Trả lời câu hỏi mục 2 trang 36 SGK Lịch sử và Địa lý 6 Kết nối tri thức với cuộc sống Show
Quảng cáo
Đề bài Nêu những điểm chính của chế độ xã hội ở Ấn Độ cổ đại.
Video hướng dẫn giải
Phương pháp giải - Xem chi tiết
Dựa vào thông tin mục 2 Lời giải chi tiết Những điểm chính của chế độ xã hội ở Ấn Độ cổ đại: -Chế độ đẳng cấp Vác-na + Đẳng cấp thứ nhất là Brahman gồm Tăng lữ - quý tộc.Đây là đẳng cấp cao nhất – những người thuộc đẳng cấp này có nhiệm vụ nghiên cứu - giảng dạy kinh Vê-đa và lo việc cúng tế thần linh. + Đẳng cấp thứ hai là Kcatrya gồm tầng lớp quý tộc, vương công và vũ sĩ, có thể làm vua và các thứ quan lại. + Đẳng cấp thứ ba là Vaicya gồm đại đa số là nông dân, thợ thủ công và thương nhân, họ phải nộp thuế cho nhà nước, cung phụng cho đẳng cấp Brahman và Kcatrya. + Đẳng cấp thứ tư là Cudra gồm đại bộ phận là cư dân bản địa bị chinh phục, nhiều người là nô lệ, là kẻ tôi tớ đi làm thuê làm mướn. Loigiaihay.com
Bài tiếp theo
Quảng cáo
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Lịch Sử và Địa Lí lớp 6- KNTT - Xem ngay Báo lỗi - Góp ý
|
Về Phật giáo Việt Nam và hai giáo hội
Chụp lại hình ảnh,
Hòa thượng Thích Quảng Độ tiếp tục lãnh đạo GHPGVNTN sau khi chỉnh đốn nhân sự
Tin Hòa thượng Thích Quảng Độ từ chức lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ngày 01/09/2013 đã là một chấn động lớn đối với những người mến mộ ông.
Nhưng sau hai ngày theo dõi phản ứng của Phật tử và tiếp xúc với các chức sắc trong giáo hội, ngày 04/09, Hòa thượng Thích Quảng Độ cho biết ông chấp nhận tiếp tục lãnh đạo Giáo hội, sau khi chỉnh đốn lại thành phần nhân sự Văn phòng II Viện Hóa Đạo.
Đây là một tin mừng cho giới tăng ni, Phật tử thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vì, theo Thông cáo báo chí ngày 05/09, "cuộc vận động Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn chưa thành, lãnh thổ lãnh hải bị ngoại nhân xâm chiếm, nhân tâm ly tán, phân hóa, đồng bào trong nước sống cảnh đói nghèo, thiếu tự do, nhân quyền, chế độ độc tài toàn trị vẫn còn thống trị, để van nài Ngài trở lại lèo lái con thuyền Giáo hội trên phong ba bão táp".
Nhưng rõ ràng đây là một thông điệp chính trị. Thông cáo báo chí này để lộ những khó khăn mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đang gặp phải. Người thuyền trưởng không thể rời bỏ con tàu đang giữa phong ba bão táp.
Tất cả những vấn nạn mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đang gặp phải là chỗ đó: đạo và đời là hai lãnh vực rất khó tách rời nhau trong sinh hoạt của hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Sự gắn bó của Phật giáo giữa đạo và đời không phải mới đây, quan hệ này đã xuất hiện ngay từ khi Phật giáo được du nhập vào Việt Nam.
Đẳng cấp có vị thế cao nhất và thấp nhất trong xã hội Ấn Độ cổ đại
Đề bài
Hãy cho biết đẳng cấp có vị thế cao nhất và đẳng cấp có vị thế thấp nhất trong xã hội Ấn Độ cổ đại
Hướng dẫn giải
Đẳng cấp có vị thế cao nhất là Bra-man (Braman) hay còn được gọi là tăng lữ
Đẳng cấp có vị thế thấp nhất là Sa-dra (Sadra) hay còn được.
Bài trước Bài sau
Có thể bạn quan tâm
Điều kiện tự nhiên nào của lưu vực sông Ấn, sông Hằng ảnh hưởng đến sự hình thành của văn minh Ấn Độ?
Quan sát lược đồ 8.1, hãy cho biết sông Ấn chảy qua những quốc gia nào? Lịch sử 6 mới
Bài trước
Chế độ đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ cổ đại được phân chia dựa trên cơ sở nào?
