trò chơi dân gian cho học sinh, tôi đã có sự chuẩn bị về mặt nhận thức của giáo viên, có sẵn dụng cụ, các bộ cờ dân gian cho trẻ chơi.

2. Khó khăn

Về phía các bậc cha mẹ các em luôn nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá! Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì?

Đối với giáo viên

Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học. Tuy chưa nắm hết về nội dung phải dạy trẻ theo từng khối lớp, những kĩ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.

Mặc dù có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn.

Từ cơ sở và thực tiễn trong quá trình giáo dục rèn kĩ năng sống cho học sinh bậc tiểu học tôi đã tìm ra một số biện pháp giúp giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học có tính khả thi nhất.

III. Các biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh

1./ Biện pháp nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kĩ năng sống

Đầu năm học, tôi học tập nghiên cứu chuyên đề rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học, về thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh bậc học tiểu học do Bộ Giáo dục- Đào tạo phát động; qua đó giúp tôi hiểu được rằng chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kĩ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kĩ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất.

2./ Biện pháp xác định những kĩ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở lứa tuổi tiểu học :

Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kĩ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là trẻ em độ tuổi lớp1. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kĩ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kĩ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ .

3./ Biện pháp cụ thể hóa nội dung của những kĩ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ:

Kĩ năng sống tự tin : Một trong những kĩ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kĩ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.

Kĩ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với các em học sinh lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.

Kĩ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kĩ năng quan trọng nhất cần có ở các em vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Người giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khơi gợi tính tò mò tự nhiên của các em. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khơi gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.

Kĩ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kĩ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kĩ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, các em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp học sinh sẳn sàng học mọi thứ.

Ngoài ra, ở nhà trường giáo viên cần dạy học sinh nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy các em kĩ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.

4./ Biện pháp xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm trong việc dạy học sinh kĩ năng sống

Giáo viên có thể làm được gì để dạy kĩ năng sống cho trẻ?

Cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của học sinh , cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi học sinh . Vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục học sinh như thế nào để các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.

Cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục các em một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp các em phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẫm mĩ. Phát huy tính tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kĩ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.

Cần giúp các em có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, các em biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm học sinh khác nhau, giúp các em luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc các em có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa học sinh đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho học sinh sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của các em.

Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của các em, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục các em tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.

5./ Biện pháp giúp trẻ phát triển các kĩ năng sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường

Phối hợp với chính quyền nhà trường tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh.

Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ. Cụ thể như sau:

Phát động học sinh làm đồ chơi dân gian; sưu tầm các bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho học sinh theo phù hợp theo từng lứa tuổi .

Năm học này, khi có chỉ đạo thực hiện nội dung tăng cường tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh tiểu học .

Duy trì việc sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm để học sinh được học được chơi.

Phối hợp với Tổng phụ trách tổ chức các cuộc thi trò chơi dân gian trong dịp đầu xuân như: Ô ăn quan Đập heo, Lò cò, Cướp cờ, hội thi Vai điệu tuổi hồng, hội thi Vẽ những điều em mơ ước. Đồng thời hàng tuần vào tiết chào cờ sáng thứ hai cho các em “Kể chuyện Bác Hồ”; Trò chơi Ai nhanh? Ai đúng? … .

6./ Biện pháp tạo môi trường thực hiện nhiệm vụ giáo dục trẻ kĩ năng sống

Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và học sinh tăng cường đọc sách, tôi đã tham mưu với hiệu trưởng đã trang bị, sách thư viện, sách Bác Hồ, sách Lịch sử, và các loại sách trang trí đẹp với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề: “tủ sách Bác Hồ”; “tủ sách lịch sử”; “câu đố vui”; “những con vật đáng yêu”; “hoa trái bốn mùa”; …thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cỡ, vừa tầm các em.

