Tâm lý xã hội là gì triết học

Tồn tại xã hội và ý thức xã hội

Khái niệm tồn tại xã hội

Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Trong những quan hệ xã hội vật chất, hai loại quan hệ cơ bản là quan hệ giữa người với tự nhiên và quan hệ vật chất giữa người với người.

Tồn tại xã hội được nghiên cứu với tính cách vừa là đời sống vật chất vừa là những quan hệ vật chất giữa người với người. Theo ý nghĩa đó thì tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội và ý thức xã hội không bao quát được toàn bộ tồn tại xã hội.

Tồn tại xã hội gồm các yếu tố cơ bản sau: điều kiện tự nhiên (trước hết là hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số, phương thức sản xuất vật chất. Trong ba yếu tố cơ bản đó thì phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Như vậy, tồn tại xã hội là mặt vật chất xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển của loài người có một đời sống vật chất riêng - một tồn tại xã hội riêng. Mặt khác, các yếu tố của tồn tại xã hội thường xuyên thay đổi nên tồn tại xã hội có tính lịch sử.

Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội

Khái niệm

Ý thức xã hội là một tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.

Khi nghiên cứu về khái niệm ý thức xã hội cũng cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Ý thức cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội ở những mức độ khác nhau, do đó nó không thể không mang tính xã hội. Song. ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng , một tập thể, một xã hội, một thời đại nhất định.

Ý thức xã hội và ý thức cá nhân cùng phản ánh tồn tại xã hội, chúng tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng, xâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau.

Kết cấu của ý thức xã hội

Ý thức xã hội gồm các hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau. Tuỳ theo góc độ xem xét, chúng ta có thể chia ý thức xã hội thành các dạng khác nhau.

*Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận.

Ý thức xã hội thông thường: là những tri thức, những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hóa.

Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hoá, khái quát hoá thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, qui luật.

Ý thức xã hội thông thường tuy trình độ thấp hơn so với ý thức lý luận nhưng ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Ý thức xã hội thông thường là tiền đề quan trọng cho sự hình thành của học thuyết khoa học.

Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh khái quát, sâu sắc, chính xác, nó có khả năng vạch ra mối quan hệ bản chất của sự vật trong tồn tại xã hội.

* Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán của con người, của một bộ phận xã hội hoặc toàn bộ xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.

Tâm lý xã hội có đặc điểm: phản ánh trực tiếp tồn tại xã hội, nhưng đó là trình độ phản ánh thấp, phản ánh tự phát tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội ghi lại những mặt bề ngoài của xã hội nên nó không vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội. Những quan niệm của con người ở trình độ tâm lý xã hội mang tính chất kinh nghiệm, yếu tố trí tuệ đan xen với yếu tố tình cảm chưa thể hiện về mặt lý luận. Nó có vai trò quan trọng trong việc phát triển ý thức xã hội.

Hệ tư tưởng là trình độ cao của ý thức xã hội, hình thành khi con người nhận thức sâu sắc hơn về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình. Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất sự vật, vào các mối quan hệ xã hội.

Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo) là kết quả của sự khái quát hoá những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được hình thành một cách tự giác, nghĩa là nó được hình thành tự giác bởi các nhà khoa học và được truyền bá trong xã hội.

Khi nghiên cứu về hệ tư tưởng cần có sự phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học. Hệ tư tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất của xã hội. Còn hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan hệ vật chất xã hội nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo, xuyên tạc khách quan.

Là một bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư tưởng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của khoa học. Lịch sử các khoa học tự nhiên đã cho thấy tác động rất quan trọng của hệ tư tưởng, đặc biệt là vai trò của tư tưởng triết học trong quá trình khái quát tài liệu.

Mối quan hệ giữa hệ tư tưởng và tâm lý xã hội.

Hệ tư tưởng và tâm lý xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Cả hai đều có nguồn gốc tự tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội. Nhưng trong đó, tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định (tâm lý, tình cảm giai cấp là điều kiện thuận lợi cho các thành viên giai cấp tiếp thu hệ tư tưởng của giai cấp). Mối liên hệ giữa hệ tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng khoa học, tiến bộ) với tâm lý xã hội, với sự sinh động phong phú của đời sống thực tiễn sẽ giúp cho hệ tư tưởng bớt xơ cứng, giảm sai lầm.

Ngược lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội sẽ làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học sẽ thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo hướng đúng đắn, lành mạnh. Hệ tư tưởng phản khoa học sẽ kích thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển.

Hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.

Bất kỳ tư tưởng nào khi phản ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng thời cũng thừa kế các học thuyết xã hội, những tư tưởng và quan điểm đã tồn tại trước đó. Thí dụ, tư tưởng tôn giáo ở thời kỳ phong kiến thể hiện lợi ích của giai cấp phong kiến nhưng lại được bắt nguồn trực tiếp từ những tư tưởng duy tâm thời cổ đại và những tư tưởng đạo Cơ đốc thời kỳ đầu công nguyên. Sự ra đời phát triển của tư tưởng triết học Mác, cũng không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội của giai cấp công nhân lúc đó, mà là sự khái quát lý luận từ kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, phản ánh điều kiện kinh tế - xã hội lúc đó, khái quát các tri thức của nhân loại, kế thừa trực tiếp từ các học thuyết triết học, kinh tế học chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học ở thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX…

Rõ ràng, hệ tư tưởng xã hội liên kết hữu cơ với tâm lý xã hội, nhưng nó không đơn giản là sự “cô đặc” tâm lý xã hội.

Tính giai cấp của ý thức xã hội

Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau, có những lợi ích khác nhau, địa vị xã hội khác nhau, nên ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức khác nhau. Ý thức xã hội mang tính giai cấp.

Tính giai cấp của ý thức xã hội được biểu hiện ở tâm lý xã hội và hệ tư tưởng về tâm lý xã hội: mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội khác. Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội được biểu hiện rất sâu sắc. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng xuất hiện những quan điểm, tư tưởng hoặc hệ tư tưởng đối lập nhau: đó là tư tưởng của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, bao giờ bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Những tư tưởng thống trị thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và thống trị về chính trị ở thời đại đó. Sự đối lập đó thể hiện: nếu hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, bóc lột ra sức bảo vệ địa vị của giai cấp đó thì hệ tư tưởng của giai cấp bị trị, bị bóc lột thể hiện nguyện vọng, lợi ích của quần chúng lao động chống lại xã hội người bóc lột người để xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng.