Bài sau
Chú thíchSửa đổi
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Bà-la-môn. |
Mục lục
- 1 Khái niệm
- 1.1 Lý thuyết giai cấp và danh tiếng của Warner
- 1.2 Lý thuyết đẳng cấp và giai cấp
- 2 Quan niệm của Marx về giai cấp
- 3 Quan niệm của Weber về giai cấp
- 4 Xem thêm
- 5 Đọc thêm
- 6 Tham khảo
- 7 Chú thích
- 8 Các liên kết ngoài
Khái niệmSửa đổi
Thuật ngữ giai cấp dùng "để chỉ một nhóm xã hội mà các thành viên có vị trí tương đương nhau trong một cơ cấu bất bình đẳng khách quan về vật chất do một hệ thống những quan hệ kinh tế đặc trưng cho một phương thức sản xuất cụ thể tạo ra". Nhà xã hội học người Mỹ Rodney Stark định nghĩa: "Giai cấp là nhóm người chia sẻ một vị trí giống nhau trong hệ thống phân tầng xã hội".
Thực tế, xã hội phân hóa thành các giai cấp khác nhau, nhưng cách hiểu về giai cấp lại không giống nhau. Người ta thường hiểu giai cấp là một nhóm xã hội có vị trí kinh tế, chính trị và xã hội giống nhau nhưng không được quy định chính thức, không được thể chế hóa mà do sự nhận diện theo những chuẩn mực xã hội nhất định như giàu - nghèo, chủ - thợ, thống trị - bị trị,...
Theo Marx, chuẩn mực chủ yếu của sự phân chia giai cấp xã hội là quan hệ đối với tư liệu sản xuất, có sở hữu về tư liệu sản xuất hay không, là vai trò đối với quá trình sản xuất - quản lý quá trình đó hay bị quản lý quá trình đó, là cách phân chia kết quả sản xuất - cách phân phối và hưởng thụ sản phẩm xã hội. Với những chuẩn mực kinh tế ấy, các giai cấp có những dấu hiệu xã hội và chính trị khác nhau như lối sống, địa vị xã hội, văn hóa, ý thức, v.v...
Khác với Marx, nhà xã hội học Max Weber vẫn lấy chuẩn mực kinh tế để phân chia giai cấp, nhưng Weber cho rằng mối liên hệ nhân quả giữa kinh tế và xã hội, chính trị, ý thức phức tạp hơn nhiều. Vị trí kinh tế quy định ý thức và hành động, nhưng địa vị xã hội cũng dẫn tới một quy chế trong cơ cấu kinh tế.
Lý thuyết giai cấp và danh tiếng của WarnerSửa đổi
Lý thuyết của Warner được gọi là lý thuyết danh tiếng vì trong đó ông xác định giai cấp của cá nhân bằng cách hỏi những người khác xem họ sắp xếp thứ tự cộng đồng thế nào theo "danh tiếng" của cá nhân đó. Dựa theo kết quả thống kê đó, Warner chia ra 6 nhóm giai cấp khác nhau trong xã hội:
- Thượng lưu trên;
- Thượng lưu dưới;
- Trung lưu trên;
- Trung lưu dưới;
- Hạ lưu trên;
- Hạ lưu dưới.
Lý thuyết đẳng cấp và giai cấpSửa đổi
Các nhà xã hội học theo thuyết này phân biệt hai cấp độ khác nhau giữa đẳng cấp và giai cấp.
- Đẳng cấp là những vị trí, trong đó con người sinh ra và cuộc đời họ tồn tại ở đó. Các thành viên trong cùng đẳng cấp có một địa vị được có sẵn, chứ không phải là một địa vị phải phấn đấu mới đạt được. Phân chia đẳng cấp là một dạng của phân tầng xã hội đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử loài người. Ví dụ, Trung Hoa cổ đại có quân tử và tiểu nhân, thứ dân (sĩ, nông, công, thương). Hy Lạp cổ đại có dân tự do và dân nô lệ. Ấn Độ cổ đại có bốn đẳng cấp: tăng lữ, chiến binh, thợ thủ công, và người làm ruộng và đầy tớ.