IV. Kết quả và bài học kinh nghiệm

1. Kết quả

Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của các bạn đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy các kĩ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:

a./ Kết quả học sinh lớp tôi:

100% học sinh đều được giáo viên tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, 100% học sinh được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường phổ thông hiệu quả ngày càng cao.

90% học sinh có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kĩ năng tự lập; kĩ năng nhận thức; kĩ năng vận động nhỏ, vận động tinh thông qua các hoạt động hàng ngày trong cuộc sống của học sinh; ngoài ra có 70% học sinh được rèn kĩ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục , và các môn học khác.

100% trẻ được rèn luyện kĩ năng xã hội; kĩ năng về cảm xúc, giao tiếp; chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như ở gia đình.

100 % trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.

70% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua kết quả học tập cũng như bảng theo dõi ở mỗi lớp , sau mỗi giai đoạn, qua kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng học sinh đạt khá và tốt: Mạnh dạn tự tin: 90 %; kĩ năng hợp tác: 93%; kĩ năng giao tiếp 92,3%; tự lập, tự phục vụ: 99 %; lễ phép: 100%; kĩ năng vệ sinh: 92 %; kĩ năng thích khám phá học hỏi : 86 %; kĩ năng tự kiểm soát bản thân: 90 %

Học sinh đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99% trở lên và ít gặp khó khăn khi đến lớp, có kĩ năng lao động tự phục vụ cho bản thân, biết thương yêu bạn bè trong cùng một mái trường, biết giúp đỡ bạn cùng tiến.

b./ Về phía giáo viên

Giáo viên chịu khó gần gũi chuyện trò với học sinh, trả lời những câu hỏi vụn vặt của các em, không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các em học sinh trong lớp.

Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn,

Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thừơng xuyên với cha mẹ các em.

Hiệu quả lớn nhất là nhà trường đã huy động được sự tham gia của cha mẹ các em, của các tổ chức, các lực lượng xã hội trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống cho học sinh, đồng thời đây là những cơ hội vàng dạy trẻ kỹ năng sống.

2. Bài học kinh nghiệm

Với những kết quả đạt được, bản thân tôi chỉ muốn nêu lên những kinh nghiệm chung nhất do nghiên cứu tài liệu, do tích luỹ được trong suốt quá trình thời gian giảng dạy với mong muốn gửi các đồng nghiệp, cha mẹ trẻ những thông điệp mang tính thuyết phục với một số điều cần làm và cần tránh nhằm giúp các bạn đồng nghiệp, cha mẹ các em những điều cơ bản để rèn kĩ năng sống như sau:

a./ Một số điều người lớn cần làm giúp các em rèn luyện kĩ năng sống:

Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.

Việc học của trẻ nếu luôn được người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn.

Tham gia vào việc giáo dục của con cái không nên để tốn quá nhiều thời gian và cũng không cần tốn sức tập luyện, cha mẹ chỉ tốn ít thời gian khi cho các em thấy cha mẹ rất coi trọng giá trị của việc giáo dục.Việc tham gia ở mức độ nào không quan trọng nhưng thời gian đó thật đáng giá và đó là sự đầu tư cần thiết cho tương lai của các em.

b./ Một số điều người lớn cần tránh khi dạy trẻ kĩ năng sống:

Không hạ thấp các em: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng các em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân của học sinh. Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không nên nói những lời không hay đối với trẻ.

Không doạ nạt: Người lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta doạ nạt là chúng ta đã làm cho trẻ sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của các em tốt hơn.

Không bắt các em hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối với em vì nếu các em cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở các em sẽ phát triển cảm giác hối lỗi.

Không nên yêu cầu các em phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự phục tùng một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên không tạo điều kiện phát triển tính tự lập ở các em.

Không yêu cầu những điều không phù hợp với các em vì những yêu cầu ở các em phải thực hiện một hành vi chín chắn mà các em chưa có khả năng hoặc các em phải làm các yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép hoặc cấm đoán sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức của học sinh.

Không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận của não bộ.