Chủ nghĩa Mác Lênin là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân, ngọn cờ giải phóng của quần chúng bị áp bức, bóc lột, phản ánh tiến trình khách quan của sự phát triển. Hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin ngay từ khi hình thành đã đối lập với hệ tư tưởng tư sản -hệ tư tưởng bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ người bóc lột người. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản diễn ra hàng thế kỷ nay và sẽ còn kéo dài trên tất cả các lĩnh vực trong đó có hệ tư tưởng. Cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức hệ vẫn đang tiếp tục diễn ra trong điều kiện xã hội hiện nay. Trước sự biến động phức tạp của tình hình thế giới, các thế lực thù địch đang ra sức tiến công vào chủ nghĩa Mác Lênin, muốn phủ nhận chủ nghĩa Mác Lênin, phủ nhận chủ nghĩa xã hội.

Do vậy bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác Lênin trong điều kiện hiện nay là một nhiệm vụ quan trọng của cuộc đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta và nhân dân tiến bộ nói chung trên thế giới.

Trong xã hội có giai cấp, thì ý thức của các giai cấp trong xã hội có sự tác động qua lại lẫn nhau. Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp bị trị do bị tước đoạt tư liệu sản xuất, bị áp bức về vật chất nên không thể tránh khỏi bị áp bức về tinh thần. Do vậy, giai cấp bị thống trị không tránh khỏi chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị, bóc lột. Các Mác và Ăng ghen đã viết “Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối.”1. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của hệ tư tưởng của giai cấp thống trị còn tuỳ thuộc vào trình độ phát triển ý thức cách mạng của giai cấp bị thống trị.

Trong xã hội có giai cấp, bản thân giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp bị thống trị. Ở thời kỳ đấu tranh cách mạng phát triển mạnh, thường thấy một số người trong giai cấp thống trị, nhất là những tri thức tiến bộ từ bỏ giai cấp xuất thân của mình chuyển sang hàng ngũ các giai cấp cách mạng và chịu ảnh hưởng của giai cấp đó về tư tưởng. Đặc biệt trong số đó, có những người còn trở thành nhà tư tưởng của giai cấp cách mạng.

Khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội, chủ nghĩa Mác Lênin không phủ nhận ý thức cá nhân và tâm lý dân tộc.

Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn của những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp, mà còn phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc: những điều kiện lịch sử, kinh tế chính trị, văn hóa xã hội, điều kiện tự nhiên hình thành trong quá trình hình thành và phát triển lâu dài của dân tộc. Vì vậy, trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội, ngoài tâm lý xã hội và hệ tư tưởng của giai cấp, còn bao gồm tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán, tính cách…của dân tộc. Những yếu tố đó phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của cả dân tộc, thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống tinh thần của dân tộc, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc.

Mặc dù phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc và mang tính toàn dân tộc nhưng tâm lý dân tộc có mối liên hệ hữu cơ với ý thức giai cấp. Giai cấp tiến bộ, cách mạng phát huy những giá trị tinh thần của dân tộc, ngược lại, những tư tưởng của giai cấp phản động mâu thuẫn sâu sắc với những giá trị đó.

Giai cấp công nhân với chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng luôn quan tâm sâu sắc đến việc bảo vệ và phát triển những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định

Công lao to lớn của Các Mác và Ph. Ăng ghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết khoa học về sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh rằng: đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong chính hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức thời đại đó. Các Mác viết: “Không thể nhân định được về một thời đại đảo lộn như thế, căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất ấy.”

Chủ nghĩa duy vật đã chỉ rõ rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Nghĩa là tồn tại xã hội quyết định nội dung phản ánh của ý thức xã hội: nó quyết định ý thức xã hội ở sự nghèo nàn, phong phú hay đơn điệu trong nội dung phản ánh. Tồn tại xã hội cũng quyết định tính chất cách mạng hay phản ánh cách mạng, đối kháng hay không đối kháng trong ý thức xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi, nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa nghệ thuật…sớm hay muộn cũng thay đổi theo. Cho nên, chúng ta thấy ở những thời kỳ lịch sử khác nhau có những quan điểm, lý luận, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó chính là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định. Điều đó chứng tỏ:

“Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ, trái lại tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ.”

Thực tế trong lịch sử đã chứng minh điều đó. Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, mọi người còn sống chung, làm chung, hưởng chung nên chưa có quan niệm tư hữu, chưa có ý thức bóc lột. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, chế độ tư hữu ra đời xã hội phân chia giầu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người cũng thay đổi căn bản: tư tưởng ăn bám, tư hữu, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân…xuất hiện. Nhưng các nhà tư tưởng của giai cấp nô lệ vẫn ca ngợi chế độ nô lệ, xem đó là sự tồn tại hợp tự nhiên, cần thiết. Nhưng khi chế độ chiếm hữu nô lệ suy tàn thì trong xã hội cũng xuất hiện tư tưởng xem chế độ chiếm hữu nô lệ là trái với chính nghĩa cần xoá bỏ. Trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và dần dần lớn mạnh thì cũng nảy sinh quan niệm cho rằng sự tồn tại của chế độ phong kiến là trái công lý, không phù hợp với lý tính con người phải được thay thế bằng xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái. Ngay cả khi chủ nghĩa tư bản mới ra đời, đã xuất hiện các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng phê phán những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản, đề xuất xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, thay thế chế độ tư bản. Nhưng ở thời điểm đó các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng không thể giải thích được bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và không hiểu những điều kiện khách quan dẫn tới thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Điều đó chỉ rõ xã hội tư bản chủ nghĩa mới ra đời đã mang trong mình nó những mâu thuẫn, song những điều kiện xây dựng xã hội mới thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa chưa đến độ chín muồi.

Triết học Mác Lênin với quan điểm về nguồn gốc ý thức không chỉ dừng lại ở chỗ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội mà còn chỉ ra rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, không phải một cách đơn giản, trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, chỉ khi nào xét đến cùng thì mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.

Triết học Mác Lênin đòi hỏi phải có thái độ biện chứng khi xem xét sự phản ánh tồn tại xã hội của ý thức xã hội.

Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội, còn ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội, triết học Mác Lênin không xem ý thức xã hội như một yếu tố hoàn toàn thụ động mà trái lại còn nhấn mạnh sự tác động tích cực trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được thể hiện trên những điểm sau.

Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội

Tính “thường lạc hậu” của ý thức xã hội nên hiểu theo nghĩa: ý thức xã hội thường ra đời sau khi tồn tại xã hội đã ra đời và thường mất đi sau khi tồn tại xã hội đã mất đi.

Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội từ những nguyên nhân sau:

Một là, theo nguyên lý phản ánh của Lênin: ý thức xã hội là các phản ánh tồn tại xã hội nên nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Hơn nữa sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động thường xuyên mạnh mẽ và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, nên nó thường diễn ra với tốc độ rất nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.

Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.

Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.

Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ mất đi, thậm chí mất đi rất lâu, nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập của ý thức xã hội thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực tâm lý xã hội: trong truyền thống tập quán, thói quen… V.I Lênin cho rằng sức mạnh tập quán được tạo ra qua nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm nhất.

Khuynh hướng lạc hậu của ý thức xã hội cũng biểu hiện rõ trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều hiện tượng ý thức có nguyên nhân sâu xa trong xã hội cũ vẫn tồn tại dai dẳng trong xã hội mới như lối sống ăn bám, lười lao động, tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân…

Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch về mặt tư tưởng. Đồng thời kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ kết hợp với phát huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp của dân tộc.

Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội

Triết học Mác Lênin khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội thì đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội. Tư tưởng đó có thể dự báo được tương lai, có tác dụng chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động của con người vào giải quyết những nhiệm vụ mới do sự chín muồi của đời sống vật chất tạo ra.

Sự ra đời, phát triển của chủ nghĩa Mác Lênin là một minh chứng. Chủ nghĩa Mác Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - giai cấp cách mạng nhất của thời đại. Tuy ra đời vào thế kỷ XIX, trong lòng chủ nghĩa tư bản nhưng chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ rõ qui luật của chủ nghĩa tư bản nói riêng. Qua đó khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Học thuyết đó đã trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ khí lý luận sắc bén để giải phóng mình và giải phóng nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới thoát khỏi ách nô dịch, bóc lột, xây dựng một xã hội hoàn toàn tốt đẹp. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác Lênin vẫn là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh vực, vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp khoa học cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Triết học Mác Lênin khẳng định tư tưởng tiên tiến có thể đi trước tồn tại xã hội không có nghĩa nói rằng trong trường hợp này ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư tưởng khoa học tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội mà phản ánh sâu sắc tồn tại xã hội.

Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình

Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình vì kế thừa là qui luật chung của các sự vật, hiện tượng nên trong quá trình vận động của ý thức xã hội nó cũng phải có tính kế thừa. Mặt khác, sự tồn tại, phát triển của ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội, mà tồn tại xã hội cũng có tính kế thừa, nó vận động liên tục nên ý thức xã hội cũng phản ánh quá trình đó, nó có tính kế thừa.

Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không nảy sinh trên mặt đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Ví dụ, chủ nghĩa Mác Lênin, kế thừa tinh hoa tư tưởng của loài người đã đạt được trước đó mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức, nền kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp.

Từ tính kế thừa của ý thức xã hội, nên không thể giải thích được một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, không chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển của tư tưởng nhân loại cho thấy: những giai đoạn phát triển hưng thịnh hay suy tàn của triết học, văn hóa, nghệ thuật … nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh hay suy tàn của kinh tế. Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội là một trong những nguyên nhân chỉ rõ vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao. Thí dụ, như nước Pháp thế kỷ XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn nước Anh, nhưng tư tưởng lại tiên tiến hơn nước Anh, hoặc so với nước Anh, Pháp nửa đầu thế kỷ XIX, nước Đức lạc hậu hơn về kinh tế, nhưng đứng ở trình độ cao hơn về triết học.

Trong xã hội có giai cấp, tính kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến kế thừa những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.

Khi tiến hành cách mạng tư sản các nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản đã kế thừa, khôi phục những tư tưởng duy vật, nhân bản thời cổ đại.

Ngược lại những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, những lý thuyết xã hội phản tiến bộ của các thời kỳ lịch sử trước. Giai cấp phong kiến trung cổ vào thời kỳ suy thoái đã khai thác triết học duy tâm của Platon và những yếu tố duy tâm trong hệ thống triết học Arixtot của triết học Hy lạp cổ đại, biến chúng thành cơ sở triết học của các giáo lý đạo thiên chúa. Hoặc bước vào nửa sau của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các thế lực tư sản phản động đã phục hồi và phát triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới như chủ nghĩa Cantơ, chủ nghĩa Tôma mới nhằm chống phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và chống chủ nghĩa Mác Lênin.

Chính vì thế, nên khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức xã hội thì không những phải vạch ra tính chất phản khoa học, phản tiến bộ của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện hiện tại, mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của nó trong lịch sử.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa rất to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I Lênin nhấn mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan Mác xít. Người nhấn mạnh: “Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp qui luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu.”

Nắm vững nguyên lý về tính kế thừa của ý thức xã hội có một ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng. Trong kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, Đảng ta khẳng định: “Phát triển văn hóa dân tộc đi đôi với mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.”

Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội

Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng là một biểu hiện nữa của tính độc lập tương đối của ý thức. Đây là qui luật phát triển của ý thức xã hội. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.

Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến cách hình thái ý thức khác.

Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt quan trọng, còn ở Tây Âu thời trung cổ, tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống tinh thần xã hội như triết học, nghệ thuật, đạo đức, chính trị, pháp quyền, ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng vai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác nhau. Ở Pháp cuối thế kỷ XVIII và Đức cuối thế kỷ XIX triết học và văn hóa là công cụ quan trọng nhất để tuyên truyền những tư tưởng chính trị, là vũ đài của cuộc đấu tranh chính trị của các lực lượng xã hội tiên tiến.

Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học, văn học, nghệ thuật… mà tách rời đường lối chính trị đổi mới đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.

Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội

Đâu là biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Chủ nghĩa Mác Lênin không những chống lại quan điểm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường phủ nhận vai trò tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Ph. Ăng ghen đã khẳng định “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật…đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế.”1

Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh, vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội, vào mức độ thâm nhập của tư tưởng đó vào quần chúng. Vì vậy cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức của tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội.

Như vậy, nguyên lý của triết học Mác Lênin về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Đây cũng là cơ sở lý luận để quán triệt quan điểm của Đảng ta trong việc kết hợp phát triển kinh tế với xây dựng nền văn hóa mới, và con người mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Các hình thái ý thức xã hội

Ý thức xã hội tồn tại trong những hình thái khác nhau. Những hình thái chủ yếu của ý thức xã hội là: ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và triết học. Tính phong phú đa dạng của các hình thái ý thức xã hội phản ánh và chịu sự qui định của tính phong phú đa dạng của bản thân tồn tại xã hội.