- Giai cấp, cũng giống như đẳng cấp, giai cấp cũng là tầng lớp xã hội nhưng dựa trên tiêu chuẩn kinh tế như nghề nghiệp, thu nhập và của cải. Giai cấp nhìn chung là "mở" và ít nhiều có những khoảng trống để người mới đến có thể gia nhập. Trong xã hội hiện đại có xu hướng liên hệ mật thiết giữa giai cấp và di động xã hội.
Đẳng cấp: Rào cản lớn với quá trình phát triển của Ấn Độ
Một Ấn Độ rất đặc biệt, không nhầm lẫn đâu được. Để định hình nên nền tảng văn hoá - xã hội như hiện nay, không thể không nói đến hệ thống đẳng cấp rất đặc trưng của quốc gia Nam Á này.
Khitình hình Covid-19 ở Ấn Độ diễn biến đến mức “kinh hoàng”, chúng ta phải xem những hình ảnh đau lòng.
Không chỉ có 4 đẳng cấp
Ấn Độ là đất nước của sự đa dạng về mọi mặt: văn hóa, tôn giáo, chủng tộc,ngôn ngữ… Hindu giáo với vị trí là tôn giáo lớn nhất ở Ấn Độ (hiện nay có 966 triệu người tin theo) và là tôn giáo lớn thứ ba thế giới (1,03tỉtín đồ) đóng vai trò then chốt trong việc định hình nên cấu trúc xã hội của Ấn Độ.
Từ tôn giáo này làm nảy sinh hệ thống đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ, và nó chi phối, tác động sâu sắc, lâu dài với nhiều hệ lụy trong xã hội đến ngày nay.
Khu ổ chuột Dharavi ở Mumbai.Dharavi là một trong những nơi có mật độ dân số cao nhất trên thế giới. Những mái nhà màu xanh trên thực chất là vải nhựa để tránh mưa. Ảnh:Daily Mail |
Cấu trúc xã hội Ấn Độ theo nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa Geetesh Sharmalà “tập hợp những thành tố bất quy tắc, nhưng kỳ lạ là nó lại được sắp xếp thành một hệ thống lớp lang rõ ràng".
Nhìn từ ngoài vào, xã hội Ấn chồng chéo lên nhau nào là đẳng cấp, tầng lớp, tôn giáo, ngôn ngữ, vùng miền… Nhưng nếu định vị hệ thống đẳng cấp là xương sống của cả cấu trúc xã hội Ấn Độ, mọi thứ sẽ trở nên có trật tự và rõ ràng. Hệ thống này được hình thành cả ngàn năm trước, và đến nay, nó vẫn là nguyên nhân cốt lõi cho những bất ổn trong xã hội.
Hầu hết các học giả Ấn Độ lẫn phương Tây đều nhất trí rằng, hệ thống đẳng cấp là một đặc trưng của Hindu giáo. Tuy vậy, cùng với sự ra đời và du nhập của các tôn giáo khác, hệ thống đẳng cấp cũng đã có sự ảnh hưởng nhất định đến Hồi giáo, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo và đạo Jain.
Từđẳng cấptrong tiếng Anh làcaste, vốn không phải là một từ đơn Ấn Độ.Theo từ điển Oxford, caste có nguồn gốc là từcastatrong ngôn ngữ Bồ Đào Nha, có nghĩa là "chủng tộc, dòng dõi, giống" và nghĩa nguyên sơ là "tinh khiết và không pha trộn". Không có khái niệm nào trong ngôn ngữ Ấn Độ đại diện hoàn toàn cho từ này, mà chỉ có hai thuật ngữ gần đúng làvarnavàjati.
Varna có nghĩa làmàu sắc, và là khuôn khổ đầu tiên trong việc phân định xã hội trong thời kỳ Veda (Vệ đà). Bốn đẳng cấp trong varna là Brahmins (đẳng cấp tu sĩ, hay còn gọi đẳng cấp Bà La Môn), Kshatriyas (còn được gọi là Rajanyas, là đẳng cấp của những vương công quý tộc, chiến binh), Vaishyas (thợ thủ công, thương nhân, nông dân) và Shudras (đẳng cấp nô lệ, những người làm công việc nặng nhọc).
Tuy vậy, vẫn còn một đẳng cấp thứ năm trong hệ thống varna vốn không được công nhận chính thức trong các kinh sách, là đẳng cấp Dalit (tiện dân). Những người thuộc đẳng cấp này bị coi là "nằm ngoài xã hội" và phải làm các công việc bị cho là hạ tiện như đổ phân, nhặt rác…
Trong khi đó,jaticó nghĩa là sinh ra, nguồn gốc.Khái niệm này ít được đề cập trong kinh sách hơn so với varna. Có đến hàng ngàn jati, và hiện nay vẫn chưa có định nghĩa chính xác dành cho khái niệm này.