.........

Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết

Danh Sách 5 Mẫu Sáng Kiến Kinh Nghiệm Kỹ Năng Tự Phục Vụ Hoàn Chỉnh

Trang chủ » Tài Liệu Sáng Kiến Kinh Nghiệm » Danh Sách 5 Mẫu Sáng Kiến Kinh Nghiệm Kỹ Năng Tự Phục Vụ Hoàn Chỉnh

  • 16/10/2021
  • Sáng kiến kinh nghiệm kỹ năng tự phục vụ cho học sinh tiểu học
    Trần Khánh Ngân
5 / 5 ( 3 bình chọn )

Một phần không thể thiếu trong kho tài liệu sáng kiến kinh nghiệm mầm non đó là sáng kiến kinh nghiệm kỹ năng tự phục vụ của trẻ tại các lứa tuổi. Hôm nay, Best4Team xin gửi tới quý bạn đọc những bài sáng kiến chuẩn chỉnh, có giá trị tham khảo cao về chủ đề này.

Sáng kiến kinh nghiệm kỹ năng tự phục vụ cho học sinh tiểu học
Mẫu đề tài sáng kiến kinh nghiệm kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non

BÁO CÁO TÓM TẮT SÁNG KIẾN "BIỆN PHÁP KỸ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CHO TRẺ"

Đọc bài Lưu

Rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ lứa tuổi mầm non là một trong những hoạt động giáo dục vô cùng cần thiết và cũng rất khó so với các hoạt động khác.Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện:Biện pháp kỹ năng tự phục vụ cho trẻ”

I. NỘI DUNG

* Thuận lợi
- Hoạt động “rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ” luôn gây được hứng thú cho trẻ, nên trẻ rất hào hứng tham gia hoạt động.Trẻ ngoan ngoãn đồng đều về độ tuổi.
- Giáo viên có niềm đam mê với nghề, yêu thương trẻ. Vì vậy, giáo viên luôn tìm tòi học hỏi để rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ được tốt hơn.
- Nhà trường tạo mọi điều kiện thuận lợi tốt nhất để giáo viên hoàn thành tốt việc rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ.
* Khó khăn
Thường Thới Tiền là một xã có nhiều thôn, nằm rải rác không tập trung, đời sống một số bộ phận dân cư còn nghèo nàn hiểu biết của người dân về bậc học mầm non còn hạn chế.
Ngoài ra, như tình trạng phổ biến hiện nay, ở một số trường các bậc phụ huynh còn yêu cầu nhà trường thuê lao công vệ sinh trường, nên trẻ rất ít phải thực hiện các công việc vệ sinh. Chính vì việc đó nên trẻ ít được thực hành những kỹ năng lao động tập thể, do đó vốn kinh nghiệm và các kỹ năng của trẻ chưa được nâng cao.
Các bậc cha mẹ thường bao bọc trong việc dạy con, chưa biết cách giáo dục con phù hợp. Hơn thế nữa, các bậc cha mẹ còn luôn nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ, không quan tâm đến người khác và các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế.
Ở một số giáo viên chưa có sự hiểu biết nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những kỹ năng sống cơ bản nào, chưa đổi mới phương pháp giáo dục, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non.

Nhận thức của học sinh còn chậm dẫn đến việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ chưa đạt kết quả cao nhất.

