Tại sao nguyễn khuyến cáo quan về ở ẩn

Nhà thơ của những áng văn thơ bất hủ

“Tam nguyên Yên Đổ” - Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, mất năm 1909. Ban đầu có tên là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễn Chi. Ông sinh ở quê mẹ, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định nhưng lớn lên và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo (cha ông đỗ ba khóa tú tài, dạy học), bản thân Nguyễn Khuyến thông minh, chăm học và học giỏi.

Năm 1864, ông đỗ đầu thi Hương (Giải nguyên) ở trường Nam Ðịnh; năm 1871, ông đỗ Hội nguyên và tiếp tục thi Ðình đỗ Ðình nguyên. Từ đó, người ta gọi ông là “Tam nguyên Yên Ðổ” (tức người đỗ đầu ba kỳ thi làng Yên Đổ).

Nguyễn Khuyến làm quan ở nội các Huế, rồi làm Đốc học Thanh Hóa, Án sát Nghệ An, rồi Biện lý Bộ Hộ,... Thời gian ông ra làm quan, Pháp đánh chiếm sáu tỉnh Nam kỳ và tiến đánh ra miền Bắc. Sống giữa bối cảnh nước mất nhà tan, các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, nhiều kẻ làm tay sai cho thực dân, Nguyễn Khuyến không thể làm được gì để thay đổi thời cuộc nên xin cáo quan về ở ẩn.

Nhà thơ không chỉ là một tâm hồn Việt Nam tiêu biểu. Ông còn được coi là một nhân cách Việt Nam tiêu biểu thời bấy giờ, cái thời đại mất nước, con người dân tộc Việt Nam bị chà đạp, đói rét, lầm than. Về ở ẩn nơi làng quê nhưng ông vẫn giữ được cái gọi là khí tiết, phẩm chất của một người yêu nước chân chính và hòa mình cùng với nhân dân.

Các sáng tác của Nguyễn Khuyến hầu hết được làm sau lúc từ quan, hiện còn khoảng hơn 400 bài, gồm thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán và chữ Nôm; đáng kể hơn hết là “Quế Sơn thi tập” khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán.

Các tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Khuyến bao gồm: Yên Đổ thi tập, Quế Sơn thi tập, Cẩm Ngữ, Bách Liêu thi văn tập, cùng với đó là  những bài ca, văn tế, hát ả đào và nhiều câu đối truyền miệng. Sáng tác của ông chủ yếu xoay quanh ba nội dung: Bộc bạch tâm sự của mình; viết về con người, cảnh vật và cuộc sống ở quê hương - một vùng đồng chiêm nghèo ở Bắc Bộ; chế giễu, đả kích những kẻ tham lam, ích kỷ, cơ hội lúc bấy giờ...

 “Tam nguyên Yên Đổ” - nhà thơ Nguyễn Khuyến.

Trong những nhà thơ Nôm thời bấy giờ thì Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng, vừa là một nhà thơ trữ tình nhuộm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của nhà thơ hầu hết được viết là thơ trữ tình. Có thể nói là cả 2 lĩnh vực trên thì nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng đều rất thành công.

Những tác phẩm của nhà thơ đã khiến cho người đọc của bao nhiêu thế hệ xúc động và đang phải suy ngẫm. Những câu thơ là những băn khoăn day dứt, với nước mắt và nụ cười của nhà thơ. Thơ của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn của nhiều phẩm chất thơ ca dân gian và bác học, trữ tình và trào phúng.

Điều đó đã khiến cho giọng điệu trong thơ Nguyễn Khuyến trở nên đa dạng đan xen hoà trộn với nhiều sắc màu thẩm mỹ. Ông đã gửi nỗi niềm của mình vào trong thơ mong hậu thế hiểu được lòng mình và hy vọng thế hệ sau sẽ làm được những điều ông ấp ủ vì một xã hội tốt đẹp hơn. 

Với một lòng yêu nước, thương dân mà không thể giúp được gì ngoài những ngòi bút đau vì dân, khóc vì dân đã giúp cho văn thơ của ông đã đi vào lịch sử và sẽ mãi mãi đi sâu vào lòng của biết bao nhiêu thế hệ.