Ý thức chính trị

Hình thái ý thức chính trị xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội.

Ý thức chính trị phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.

Cần phân biệt chính trị và ý thức chính trị.

Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, đảng phái, các dân tộc về mặt nhà nước. Thực chất chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, đảng phái, dân tộc về quyền thống trị xã hội. Do đó, trung tâm của tư duy chính trị là vấn đề chính quyền nhà nước.

Còn ý thức chính trị là sự phản ánh các quan hệ xã hội, trước hết là quan hệ kinh tế, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.

Ý thức chính trị chia thành hai cấp độ: Ý thức chính trị thực tiễn thông thường và ý thức chính trị lý luận.

Ý thức chính trị thực tiễn thông thường nảy sinh tự phát từ thực tiễn và kinh nghiệm xã hội trong môi trường chính trị. Do vậy nó có tính cảm xúc tâm lý và kinh nghiệm cảm tính chưa có sự khái quát trí tuệ, chưa có tầm nhìn lịch sử rộng lớn, không có công thức lý luận.

Do thực tiễn đòi hòi mà ý thức chính trị được khái quát thành hệ thống, qui luật, phạm trù xã hội, nên nó trở thành hệ tư tưởng chính trị.

Hệ tư tưởng chính trị phản ánh trực tiếp và tập trung lợi ích của một giai cấp. Nó được: Hình thành tự giác, được truyền bá trong xã hội. Hệ tư tưởng chính trị thường gắn với tổ chức chính trị - qua đó bảo vệ lợi ích của giai cấp, qua đó thể hiện vai trò quan trọng của nó đối với xã hội.

Hệ tư tưởng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Tác động tích cực tiêu cực của nó đối với xã hội phụ thuộc vào tính chất cách mạng hoặc phản cách mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó.

Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là hệ tư tưởng cách mạng và thật sự khoa học. Đó là chủ nghĩa Mác Lênin. Đối lập với các hệ tư tưởng của các giai cấp khác hệ tư tưởng của giai cấp công nhân nhằm dẫn dắt giai cấp công nhân, nhân dân lao động đấu tranh xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng xã hội mới, công bằng, tốt đẹp - chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội, phù hợp với qui luật lịch sử.

Ý thức pháp quyền

Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước. Các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã hộlịch sử. Khác với ý thức chính trị, ý thức pháp quyền biểu hiện trước hết bằng những phạm trù thuộc về cá nhân trong quan hệ với nhà nước.

Ý thức pháp quyền cũng khác với các quan niệm về hạnh phúc, nghĩa vụ, lương tâm, trách nhiệm…trong ý thức đạo đức, các khái niệm trong ý thức pháp quyền được nâng lên cấp độ đạo luật của nhà nước, nếu vi phạm nó sẽ bị luật pháp trừng trị.

Ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước, ý thức pháp quyền phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là quan hệ sản xuất được thể hiện trong luật lệ của nhà nước. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị, được thể hiện thành luật lệ, do đó mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền. Nhưng trong xã hội có đối kháng giai cấp, các giai cấp khác nhau lại có những ý thức phản ánh lợi ích giai cấp của mình.

Ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và nhà nước, nên ý thức pháp quyền luôn mang tính chất giai cấp. Giai cấp nắm chính quyền củng cố địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp mình bằng luật lệ, nó cũng dựa trên hệ tư tưởng pháp quyền để lập luận về sự cần thiết và tính hợp lý về luật pháp của mình.

Hệ tư tưởng pháp quyền tư sản đã giải thích pháp luật tư sản như là biểu hiện cao nhất về các quyền tự nhiên của con người. Nhưng trên thực tế luật pháp tư sản bảo vệ quyền chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, bảo vệ chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa và trật tự của xã hội tư bản.

Ngược lại, pháp luật và hệ tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa lấy chủ nghĩa Mác Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng, phản ánh lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và bảo vệ cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội và trật tự xã hội chủ nghĩa. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là công cụ bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân lao động, của mọi giai tầng xã hội và cá nhân.

Để pháp luật xã hội chủ nghĩa trở thành công cụ sắc bén bảo vệ chế độ xã hội mới và trở thành ý chí chung của mọi người, được mọi người chấp hành một cách tự giác, thì nhà nước xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản cần không ngừng đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị và ý thức pháp quyền cho nhân dân.

Vận dụng vấn đề này vào Việt Nam, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xây dựng bằng pháp luật đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”1. Về nhiệm vụ giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, Đảng ta cũng nêu rõ: “Tăng cường giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng.”2

Ý thức đạo đức

Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện ác, tốt xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng,… và về những qui tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.

Những quan niệm về đạo đức, cũng như qui tắc đơn giản điều chỉnh hành vi đạo đức con người được hình thành rất sớm trong xã hội nguyên thuỷ. Khi xã hội xuất hiện giai cấp, ý thức đạo đức được hình thành và phát triển như một hình thái ý thức xã hội riêng.

Ý thức đạo đức nói chung không tách rời sự phát triển của xã hội. Sự điều chỉnh và đánh giá hành vi con người được thực hiện bằng hai phương thức cơ bản là theo nguyên tắc đạo đức và pháp quyền. Nếu như qui tắc pháp quyền được hình thành và thực hiện bởi quyền lực nhà nước, thì các qui tắc đạo đức được nảy sinh từ chính cuộc sống hàng ngày và được thực hiện một cách tự nguyện, nó điều chỉnh hành vi của con người bằng dư luận xã hội. Tuy nhiên, giá trị đạo đức của một hành vi con người vẫn được quyết định bởi ý thức đạo đức của cá nhân.

Sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng… phản ánh khả năng tự chủ của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản qui định gương mặt đạo đức của con người, cũng là biểu hiện bản chất xã hội của con người. Với ý nghĩa đó, sự phát triển ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện sự tiến bộ xã hội.

Ý thức đạo đức bao gồm hệ thống tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo đức, tình cảm và lý tưởng đạo đức trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất, nếu thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng con đường lý tính không thể chuyển hoá thành hành vi đạo đức. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại tồn tại trong mọi xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau. Đó là những qui tắc đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi của con người, cần thiết cho việc giữ gìn trật tự chung và sinh hoạt thường ngày của con người.

Tuy nhiên trong xã hội có giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo đức phản ánh quan hệ giai cấp, nó có tính giai cấp. Trong các phạm trù đạo đức luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp. Ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử mỗi giai cấp đều có những quan niệm đạo đức riêng của mình. Giai cấp đại biểu cho xu thế phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho nền đạo đức tiến bộ.