1. Tên sáng kiến và lĩnh vực áp dụng

1.1 Biện pháp kỹ năng tự phục vụ cho trẻ

1.2. Lĩnh vực áp dụng

Giáo viên lớp chồi 1
2. Nội dung của sáng kiến
2.1. Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ
* Rèn cho trẻ kỹ năng tự phục vụ
- Giúp trẻ có những kỹ năng đơn giản như: biết tự cất đồ dùng cá nhân khi đến lớp, tự biết lấy và cất đồ dùng đồ chơi khi muốn chơi, tự rửa tay trước và sau khi ăn cơm, kê bàn ghế chuẩn bị bàn ăn, chuẩn bị khăn lau, tự xúc cơm ăn, biết giữ gìn vệ sinh trong khi ăn (không nói chuyện trong khi ăn, ăn không rơi vãi, không vứt bỏ thức ăn) khi ăn xong biết lau, dọn bàn ăn, để bát thìa đúng quy định, biết vệ sinh cá nhân,…Khi trẻ đến lớp mầm non thì các trẻ vẫn đang học cách tự chăm sóc mình vì vậy giáo viên cần theo dõi sát sao từng hoạt động của trẻ để kịp thời khuyến khích và chỉ dạy. Bất cứ lúc nào trẻ thử làm một việc gì, cho dù trẻ có làm được hay không, giáo viên cũng nên biểu dương sự cố gắng của trẻ và khuyên cháu thử làm lại một lần nữa. Giáo viên không nên vội giúp trẻ mà điều cần thiết là hướng dẫn trẻ tự làm và cho trẻ có đủ thời gian để tự mình làm những điều này, việc nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào mỗi đứa trẻ.Vì thế đừng tạo áp lực với trẻ mà hãy cử xử khéo léo và rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi thời điểm, hình thành cả hành động và thói quen cho trẻ trong sinh hoạt
* Rèn trẻ kỹ năng hợp tác
- Cô tổ chức và khuyến khích trẻ cùng tham gia các công việc ở lớp theo từng nhóm hoặc theo nhóm đôi như: hai bạn hoặc bốn bạn cùng khiêng một bàn để kê bàn ăn, hợp tác cùng cô giáo và bạn khiêng giường (sạp) ngủ, gấp và xếp lại tủ quần áo, thu dọn bàn ăn,…Việc hợp tác trong công việc này, giúp hình thành ở trẻ tinh thần đồng đội cao, trẻ đoàn kết với nhau để thực hiện tốt công việc.
* Rèn trẻ kỹ năng thể hiện bản thân
- Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ tự thể hiện bản thân, luôn luôn tự tin trong công việc và có suy nghĩ mình sẽ làm được việc. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống và ở mọi lúc mọi nơi.
- Khi trẻ thấy rằng mình có thể tự làm việc nào đó, trẻ sẽ trở nên tin tưởng vào khả năng của mình hơn, sẽ cố gắng vượt mọi khó khăn ở mức độ cao nhất có thể hoàn thành nhiệm vụ mà không cần sự can thiệp của người lớn.
2.2. Giúp trẻ phát triển các kỹ năng tự phục vụ thông qua việc tổ chức lồng ghép trong các hoạt động và ở mọi lúc mọi nơi (đặc biệt trong hoạt động vui chơi, hoạt động lao động, hoạt động vệ sinh, hoạt động tập thể , lành mạnh trong nhà trường)
- Xuất phát từ đặc điểm tâm lý của trẻ mầm non là rất thích nghe kể chuyện. Nội dung các câu chuyện thường để lại ấn tượng cho trẻ khó phai mờ. Chính vì vậy, tôi thường kể chuyện cho trẻ nghe và thông qua nội dung các câu chuyện để rèn kỹ năng sống cho trẻ (Đặc biệt là kỹ năng tự phục vụ cho trẻ). Giúp trẻ tiếp nhận một cách hứng thú, tự nguyện.
Ví dụ: khi kể chuyện: “Gấu con bị sâu răng” giáo viên có thể gợi mở hỏi trẻ như: vì sao gấu con bị sâu răng? Gấu đã làm gì?thông qua truyện giáo dục trẻ biết giữ gìn vệ sinh, đánh răng hàng ngày. Tôi thường kể chuyện cho bé nghe những câu chuyện trong “tủ sách bé rèn luyện kỹ năng sống”. Qua những câu chuyện giáo dục đạo đức cho trẻ, giáo dục tình yêu thương gia đình, yêu quê hương đất nước…
- Hưởng ứng tích cực phong trào (xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực) với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của trẻ trong các hoạt động của nhà trường.
- Hưởng ứng các cuộc thi, vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của trẻ mầm non. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa dạng và phong phú của cha mẹ trẻ, các tổ chức, lực lượng xã hội, cá nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho trẻ.
- Tổ chức các hoạt động có sự tham gia trực tiếp của cha mẹ trẻ cùng hoạt động với trẻ sắp đặt đồ, làm một số đồ dùng đồ chơi qua đó rèn luyện cho trẻ kỹ năng làm và sử dụng các đồ dùng.
- Giaó dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua hoạt động vệ sinh và hoạt động lao động (chiều thứ 2 và chiều thứ 6 hàng tuần)