Gian nhà độc đáo của bậc thầy phong thủy

Năm 1884, cụ Nguyễn Khuyến có viết: “Vườn Bùi chốn cũ/Bốn mươi năm lại lụ khụ về đây”. Câu thơ này được “Tam nguyên Yên Đổ” viết khi sắp bước sang tuổi “tri thiên mệnh”, cụ cáo bệnh, không nhận chức Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang) để về với mảnh đất cha ông sống cuộc đời thanh bạch, vui thú điền viên ở vùng quê nghèo chiêm trũng.

Gian nhà của cụ Nguyễn Khuyến nằm ở làng Vị Hạ, xã Trung Lương (xưa là xã Yên Đổ), huyện Bình Lục, Hà Nam. Để đi tới gian nhà ấy, du khách phải đi qua “ngõ trúc quanh co” trong làng Vị Hạ. Cổng vào nhà cụ Nguyễn Khuyến rêu phong, cổ kính, ở trên ba chữ Nho “Môn Tử Môn”.

Ông Nguyễn Thanh Tùng - hậu duệ đời thứ 5 của nhà thơ Nguyễn Khuyến (sinh năm 1941) phân tích: “Môn Tử Môn” có nghĩa là cửa ra vào của học trò. Đây là một lời răn dạy nghiêm khắc về đạo làm trò. Trước khi vào nhà thầy cho dù là quan lớn hay thứ dân đều phải đúng lễ nghĩa, xuống ngựa, xuống xe đi bộ vào viếng thầy.

“Tam nguyên Yên Đổ” - Nguyễn Khuyến còn là bậc thầy về tài bố trí phong thủy. Bước qua cổng vào cổ kính là ngôi nhà được xây theo phong cách truyền thống xưa kia. Bên ngoài là đại tế, trong là hậu cung. Giữa nhà tế lễ và hậu cung là một khoảng sân nhỏ hình chữ Nhị. Chỉ những người được được sắc phong thần thì mới được xây như thế này.

 Trước cổng nhà có đề chữ: “Môn Tử Môn” có nghĩa là cửa ra vào của học trò.

Theo hậu duệ đời thứ 5 của nhà thơ, Nguyễn Khuyến mệnh hoả nên trấn trạch hai thủy một hỏa để cân bằng âm dương. Hai thủy gồm cái ao lớn có bờ cỏ thẳng ngăn ở giữa rồi đến cái lạch nước trong. Cái ao và lạch giống hình bút lông và nghiên mực của các nhà Nho.

Nhà đại tế có 7 gian, xây bằng gạch, lợp ngói, có bốn hàng cột. Hậu cung được làm bằng gỗ. Nhà của cụ đặc biệt ở chỗ, có lưỡng long chầu nguyệt, 9 bậc đặt ở dưới đất. Bình thường, hình lưỡng long chầu nguyệt hay được đặt ở trên nóc nhà, ông Tùng giới thiệu.

Lý giải về điều này, ông Tùng hồ hởi cho biết, ngày xưa, cụ giải thích với các chức sắc rằng làm vậy để tránh nắng hướng đông và hướng tây. Thế nhưng, lý do ban đầu của cụ lại hoàn toàn khác. "Cụ Nguyễn Khuyến để lưỡng long chầu nguyệt ở dưới đất nhằm ám chỉ vua nhà Nguyễn bán nước nên không cho cưỡi lên đầu rồng, chỉ chầu đằng trước nhà thôi", ông Tùng thâm thúy nói.

Đi sâu vào hậu cung, chúng tôi có thể dễ dàng nhìn thấy những nghiên bút, sắc phong, câu đối cổ. Đó là cuốn thư của cụ Dương Khuê tặng cụ Nguyễn Khuyến khi cụ đỗ Tam nguyên đầu khoa bảng, tấm biển "Ân tứ vinh quy", "Nhị giáp tiến sĩ" do Vua Tự Đức ban cho “Tam nguyên Yên Đổ”...

Trước sân của ngôi nhà cổ còn có con lạch nhỏ. Theo lời kể của ông Tùng, cụ Nguyễn Khuyến từ lâu đã tính toán cho đào một con lạch và một cái ao cạnh nhau, điều này giúp cân bằng âm dương, trấn trạch.

Trong khoảng sân vườn rộng, gia đình cụ trồng nhiều loại cây ăn quả như na, vú sữa, bưởi và các loại hoa thơm. Ngoài ra, từ xa xưa, cụ Nguyễn Khuyến đã cho trồng cây vối để lấy lá hãm nước uống.