Ngược lại, các giai cấp phản động thì đại biểu cho một nền đạo đức suy thoái. Ph. Ăng ghen viết: “Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn là đạo đức của giai cấp; hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị; hoặc là khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị áp bức.”

Ở các nước phương Tây hiện nay, đang lưu hành một quan niệm cho rằng khi cách mạng khoa học và công nghệ hình thành và phát triển thì trong điều kiện đó hình thành một kiểu đạo đức mới không có tính giai cấp. Người ta nhấn mạnh đến đạo đức tôn giáo, như một thứ đạo đức duy nhất có khả năng chỉ cho toàn thể loài người con đường phát triển đi lên.

Đạo đức Mác xít được hình thành trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân. Đạo đức cộng sản kế thừa, phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của loài người, trước hết là của nhân dân lao động. Đạo đức cộng sản phản ánh mối quan hệ kinh tế của xã hội mới không còn áp bức, bóc lột giai cấp và chỉ đạo mọi hành vi đạo đức của con người. Nó yêu cầu sự hài hoà trong sự phát triển cá nhân và tập thể, coi trọng tự do cá nhân, đồng thời chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân tách rời dẫn đến đối lập lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng.

Ý thức tập thể, một nguyên tắc của đạo đức cộng sản, biểu hiện trước hết trong hoạt động của các thành viên trong xã hội mới. Nó đòi hỏi một thái độ, một kỷ luật lao động mới và thành quả lao động, coi lao động là trách nhiệm, quyền lợi là nghĩa vụ, là vinh dự của con người, nó không dung nạp tư tưởng ăn bám, bóc lột.

Đạo đức cộng sản thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao nhất, phản ánh bản chất của xã hội mới, xã hội lấy mục đích vì hạnh phúc con người để phát triển.

Nội dung đạo đức cộng sản bao gồm: chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa quốc tế. Nó yêu cầu mọi người phải giác ngộ ý thức đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc mình, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa sôvanh nước lớn và chủ nghĩa dân tộc, hẹp hòi.

Sự hình thành đạo đức cộng sản trong ý thức và hành vi của mọi người là kết quả của một quá trình đấu tranh và xã hội xã hội mới, một quá trình lâu dài và bền bỉ. Hơn nữa, ở giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ xã hội vừa thoát thai từ xã hội cũ, trong lòng nó còn mang dấu ấn cả về kinh tế, lẫn tinh thần đạo đức của xã hội cũ. Vì vậy, trong quá trình hình thành đạo đức mới phải đấu tranh dần xoá bỏ những tàn dư lỗi thời của đạo đức cũ.

Trong xã hội Việt Nam hiện nay, bên cạnh truyền thống tốt đẹp về đạo đức đang trở thành một nguồn sức mạnh tinh thần cho sự phát triển của dân tộc, cũng nảy sinh không ít vấn đề đang đặt ra và đòi hỏi phải giải quyết. Đó là cuộc đấu tranh giữa hai lối sống: một bên là lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của chính mình, có ý thức bảo vệ thành quả lao động chăm lo lợi ích cộng đồng với một bên là lối sống thực dụng, ích kỷ, dối trá, ăn bám, chạy theo đồng tiền bất chính…Vì vậy, giáo dục đạo đức mới cho làm lành mạnh đời sống tinh thần là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.

Ý thức thẩm mỹ

Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ với nhau cầu thưởng thức và sáng tạo cái đẹp.

Ý thức thẩm mỹ được hình thành và xuất hiện sớm trong lịch sử loài người. Trong quá trình lao động, con người từng bước tách mình khỏi tự nhiên, tìm cách làm chủ tự nhiên theo yêu cầu cuộc sống của mình. Quá trình tiếp xúc với tự nhiên, với người khác đã tạo nên ở con người những cảm xúc, hứng thú về cái đẹp. Do đó, thưởng thức và sáng tạo cái đẹp trở thành nhu cầu trong đời sống tinh thần của từng cá nhân và xã hội.

Ý thức thẩm mỹ bao gồm: cảm xúc, thị hiếu, quan điểm, và lý tưởng thẩm mỹ. Sự phát triển của tư duy thẩm mỹ dẫn đến sự hình thành một khoa học triết học đặc thù là mỹ học.

Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau có quan điểm, tư tưởng thẩm mỹ khác nhau và quan điểm lý tưởng thẩm mỹ của từng người cũng khác nhau.

Ý thức thẩm mỹ biến đổi thường xuyên trong lịch sử và phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Song quan điểm thẩm mỹ đúng đắn bao giờ cũng tiếp nhận và sáng tạo những giá trị vĩnh hằng của nhân loại đó là chân - thiện - mỹ (chân lý - đạo đức - cái đẹp).

Ý thức thẩm mỹ tồn tại trong tất cả các hoạt động tích cực, sáng tạo của con người. Trong các hoạt động ấy nghệ thuật là hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ và ý thẩm mỹ trở thành cái chủ yếu trong hoạt động nghệ thuật.

Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, nghệ thuật cũng bắt nguồn từ tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Nhưng khác với khoa học và triết học phản ánh thế giới bằng qui luật, phạm trù thì nghệ thuật phản ánh thế giới một cách sinh động và cụ thể, bằng hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật cũng phản ánh cái bản chất cuộc sống những phản ánh thông qua cái cá biệt, điển hình.

Về mặt nhận thức, không nên xếp nghệ thuật vào giai đoạn lý tính hoặc cảm tính. Hình tượng nghệ thuật là sự nhận thức cái chung trong cái riêng, nhận thức cái bản chất trong cái hiện tượng, nhận thức cái phổ biến trong cái cá biệt, nhận thức cái bản chất trong cái hiện tượng. Cái cá biệt trong nghệ thuật là cái cá biệt có tính điển hình, nếu tạo ra cái điển hình thì phải là cái điển hình đã được cá biệt hoá. Do đó, nghệ thuật không phải bao giờ cũng phản ánh tồn tại xã hội một cách trực tiếp dễ thấy. Các Mác viết: “Đối với nghệ thuật, người ta biết rằng những thời kỳ hưng thịnh nhất của nó hoàn toàn không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật chất của xã hội, cơ sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức xã hội.”