Nguồngốc từ đâu
Từ lý thuyết ủng hộ cho sự phân biệt chủng tộc của phương Tây…
Có nhiều lý giải từ các nhà nhân chủng học, khảo cổ học vả cả sử học Ấn Độ và thế giới về nguồn gốc của hệ thống đẳng cấp đặc biệt này trong hơn một thế kỷ qua. Tuy vậy, có thể tạm nhóm các giả thuyết về nguồn gốc đẳng cấp Ấn Độ thành 3 nhóm lý thuyết lớn: lý thuyết chủng tộc, lý thuyết ngẫn nhiên và các chứng minh từ di truyền học.
Lý thuyết chủng tộc bắt đầu từ cuộc tranh luận giữa hai nhà nghiên cứu đồng thời cũng là hai nhà quản lý người Anh tại Ấn Độ J. C. Nesfield và H. H. Risley. Theo Risley,hệ thống đẳng cấp được hình thành từ sự xung đột chủng tộc(racial clash). Ông cho rằng chủng tộc Aryan "da sáng màu" đã vào tiểu lục địa Ấn Độ từ phía tây bắc và chinh phục chủng tộc Dravidian "da đen" bản địa.
Lý giải của Risley cho rằng người Aryan sau khi xâm lược đã chinh phục chủng tộc yếu thế hơn, bắt giữ phụ nữ theo nhu cầu của họ và tạo ra các thế hệ con lai, qua đó trở thành một đẳng cấp cao hơn.
Trong khi đó, Nesfield đưa ra nhận định "vấn đề nguồn gốc đẳng cấp không chỉ là về chủng tộc, mà còn là về văn hóa".
Lý thuyết chủng tộc về sự hình thành đẳng cấp đã khuyến khích các ý tưởng phân biệt chủng tộc, vốn dĩ ban đầu được phát triển để làm tôn lên địa vị của người châu Âu ở tiểu lục địa.
Một gia đình tại khu ổ chuột ở Mumbai ngày 3/4. Ảnh: AP |
Đến sự phản bác của chính học giả Ấn Độ
Các học giả Ấn Độ đã phản pháo lại lý thuyết chủng tộc của Risley. Nhà nghiên cứu Ketkar lập luận rằng các đẳng cấp là kết quả của các cuộc xung đột giữa các bộ tộc với nhau hơn là về vấn đề giữa người Aryan và người Dravidian.
Quan điểm của Ketkar là tất cả người dân Ấn Độ, với một số ngoại lệ hạn chế đến từ miền đông, đều thuộc về một chủng tộc duy nhất, đồng thời bày tỏ lo ngại rằng các lý thuyết chủng tộc có thể gây ra sự chia rẽ trong xã hội.
Những phản ứng của giới khoa học Ấn đã dẫn tới sự tạo ra của cái tạm gọi làlý thuyết ngẫu nhiên.Theo quan điểm này,chế độ đẳng cấp là sản phẩm của những sự kiện lịch sử cụ thể, có thể bị giới hạn trong một khoảng thời gian và địa điểm cụ thể.
Lý thuyết này có sự đóng góp quan trọng B.S Ambedkar (là người xuất thân từ đẳng cấp Dalit, đồng thời cũng là người soạn thảo Hiến pháp Ấn Độ).
Ambedkar đã bác bỏ lý thuyết chủng tộc và tấn công vào những người đã "dùng sinh học để bảo vệ hệ thống đẳng cấp". Ông nhấn mạnh về nghiên cứu của Nesfield với kết luận không hề có sự khác biệt về chủng tộc giữa các đẳng cấp khác nhau trong cùng một khu vực, đồng thời kết luận "hệ thống đẳng cấp là sự phân biệt trong xã hội giữa những người cùng chủng tộc”.
Kết thúc cuộc tranh luận trăm năm
Vào giữa những năm 1990, các nhà khoa học bắt đầu sử dụng di truyền học như một công cụ để kiểm tra nguồn gốc của chế độ đẳng cấp cũng như mức độ liên hệ giữa các đẳng cấp. Kể từ đó, hàng loạt các nghiên cứu về di truyền học về hệ thống đẳng cấp đã được ra đời.