Bất kỳ du khách nào khi đến tham quan ngôi nhà cổ đều trầm trồ với 3 cây nhãn cổ thụ đã ngoài 100 tuổi, cả ba cây đều xanh tốt quanh năm và được các con cháu cụ Nguyễn Khuyến chăm sóc. Chỉ tay về một cây nhãn cổ ông Tùng cho biết: “Hiện nơi này có 3 cây nhãn cổ thụ. Con trai cụ Nguyễn Khuyến đã xin ba hạt nhãn về trồng sau khi mừng thọ Vua Tự Đức (1829- 1883)”.

Ông Tùng cho hay, các cụ xưa kể lại, trong một lần cụ Nguyễn Khuyến cùng con trai vào kinh mừng thọ Vua Tự Đức, Nhà Vua đã ban cho cụ Nguyễn Khuyến chùm nhãn. Con trai cụ xin Vua Tự Đức ba hạt giống về ươm trồng và được chấp thuận.

Nở nụ cười tươi, ông Tùng tâm sự, việc con trai cụ Nguyễn Khuyến xin ba hạt nhãn về trồng không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là vật quý Vua Tự Đức ban mà các cụ còn có ý nghĩa sâu xa khác. Trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời phong kiến, danh hiệu học vị tiến sĩ được gọi là bảng nhãn.

Vì vậy con trai cụ Nguyễn Khuyến trồng ba cây nhãn là có ngụ ý muốn con cháu noi theo và tiếp bước truyền thống của dòng họ: "Con trai cụ Nguyễn Khuyến trồng cây nhãn là muốn nhắn nhủ thế hệ sau tiếp bước việc học hành của dòng họ, cố gắng đỗ đạt cao".

Trong khuôn viên ngôi nhà còn lưu giữ, trưng bày rất nhiều kỷ vật quý hiếm như: Một số bộ triều phục của cụ Nguyễn Khuyến, bức tượng đá tạc hình nhà thơ, câu đối, tấm bia khắc bài thơ “Thu điếu” bằng nhiều thứ tiếng khác nhau…

Gian nhà niên đại hơn thế kỷ ấy đã đón biết bao nhà nghiên cứu, người yêu văn chương, du khách và đặc biệt là những học sinh trên khắp mọi miền Tổ quốc. Họ tới cung kính thắp hương tri ân một nhà thơ có đức và có tài, với một lòng yêu nước, thương dân và chiêm ngưỡng gian nhà độc đáo của mảnh đất hình chữ S.

Bảo Châu (tổng hợp)

Nguyễn Khuyến có tên là Nguyễn Văn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Sinh ngày 15-2-1835 (tức 18 tháng Giêng năm Ất Mùi).

Nguyễn Khuyến có tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễn Chi. Ông sinh giờ Tý, 15/ 11/ 1835 (tức ngày18 tháng giêng năm Ất Mùi), tại làng Ngòi, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên (Nam Hà), là con trai của cụ Nguyễn Tông Khởi (có sách ghi là Nguyễn Liễn) và Bà Trần Thị Thoan. Có thể nói, Nguyễn Khuyến xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, hai bên nội ngoại đều có truyền thống khoa bảng. Cụ bốn đời Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Mại, đỗ tiến sĩ, làm quan đến Hiến sát sự Thanh Hoá. Cha ông cũng theo đời Nho học, đỗ ba khoa tú tài, chuyên nghề dạy học.