3.Tuyên truyền và phối hợp với cha mẹ trẻ để rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ.
Trước hết người lớn phải gương mẫu, yêu thương tôn trọng trẻ. Tạo mọi điều kiện tốt nhất cho trẻ được vui chơi, học tập. Cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng tự phục vụ bằng cách tạo cơ hội cho trẻ được thực hành nhiều, khuyến khích và luôn động viên trẻ làm những công việc vừa sức giúp cha mẹ như (nhặt rau, quét nhà, tự vệ sinh cá nhân) trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau(bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ gọn gàng, một số thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng dễ chịu, cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hoá, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ. Tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ thói quen tốt để hình thành những kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
Cha mẹ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý. Cha mẹ nên tham gia các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khoá,…
3.1.Tạo môi trường lành mạnh nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục trẻ kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
- Thực hiện kế hoạch giáo dục, kế hoạch đánh giá trẻ bằng bảng đánh giá trẻ mỗi trẻ có mỗi biểu mẫu đánh giá riêng nhằm giúp giáo viên quan sát ghi chép hàng ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi chép những kỹ năng mà trẻ đạt được trong ngày.Tôi đã trang bị các bảng thông tin dành cho phụ huynh, xây dựng thư viện cho bé tại nhóm, lớp. Khuyến khích giáo viên, các bậc cha mẹ tăng cường đọc sách cho trẻ nghe.
- Thực hiện nghiêm túc các buổi hoạt động vệ sinh và hoạt động lao động (chiều thứ 3 và chiều thứ 5), tổ chức các buổi cho bé cùng cô chăm sóc vườn rau, cây xanh của nhóm lớp.
- Tổ chức hội thảo“ Trường học thân thiện- Học sinh tích cực”.
3.2. Phối hợp với đồng nghiệp nhận thức sâu sắc về việc rèn trẻ kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
- Việc rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ nên bắt đầu từ khi còn nhỏ, ngay từ tuổi mầm non, rèn kỹ năng tự phục vụ bản thân giúp trẻ tự lập, tự tin, tích cực, sáng tạo trong cuộc sống.
- Giáo viên cần tạo cơ hội để trẻ được tương tác với bạn bè, người lớn, được trải nghiệm thực hành và luyện tập thường xuyên ở trường cũng như ở gia đình thông qua các hoạt động phong phú, đa dạng như học tập, vui chơi, lao động, sáng tạo nghệ thuật,…
- Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
- Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.
- Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách ứng xử, biết lắng nghe trình bày và mạnh dạn diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, trẻ tham gia mọi hoạt động tích cực và hứng thú. Giúp trẻ luôn cảm thấy mạnh dạn tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào?
- Giáo viên cần theo dõi sát sao từng hoạt động của trẻ để kịp thời khuyến khích và chỉ dạy trẻ. Các bài học đều là những hành động đơn giản, nhưng với trẻ là những điều mới lạ và rất khác biệt, đồng thời không phải tốc độ thực hiện của trẻ nào cũng như nhau nên điều quan trọng là giáo viên cần khuyến khích trẻ. Bất cứ lúc nào trẻ làm thử việc gì, dù trẻ có làm được hay không, giáo viên cũng nên biểu dương sự cố gắng của trẻ và khuyên cháu làm thử lại một lần nữa. Giáo viên không nên vội giúp trẻ mà điều cần thiết là hướng dẫn trẻ tự làm và cho trẻ có đủ thời gian để tự mình làm được những điều này, việc nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào mỗi đứa trẻ. Vì thế giáo viên đừng tạo áp lực cho trẻ mà hãy cư xử thật khéo léo.
- Giáo viên nên khuyến khích trẻ nói lên quan điểm, suy nghĩ của trẻ, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận tại trường sau này.
- Giáo viên thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
3.3.Giáo viên tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của bản thân
- Giáo viên cần tích cực tham gia các lớp học bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về giáo dục mầm non. Giáo viên tích cực dạy dự giờ, hội giảng, trao đổi chuyên môn với bạn bè, đồng nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Giáo viên không ngừng tự học tập, tự bồi dưỡng, đọc tạp chí chuyên san, tài liệu về giáo dục mầm non để có biện pháp, kỹ năng tốt nhất chăm sóc giáo dục trẻ, có những hiểu biết cần thiết để rèn kỹ năng sống nói chung và kỹ năng tự phục vụ nói riêng cho trẻ.
4. Kết quả
Qua khảo sát đánh giá cuối năm, các chỉ số ở các lĩnh vực trẻ đạt cao hơn so với năm học trước .
+ Kết quả trên trẻ:
- 100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin.
- 100% trẻ 5 tuổi được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường hiệu quả ngày càng cao.
- 100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập.