Nghệ thuật chân chính gắn bó với đời sống hiện thực của nhân dân, là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội thông qua việc đáp ứng những nhu cầu thẩm mỹ của con người. Khi phản ánh thế giới hiện thực trong các hình tượng nghệ thuật chân thực có giá trị thẩm mỹ cao, nghệ thuật đã tác động đến lý trí và tình cảm của con người, kích thích tính tích cực của con người, xây dựng ở con người những hành vi đạo đức tốt đẹp.

Trong xã hội có giai cấp, nghệ thuật mang tính giai cấp. Tính giai cấp của nghệ thuật trước hết biểu hiện ở chỗ nó không thể chịu sự tác động của thế giới các quan điểm chính trị của một giai cấp, không thể đứng ngoài chính trị và các quan hệ kinh tế. Trong xã hội có phân chia giai cấp mà phủ nhận mối liên hệ giữa nghệ thuật với chính trị là hoàn toàn sai lầm. Biểu hiện tập trung nhất tính giai cấp của nghệ thuật là tính đảng của nó.

Trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên trận địa tư tưởng, giai cấp tư sản luôn truyền bá các quan điểm nghệ thuật phản tiến bộ để đầu độc giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ngược lại, giai cấp công nhân và chính đảng củ nó luôn luôn hướng nghệ thuật vào mục đích phục vụ nhân dân lao động, giải phóng họ khỏi áp bức bóc lột, xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn.

Đối với nghệ thuật xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tính đảng cộng sản là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Tính đảng không những biểu hiện ở tính tư tưởng cao, tính chân thực sâu sắc mà yêu cầu tác phẩm nghệ thuật phải có giá trị thẩm mỹ cao. Tính đảng của nghệ thuật vô sản không hề hạn chế mà trái lại, phát triển quyền tự do, phát triển tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ. Vì vậy với hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ “tuyệt đối đảm bảo hết sức rộng rãi cho sáng kiến cá nhân, cho khuynh hướng cá nhân, cho tư tưởng và sức tưởng tượng, cho hình thức và nội dung.”

Khi nhấn mạnh tính giai cấp của nghệ thuật trong xã hội có giai cấp, triết học Mác Lênin không phủ nhận tính nhân loại nói chung của nó. Không ít tác phẩm nghệ thuật mà giá trị của chúng được lưu truyền khắp thế giới qua các thời đại mà tác giả của chúng là đại biểu của một giai cấp nhất định. Có những nền nghệ thuật của một dân tộc nhất định nhưng đã trở thành những giá trị văn hoá tiêu biểu của cả nhân loại.

Tính giai cấp của nghệ thuật cách mạng và tiến bộ không những không mâu thuẫn với tính nhân loại mà ngược lại còn làm sâu sắc những giá trị toàn nhân loại.

Nắm vững và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về văn học nghệ thuật, Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng đã đề ra đường lối văn nghệ hết sức đúng đắn. Nhờ có đường lối đúng đắn đó, nền văn nghệ nước ta đã có những đóng góp xứng đáng vào cách mạng giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta cũng đánh giá cao vai trò của văn nghệ nhưng đồng thời cũng đòi hỏi ở văn nghệ và nghệ sĩ một trách nhiệm nặng nề đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.

Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã chỉ rõ: “Văn học, nghệ thuật là một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa gắn bó với đời sống nhân dân và sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Khuyến khích tự do sáng tác văn học, nghệ thuật vì sự hoàn thiện con người, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cao đẹp, đề cao tinh thần tự hoà dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, phấn đấu làm cho dân giàu, nước mạnh, phê phán những thói hư tật xấu, cái độc ác, thấp hèn,”

Ý thức khoa học

Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội vừa là một hiện tượng xã hội đặc biệt, xem xét nó như một hình thái ý thức xã hội không được tách rời xem xét nó như là một hiện tượng xã hội.

Ý thức khoa học (với tư cách là một hình thái ý thức xã hội) là hệ thống tri thức phản ánh chân thực dưới dạng logic trìu tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Ý thức khoa học mang đặc điểm chung của các hình thái ý thức xã hội: đều là sản phẩm của tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội qui định.

Tuy nhiên, hình thái ý thức khoa học cũng khác các hình thái ý thức xã hội khác ở chỗ:

+ Phạm vi phản ánh của nó rất rộng lớn, bao quát toàn bộ thế giới khách quan trong khi các hình thái ý thức xã hội khác chỉ phản ánh một mặt một khía cạnh nào đó của đời sống xã hội mà thôi.

+ Khoa học có thể tồn tại dưới dạng hệ thống lý luận chung nhất hoặc dưới dạng cụ thể là các tri thức chuyên ngành.

+ Những tri thức của khoa học là những tri thức chân thực phản ánh đúng đắn khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Vì vậy, khoa học đối lập với tôn giáo (tôn giáo phản ánh hiện thực hư ảo và dựa vào lòng tin về một lực lượng siêu nhiên).

+ Khoa học phản ánh hiện thực khách quan một cách trìu tượng các khái niệm, phạm trù, qui luật là ngôn ngữ chuyên môn hoá, là công cụ của tư duy khoa học.

+ Khoa học giữ vị trí quan trọng trong sự nhận thức hiện thực, là cơ sở trí tuệ cho các hình thái ý thức xã hội khác trong quá trình phản ánh hiện thực. Nhờ có tri thức khoa học, con người không ngừng vươn tới cái mới "Sáng tạo ra một thế giới mới, ngày càng vươn lên làm chủ tự nhiên, làm chủ cho xã hội và làm chủ bản thân mình”.

Kết cấu ý thức khoa học rất phức tạp, tuỳ theo góc độ xem xét mà khoa học được chia thành nhiều kết cấu khác nhau.

Xét về đối tượng, các khoa học chia thành: những khoa học tự nhiên, nghiên cứu các qui luật của tự nhiên, các phương thức chinh phục và cải tạo tự nhiên, và những khoa học xã hội nghiên cứu những hiện tượng xã hội khác nhau, các qui luật vận động phát triển của chúng và nghiên cứu chính bản thân con người như là một thực thể xã hội. Cũng có khoa học nghiên cứu những vấn đề chung, qui luật chung, đó là triết học.

Trong mỗi khoa học, người ta phân thành các cấp độ: kinh nghiệm tức là những tư liệu hiện thực đã được tích luỹ thông qua sự tổng kết các quan sát và thí nghiệm, lý luận là sự khái quát kinh nghiệm thể hiện trong lý thuyết về qui luật và nguyên lý tương ứng, cấp độ lý luận của các khoa học cụ thể hợp lực với nhau trong sự giải thích các nguyên lý và qui luật đã phát hiện trên bình diện lý luận chung bình diện triết học.