         Thuở nhỏ, Nguyễn Khuyến học với cha. năm lên 8 tuổi, ông theo gia đình về sống ở quê nội ở làng Và, xã Yên Đỗ, huyện Bình Lục. Năm 1825, ông đi thi Hương lần thứ nhất cùng cha, song không đỗ. Năm sau, địa phương có dịch thương hàn, ông mắc bệnh suýt chết. Cha và em ruột, bố mẹ vợ chồng cùng nhiều họ hàng thân thuộc đều qua đời vì bạo bệnh. Gia đình ông lâm vào cảnh tiêu đều xơ xác, đời sống ngày càng đói rét. 1852, ông lấy cô Nguyễn Thị Lụa – con gái ông Nguyễn Gia Thung ở cùng làng rồi cùng cha đi thi Hương. Nhà nghèo, không tiền lai kinh, vợ ông  phải 175 bán cái yếm được năm quan để chồng đi thi nhưng ông không đậu. Năm sau, cha chết vì thương hàn, ông muốn bỏ học đi dạy học nhưng mẹ ông không đồng ý. Hai người phụ nữ, một người mẹ 60 tuổi và moät người con dâu mới vẫn cặm cụi dệt vải thuê kiếm tiền nuôi con, nuôi chồng ăn học. nhưng trớ trêu thay, lận đận bao lần, đến năm 34tuổi, 7 lần thi chỉ một lần đậu Hương năm 1864. Sau đó, ông đổi tên thành Nguyễn Khuyến để tự khích lệ mình cố gắng dùi mài kinh sự. Sự kiên trì, cần cù, miệt mài ấy cuối cùng cũng được đền bù xứng đáng: Năm 36 tuổi, ông đỗ đầu khoa thi Hội, Đình, Hương, học vị hoàng giáp nên được vua Tự Đức ban cờ biểu và thêm 2 chữ Tam Nguyên. Từ đó người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đỗ. Cuộc đời ông nằm gọn trong giai đoạn đất nước suy vong, lệ thuộc hoàn toàn và người Pháp. Ngày ông vinh quy, cả làng nao nức, vui mừng đi đón rước linh đình.

         Nguyễn Khuyến bắt đầu ra làm quan và lần lượt giữ những chức vụ quan trọng như Đốc học Thanh Hoá, Án sát Quảng Bình, Bố chánh Quảng Nam, Thương biện Hà Nội, Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc. Thế nhưng, sống trong một triều đại đã đến thời mục nát, tận mắt  chứng kiến cảnh nô lệ, ông sinh lòng chán nản và viện cớ đau mắt nặng, Nguyễn Khuyến cáo quan vào năm 50 tuổi (1885) và về quê đạy học, vui thú điền viên. Đây cũng là một hành động chứng tỏ sự bất hợp tác của nhà thơ đối với triều đình và người Pháp. Ông mất năm 1909, thọ 75 tuổi.

         Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đặc biệt có tài về thơ Nôm và chính ở đây, thơ ông đặc biệt sắc sảo và sinh động. Con người của ông hiển hiện trong thơ khá chân thật, rõ ràng, nên thơ giữa ông và con người thật của Nguyễn Khuyến không có một sự cách biệt nào. Có thể nói, tên tuổi của ông, hình ảnh của ông đã đi vào lòng dân tộc thật đậm đà thân thương! Vì sao ư?

          Nhà thơ là một con người, một tâm hồn thơ tiêu biểu cho bản sắc Việt Nam. Cái đặc tính dịu dàng, kín đáo, không ồn ào nhưng hóm hỉnh, trong sáng và sâu sắc, tế nhị, có lẽ là  sản phẩm tinh thần độc đáo của xứ sở đồng bằng trồng lúa nước, xứ sở của những làng quê xanh ngắt với những lũy tre bao bọc xung quanh! Những đặc tính ấy đã từng làm say mê bao nhiêu du khách đến từ những đất nước xa xôi.

         Mặc dù đã dự phần “bảng vàng bia đá nghìn thu”, nhưng Nguyễn Khuyến lúc nào cũng giữ nguyên vẹn phong cách của một người con của xứ làng quê ấy, sống chan hòa với những người “chân quê” giữa đồng đất quê hương. Minh chứng là một bức tranh sinh hoạt gần gũi, thấm đậm tình người trong “Bạn đến chơi nhà”, là người dân quê chân chất, tràn đầy sự trìu mến, thân thương, là sự tha thiết bi thương trước cảnh đói rét, nô lệ lầm than của người dân đất Việt, … Dù với hoàn cảnh nào thì thơ ông vẫn trung thành bản sắc Việt Nam. Cái bản sắc ấy hòa quyện vào thiên nhiên thật đặc sắc và hữu tình. Chỉ là cảnh nông thôn nghèo nàn xơ xác cũng sẽ là những tác phẩm Thơ - Họa tuyệt vời, làm rung động lòng người trong cái tình của Nguyễn Khuyến và bằng bút pháp điêu luyện của ông.