  • - 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp; chung sống sống hòa bình, không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như ở gia đình.
    - Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99,5% trở lên và ít gặp khó khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự xếp khay để khăn ăn bằng vỏ hộp sữa, tự chuẩn bị khăn ăn, chén, bát, thìa ….trong các giờ ăn, biết tự mở, tự rửa vỏ hộp sữa sau khi uống sữa hoặc đường cho cô giáo làm đồ chơi, biết phân công trực nhật sắp xếp bàn ăn, tự xếp gối trước và sau khi ngủ ...
    - 100% trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.

- 80% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua bảng đánh giá trẻ ở lớp sau mỗi giai đoạn, cuối độ tuổi và qua kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng trẻ đạt khá và tốt:
* So sánh đối chiếu kết quả trước khi thực hiện sáng kiến:

Các tiêu chí đánh giá

Số lượng trẻ

Trước khi áp dụng biện pháp

Sau khi áp dụng biện pháp

- Mạnh dạn tự tin

36

57%

94%

- Kỹ năng hợp tác

36

55%

91%

- Kỹ năng giao tiếp

36

50%

94,5%

- Tự lập, tự phục vụ

36

50%

95%

- Kỹ năng thích khám phá học hỏi

36

50%

88,5%

- Kỹ năng tự kiểm soát bản thân

36

50%

8,5%

Nhìn vào bảng so sánh đối chiếu trên chúng ta có thể thấy rằng sau khi áp dụng sáng kiến,kết quả trên trẻ đã được cải thiện rõ rệt.
5. Khả năng và phạm vi áp dụng của sáng kiến

5.1. Khả năng áp dụng

- Biện pháp kỹ năng tự phục vụ cho trẻ có khả năng áp dụng và đạt hiệu quả cao trong việc rèn cho trẻ các kỹ năng tự phục vụ ở lớp

5.2. Phạm vi áp dụng

- Biện pháp kỹ năng tự phục vụ có thể thực trong trường mầm non trong huyện và ngoài huyện.Tuy nhiên, đối với từng đơn vị, khi thực hiện cần có điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và đạt hiệu quả cao.