Các nghiên cứu di truyền học đầu tiên cho ra những kết luận phù hợp với lý thuyết ngẫu nhiên. Theo đó, không có sự liên hệ tương ứng giữa các mối quan hệ di truyền với cấu trúc văn hóa xã hội.Thế nhưng các nghiên cứu tiếp theo lại đưa ra những kết quả rất khác nhau, một số khác lại ủng hộ cho lý thuyết chủng tộc.
Đến nay, các công trình nghiên cứu sử dụng di truyền học nhằm tìm hiểu về nguồn gốc của chế độ đẳng cấp vẫn tiếp tục được thực hiện.
Giải phóng đẳng cấp, giải phóng con người
Tuy cuộc tranh luận chưa thể dẫn đến một kết quả cuối cùng, ít ra nó cũng đã đóng góp được khác nhiều, từ việc bác bỏ “thần tính” về nguồn gốc của các đẳng cấp, khi Rig-Veda (kinh Vệ Đà) cho rằng các đẳng cấp được sinh ra từ các bộ phận khác nhau của người sơ thuỷ, trong đó người ở đẳng cấp cao thì sinh ra từ phần thân trên, và đẳng cấp thấp nhất sinh ra từ lòng bản chân.
Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vì nó sẽ dẫn đến sự phá bỏ quan niệm "đẳng cấp vốn là tự nhiên, là bất biến".Đây là tiền đề để giải phóng các đẳng cấp dưới khỏi hệ thống đẳng cấp nghiêm khắc, và là bước quan trọng để dẫn đến giải phóng con người.
Nhân viên y tế kiểm tra sức khỏe người dân tại một khu ổ chuột ở Mumbai. Ảnh: Guardian |
Thứ hai, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng đẳng cấp bắt nguồn từ các yếu tố chính trị - xã hội chứ không phải là từ tôn giáo. Và không ngoại trừ khả năng, hệ thống đẳng cấp chính là công cụ được các nhà thống trị tạo ra nhằm mục đích thiết lập một cấu trúc xã hội ổn định, trật tự và có lợi cho họ để dễ bề cai trị.
Hệ thống đẳng cấp hiện nay đang là rào cản rất lớn ảnh hưởng đến quá trình phát triển của Ấn Độ. Các khảo sát gần đây cho thấy sự phân biệt đối xử đẳng cấp vẫn không có dấu hiệu suy giảm mà ngược lại đang có xu hướng nghiêm trọng hơn. Cuộc tổng điều tra năm 2014 cho thấy tỉ lệ người dân thuộc các đẳng cấp dưới, đặc biệt là những người thuộc về đẳng cấp Dalit đang phải đối mặt với sự kỳ thị nặng nề với việc chiếm tỉ lệ thấp nhất trong các tiêu chí: tiếp cận giáo dục, y tế, việc làm...
Những bất công xã hội liên quan đến các đẳng cấp dưới liên tục diễn ra, bất kể ở khu vực đô thị hay nông thôn, thể hiện sự căng thẳng trong xã hội Ấn Độ hiện đại.
Mặc dù chính phủ Ấn Độ đã hiến định về việc cấm thực hành bất cứ hành vi phân biệt đối xử đối với các đẳng cấp dưới, thì việc có những đạo luật riêng biệt về "bảo lưu" đối với các đẳng cấp dưới cho thấy tình hình không hề lạc quan.
Cụ thể, Ấn Độ đã lên danh sách các đẳng cấp dễ bị tổn thương, và gọi nó là "Các đẳng cấp định danh". Theo đó, tất cả các cơ quan nhà nước (bao gồm Quốc hội), trường đại học, quân đội, cảnh sát… đều phải dành một tỉ lệ nhất định số "ghế" của mình cho những đẳng cấp được định danh này.
Việc này, tuy có tác động tích cực đối với những người thuộc đẳng cấp dưới, nhưng lại thể hiện rõ sự bất lực của Ấn Độ trong việc ngăn chặn việc thực hành phân biệt đối xử.
Lưu Duy Trân(Nghiên cứu sinh tiến sĩ tại ĐH Quốc gia Jeonbuk,Hàn Quốc)
Những bài học từ thảm họa ở Ấn Độ
Nhiều người quy trách nhiệm cho chủng biến thể từ Anh, nhưng chắc chắn còn có những yếu tố khác, trong đó quan trọng nhất, có lẽ là việc người Ấn Độ đã ngừng coi trọng đại dịch.