        Không chỉ là một tâm hồn Việt Nam tiêu biểu, Nguyễn Khuyến còn là một nhân cách Việt Nam tiêu biểu ở thời đại bấy giờ. Đó là thời đại mất nước, dân tộc bị chà đạp, con người Việt Nam đói rét lầm than. Rất nhiều kẻ xuất thân là kẻ sĩ, “sĩ phu” đã làm tay sai cho giặc. Bản thân Nguyễn Khuyến cũng đã trót dấn thân vào con đường hoạn lộ. Nhưng với nhãn quan sắc bén, ông nhìn rõ chân tường của thời cuộc, ông đã dứt khoát vứt bỏ mọi thứ vinh hoa phú quý, “treo ấn từ quan”, giả đui giả điếc, lui về ở ẩn nơi làng quê để giữ vững khí tiết, phẩm cách của một người yêu nước chân chính, hòa mình cùng nhân dân. Ông đau với nỗi đau của người dân, ông buồn với cái “sự nghèo” của họ, nhưng càng đau hơn khi bất lực trước cảnh dân tình bị dày xéo và day đứt bằng nỗi đau của một người ưu thời mẫn thế, đau nước đau nòi:

Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm,

Nước độc ma thiêng mấy vạn người,

Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,

Phá tung phên giậu hạ đi rồi”.

         Một nhân cách thực sự cao cả làm sao có thể chịu khoanh tay bó gối trước cuộc đời ngang trái? Vậy Nguyễn Khuyến đã “xử thế” như thế nào cho xứng với tầm vóc của ông? Biết mình không có khả năng làm chính trị, ông quay ra làm văn hóa! Ông làm thơ, làm câu đối, ca trù… cho mọi người thưởng thức. Ông sáng tạo ra Văn Thơ Trào Phúng sâu sắc, chua cay, chĩa mũi dùi đả kích vào cái cuộc đời đồi bại và lố bịch lúc bấy giờ. Một triều đình nhà Nguyễn như “hề”: Vua chèo còn chẳng ra gì, quan chèo vai nhọ khác chithằng hề”; một bà đầm thực dân “Bà quan tênh nghếch xem bơi trai”; hay một ông quan ta bị Tây đá đít bằng “giày móng lợn”, hoặc ông lại cám cảnh trước cả đám “dân ngu” chưa nhận ra cái nhục mất nước “Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún, tham tiền, cột mỡ lắm anh leo, khen ai khéo vẽ trò vui thế, vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!”. Có thể nói, Thơ Trào Phúng của ông khác nào một ngọn đuốc soi đường cho lương tri của dân tộc trong đêm tối, giúp mọi người thấy rõ phải quấy, chính tà.

         Nguyễn Khuyến là con người tuyệt vời! Một nhân cách lớn, một bản sắc Việt Nam độc đáo, một tâm hồn thắm thiết, một văn tài kiệt xuất và một cách xử thế đúng đắn, một nhà thơ ưu tú, đại tài đều tụ hội trong ông. Bà cụ Đà, cháu nội của Nguyễn Khuyến, kể rằng: “Vào cuối đời, cụ Tam Nguyên sống âm thầm, buồn tủi. Mỗi lúc hoàng hôn sắp xuống, cụ ngồi trầm ngâm ngoài sân với hai ông phỗng đá, rót rượu vào ba ly, nâng chén mời, và tự uống phần mình. Rồi buồn rầu xoa đầu hai pho tượng và uống hộ cho cả hai. Sau đó cụ ngồi thừ người một lúc, rồi cúi đầu, lặng lẽ bưng mặt khóc”.

         Giọt lệ chí tình của nhà thơ đã để lại cho chúng ta nhiều xúc động và suy nghĩ, cũng như chính cuộc đời và thi phẩm của ông. Chúng ta cảm thông với những băn khoăn day dứt, với nước mắt và nụ cười của nhà thơ. Và hôm nay, chúng ta có thể nở nụ cười vui mừng vì Văn học Việt Nam đã có một nhà thơ như thế! Nguyễn Khuyến đã “dân tộc hóa” phong cảnh nông thôn, “cụ thể hóa” cuộc sống lam lũ nhưng không kém phần thơ mộng của dân lành, “thi vị hóa” tình bạn, cười cái đáng cười và khóc điều đáng khóc trong xã hội, và nhất là đã yêu mến quê hương với một tấm lòng chân thật, khiêm nhường. Chúng ta hân hoan vì Văn học Việt Nam có Nguyễn Khuyến, một nhà thơ tài năng, đạo đức, một gương mẫu để chúng ta noi theo. Nhà thơ Nguyễn Khuyến, với lòng yêu nước và thương dân, đã đi vào văn học sử và sẽ mãi mãi để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng mọi người.

Ban biên tập

Video liên quan

Chủ đề