Xét về vai trò, tác dụng, tri thức khoa học bao gồm khoa học cơ bản vạch ra những qui luật chung, những phương hướng, phương pháp chung cho khoa học ứng dụng. Còn các khoa học ứng dụng vạch ra những nguyên tắc, qui tắc, phương pháp cụ thể để ứng dụng trực tiếp vào hoạt động cải biến tự nhiên và xã hội. Song, sự phân chia đó cũng chỉ là tương đối. Đặc điểm của giai đoạn phát triển hiện nay của nhận thức khoa học là các bộ môn khoa học có sự giáp ranh về đối tượng (thí dụ sinh - vật lý học) và các phương pháp luận khoa học cũng làm phong phú lẫn nhau.

Nguồn gốc sâu xa của sự hình thành khoa học là do nhu cầu phát triển sản xuất. Cùng với sự phát triển của sản xuất và thực tiễn xã hội, khoa học cũng không ngừng phát triển. Trong quá trình đó, vai trò của khoa học trong đời sống xã hội ngày càng tăng lên từ giai đoạn này sang giai đoạn khác.

Có thể chia lịch sử phát triển của khoa học thành ba giai đoạn:

* Giai đoạn thứ nhất: bắt đầu từ thời cổ đại đến thế kỷ XV.

Ở thời đại khoa học còn rất sơ khai, bó hẹp trong một số lĩnh vực như thiên văn học, toán học, cơ học nhằm đáp ứng yêu cầu về tưới nước, về hàng hải và xây dựng lâu đài, lăng tẩm. Ảnh hưởng của tri thức khoa học đối với sản xuất còn rất yếu. Sản xuất chủ yêú dựa trên kinh nghiệm do người nô lệ với công cụ thủ công. Trong thời kỳ phong kiến, những phát hiện khoa học bị coi là tội lỗi, khoa học kìm hãm, cấm đoán, trừng phạt bởi sự cấu kết của thần quyền và nhà nước phong kiến. Do đó vai trò của khoa học trong xã hội phong kiến tương đối nhỏ, nền kinh tế tự nhiên tiếp tục sử dụng công cụ thủ công trong giới hạn kỹ xảo cá nhân và kinh nghiệm của người thợ cả.

* Giai đoạn thứ hai: bắt đầu từ cuối thế kỷ XV cho đến thế kỷ XIX.

Giai đoạn này có thể chia làm hai thời kỳ: thời kỳ thứ nhất mở đầu bằng Côpecníc và kết thúc ở Niu tơn (thế kỷ XV - XVIII). Đặc điểm của thời kỳ này là khoa học đi sâu nghiên cứu từng mặt, từng lĩnh vực cụ thể của hiện thực. Các nhà khoa học đặc biệt đề cao thực nghiệm và suy lý, bác bỏ mọi giáo điều và hoài nghi tất cả những dự đoán chưa có cơ sở thực nghiệm và suy lý chắc chắn. Cơ học cổ điển đã đạt tới mức phát triển cao và giữ vai trò thống trị còn các khoa học khác đang trong quá trình hình thành. Phương pháp tư duy siêu hình thống trị trong khoa học.

Thời kỳ thứ hai, mở đầu bằng thuyết hình thành thái dương hệ của Cantơ và kết thúc với các thuyết tế bào, thuyết tiến hoá giống loài và định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng (từ nửa sau thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX). Đặc điểm của thời kỳ này là khoa học phát triển theo hướng phá vỡ quan niệm cô lập, bất biến về đối tượng nghiên cứu của các bộ môn khoa học, gạt bỏ sự sáng tạo của chúa ra khỏi khoa học, sự gắn bó chặt chẽ giữa khoa học và sản xuất.

Cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên, nhiều bộ môn khoa học xã hội đã đề cao chủ nghĩa nhân văn, với tinh thần dân chủ sâu sắc và dần dần thoát khỏi các học thuyết thần học.

* Giai đoạn thứ ba (thế kỷ XX): Đặc điểm của giai đoạn này không chỉ là sự phát triển rất nhanh chóng của khoa học mà còn là sự gia tăng của vai trò xã hội của khoa học.

Lịch sử khoa học, đặc biệt trong khoảng 30 năm gần đây, quá trình phân chia các môn khoa học về tự nhiên (lý, hoá, sinh, địa chất, thiên văn) đã trở thành một thể tổng hợp của ngành tri thức phong phú, mà mỗi ngành tri thức đó là một khoa học riêng biệt. Do đó, trong khoa học đã hình thành nên những ngành tri thức tiếp giáp và chúng có vai trò ngày càng quan trọng (sinh - hoá học, địa - vật lý, địa - hoá học, lý - hoá học). Quá trình này cũng diễn ra trong các môn khoa học xã hội.

Xuất hiện một khuynh hướng khác có quan hệ với khuynh hướng trên là nhất thể hoá tri thức khoa học tạo thành một lực lượng trí tuệ thống nhất để nhận thức và cải tạo hiện thực. Khoa học và kỹ thuật kết hợp với nhau thành một thể thống nhất để đi sâu nghiên cứu cấu trúc vật chất như cấu trúc nguyên tử, các hạt cơ bản, cấu trúc không gian và xâm nhập với qui mô ngày càng lớn vào vũ trụ.

Hiện nay, khoa học cho phép hoàn thiện các phương pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản lý kinh tế. Không những thế, khoa học còn trở thành một ngành hoạt động sản xuất với qui mô ngày càng lớn, bao hàm hàng loạt các viện, phòng thí nghiệm, trạm, trại, xí nghiệp, với số cán bộ khoa học ngày càng tăng, với đầu tư ngày càng lớn, hiệu quả đầu tư ngày càng cao. Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Với việc áp dụng những công trình nghiên cứu khoa học xã hội vào thực tiễn giữ một vai trò quan trọng không kém, những công trình nghiên cứu kinh tế, xã hội… giúp cho việc sử dụng nhân lực, vật lực một cách hợp lý nhất trong sự phát triển sản xuất và hoàn thiện tổ chức lao động. Khoa học xã hội cũng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong số các môn khoa học xã hội, triết học Mác Lênin giữ vai trò đặc biệt quan trọng, nó trở thành cơ sở khoa học trực tiếp cho nhiều ngành khoa học, nhất là khoa học xã hội. Nó vũ trang cho con người thế giới quan, phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo hiện thực.

Ý thức tôn giáo

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội bao gồm lễ nghi tôn giáo, tổ chức tôn giáo và ý thức tôn giáo. Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử.

Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan một cách hư ảo, xuyên tạc.