6. Hiệu quả của sáng kiến

+ Kết quả về phía phụ huynh: Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trừơng.
- Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua sổ liên lạc
- Qua trao đổi với phụ huynh, nhiều phụ huynh cũng nhận thấy rằng có rất nhiều điều con mình có thể làm được nhưng trước đó phụ huynh nghĩ con mình còn bé và luôn làm hộ trẻ. Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít quát mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con, tranh thủ đút cho con ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự để đồ dùng ngay ngắn, tự xúc cơm ở trẻ nhỏ ….
+ Kết quả phía giáo viên và nhà trường
- Cô giáo chịu khó trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi vụn vặt của trẻ, không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp.Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn,
Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ. Trong các năm qua, nhà trường đã tổ chức nhiều phong trào, hội thi, như: Hội thi “Bé khéo tay” “Bé khỏe bé ngoan ”, “Ngày hội thể thao của bé” Qua phát động phong trào có 100% trẻ tham gia và cũng được phụ huynh nhiệt tình ủng hộ.
- Kết quả qua các lần tổ chức, phát động các phong trào, nhà trừơng đã nhận được tham gia đông đảo và ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh. Hiệu quả lớn nhất là nhà trừơng đã huy động được sự tham gia của cha mẹ trẻ em, của các tổ chức, các lực lượng xã hội trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống cho trẻ, đồng thời đây là những cơ hội nhằm dạy trẻ kỹ năng sống.
- Giáo viên luôn lắng nghe ý kiến của trẻ không gò bó áp đặt trẻ. Cô luôn là người chỉ dẫn, truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống đã được đúc kết từ lâu.
- Giáo viên luôn tích cực đổi mới phương pháp dạy nhằm khuyến khích sự tích cực ở trẻ. Khai thác tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. Luôn tạo cho trẻ cơ hội để trẻ được thể hiện mình, được bộc lộ bản thân mình trước mọi người.
- Đặc biệt với những tình huống đưa ra không chỉ giúp trẻ có kỹ năng ứng biến khi gặp tình huống tương tự mà còn giúp trẻ có kỹ năng biết cách suy luận, suy đoán tìm ra cách giải quyết ở các tình huống khác và hình thành cho trẻ kỹ năng sau này.

- Giaó viên phải nắm vững phương pháp, nội dung, hình thức tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Tổ chức hoạt động phải thoải mái không gò bó áp đặt trẻ. Luôn luôn động viên khuyến khích trẻ kịp thời khi trẻ tham gia mọi hoạt động.
- Kết hợp giữa gia đình và nhà trường thống nhất nội dung, biện pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ đạt kết quả cao nhất.
- Tuyên truyền rộng rãi đến các bậc phụ huynh bằng các hội nghị, hội thi, qua bảng tuyên truyền treo ngoài cửa lớp. Thường xuyên trao đổi thông báo tới các bậc phụ huynh về nội dung rèn kỹ năng tự phục vụ theo kế hoạch.
- Bản thân giáo viên phải có kinh nghiệm trong giảng dạy chăm sóc giáo dục trẻ, phải luôn tìm tòi học hỏi những kinh nghiệm của đồng nghiệp đi trước, thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu ngoài chương trình có nội dung giáo dục rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ để vận dụng vào thực tế khi giảng dạy.
- Qua thời gian nghiên cứu, với sự nỗ lực của bản thân và học sinh, cô và trẻ đều phấn khởi hào hứng, trẻ đã có khả năng tự phục vụ bản thân và phối hợp vận động tốt, trẻ có ý thức giữ gìn sức khoẻ bản thân, thích tham gia các hoạt động, luôn mạnh dạn, tự tin, có ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết khi tham gia các hoạt động tập thể, biết quan tâm giúp đỡ những người xung quanh.
- Giáo viên phải thường xuyên tham mưu với nhà trường và các cấp lãnh đạo đầu tư cơ sở vật chất cho lớp mình ngày càng đầy đủ và phong phú hơn.

Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân trong năm học 2017 – 2018
Kính đề nghị Ban Giám Hiệu trường xem xét.


Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Hiển thị tin liên quan
Tin liên quan