Về bản chất tôn giáo Ăng ghen viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chỉ phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu trần thế.”

Nguồn gốc tôn giáo

Tìm nguồn gốc tôn giáo phải tìm trong tồn tại xã hội, trong quan hệ giữa người với tự nhiên và trong các quan hệ xã hội. Để thực hiện quá trình sản xuất, con người phải dùng công cụ và phương tiện do mình làm ra để tác động vào tự nhiên. Khi những công cụ và phương tiện đó còn kém phát triển thì con người tỏ ra yếu đuối, bất lực trước tự nhiên. Chính sự bất lực của con người trước sức mạnh của giới tự nhiên là một nguồn gốc nảy sinh tôn giáo.

Nguồn gốc tôn giáo còn phải tìm trong các quan hệ xã hội của con người trong điều kiện xã hội có áp bức giai cấp và tính tự phát còn là đặc trưng của sự phát triển xã hội. Những qui luật của xã hội biểu hiện như là những lực lượng mù quáng, trói buộc con người và thường xuyên quyết định đến số phận của họ. Những hiện tượng xã hội hiện thực được thần bí hoá và mang dáng vẻ của những lực lượng siêu nhiên. Đó là một trong những nguồn gốc xã hội chủ yếu của tôn giáo. Khi nêu đặc trưng nguồn gốc xã hội trong xã hội tư bản, V.I Lênin đã khẳng định: “Sự sợ hãi đã tạo ra thần linh.”

Trong xã hội có đối kháng giai cấp, yếu tố quan trọng làm nảy sinh tôn giáo là sự áp bức giai cấp, là chế độ người bóc lột người. Quần chúng bị áp bức buộc phải lao động cho kẻ khác, bị cùng khổ và cô đơn, không tìm ra lối thoát khỏi sự kìm kẹp của ách bóc lột trên trái đất đã tìm lối thoát đó ở trên trời. Vì vậy, “sự bất lực của các giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên kia, cũng giống như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép mầu.”1. Ý thức tôn giáo với tính cách là hình thái ý thức xã hội bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo.

Kết cấu

Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng, thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo.

Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. Đứng về mặt lịch sử, tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo là hai giai đoạn phát triển của ý thức tôn giáo, nhưng chúng liên hệ tác động qua lại và bổ sung cho nhau. Tâm lý tôn giáo đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một tính chất đặc trưng, một sắc thái tình cảm riêng. Hệ tư tưởng tôn giáo “thuyết minh” những hiện tượng tâm lý tôn giáo, khái quát chúng làm cho chúng biến đổi theo chiều hướng nhất định.

Vai trò

Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội có tính chất tiêu cực. Nó cũng thực hiện chức năng chủ yếu của mình là đền bù hư ảo trong một xã hội cần đến đền bù hư ảo. Điều đó làm cho tôn giáo tồn tại lâu dài và có một vị trí đặc biệt trong xã hội. Chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo nói lên khả năng của tôn giáo có thể bù đắp, bổ sung một cách hư ảo cái hiện thực mà trong đó con người bất lực trước những sức mạnh tự nhiên và những điều kiện khách quan của đời sống xã hội. Những bất lực trong cuộc sống, những mâu thuẫn trong hiện thực được giải quyết một cách hư ảo trong ý thức họ. Vì vậy, thế giới quan tôn giáo không tạo điều kiện cho quá trình nhận thức đúng đắn của con người, hạn chế hiệu quả của hoạt động thực tiễn, cải tạo tự nhiên và xã hội.

Tôn giáo được các giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ áp bức tinh thần, một phương tiện củng cố địa vị thống trị của họ.

Chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng, điều kiện tiên quyết để khắc phục tôn giáo như một hình thái ý thức xã hội có tính chất tiêu cực là phải xoá bỏ nguồn gốc xã hội của nó, nghĩa là phải tiến hành một cuộc cách mạng xã hội triệt để nhằm cải tạo của tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Bằng hoạt động tích cực cách mạng của mình, quần chúng không những cải tạo xã hội mà còn cải tạo chính bản thân mình, giải phóng ý thức của mình khỏi những quan niệm sai lầm, kể cả những ảo tưởng tôn giáo.

Trong xã hội có đối kháng giai cấp, cuộc đấu tranh của quần chúng bị bóc lột chống kẻ bóc lột giữ vai trò quyết định trong việc loại bỏ nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Vì vậy, không được coi nhẹ việc tuyên truyền giáo dục tư tưởng duy vật khoa học, đồng thời không ngừng nâng cao nhận thức mọi mặt của quần chúng.

Dựa trên những quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, Đảng và nhà nước ta luôn thi hành chính sách tôn giáo đúng đắn - chính sách tự do tính ngưỡng tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của mọi công dân. Không phân biệt về quyền lợi và nghĩa vụ giữa người có tín ngưỡng tôn giáo và người không có tín ngưỡng tôn giáo. Tuyệt đối không xâm phạm đến tình cảm tôn giáo của công dân. Đồng thời nhà nước kiên quyết xử lý theo pháp luật những kẻ âm mưu lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để chống tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết đồng bào theo hoặc không theo một tôn giáo nào trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Nghị quyết đại hội lần thứ IX của Đảng đã nêu rõ: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, chăm lo phát triển khoa học, văn hóa, nâng cao đời sống của đồng bào. Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt đẹp và văn hóa đạo đức tôn giáo, từng bước hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo. Nghiêm cấm sử dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.”

Kết luận

Xuất phát từ tồn tại xã hội, đặc biệt là từ điều kiện sinh hoạt vật chất, quan hệ vật chất, triết học Mác Lênin đi nghiên cứu những hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội: chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và quan hệ xã hội. Trong mối quan hệ đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nhưng ý thức xã hội có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội, nó có những đặc trưng riêng của sự phản ánh tồn tại xã hội, trong sự vận động và phát triển của nó. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội, mức độ tác động đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện lịch sử, mức độ thâm nhập, truyền bá của quần chúng… Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội có tính giai cấp và sự tác động của nó phụ thuộc vào ý thức xã hội của giai cấp cầm quyền.

Ý thức xã hội lại là một hiện tượng phức tạp nó bao gồm nhiều hình thái khác nhau: ý thức chính trị, pháp quyền, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo…mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội theo một qui luật, phương thức và mức độ riêng và đều tác động đến sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Nghiên cứu ý thức xã hội theo quan điểm triết học Mác Lênin có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn, nó giúp chúng ta quán triệt và thực hiện tốt quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.