Thế nào là người kể chuyện


Trên đây là mô hình một truyện kể theo các nhà nghiên cứu tự sự học

thuộc trường phái Tây Âu và Hoa Kỳ. Theo mô hình này người trần thuật là

người đóng vai trò thực sự quan trọng vì từ đó mà hình thành câu chuyện. Cốt

truyện hình thành từ chính hành động kể chuyện của anh ta. Đúng như

Todorov đã từng nói bản thân biến cố thì không thể tự kể về mình. Giữa người

kể chuyện và tác giả là một khoảng gián cách. Tác giả sáng tạo ra người kể

chuyện nhưng cả khi tác giả xưng tôi để kể thì giữa nhân vật người kể chuyện

và tác giả cũng vẫn không thể là một. Do vậy không thể đồng nhất hai khái

niệm này.

Người kể chuyện gắn với khái niệm ngôi kể và điểm nhìn. Ngôi kể có thể là

ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ hai (Trường hợp này thường

hiếm và ít gặp ở văn học Việt Nam). Điểm nhìn là sự lựa chọn cự ly trần

thuật nào đó loại trừ được sự can thiệp của tác giả vào các sự kiện được miêu

tả và cho phép văn xuôi trở nên tự nhiên hơn phù hợp hơn với cuộc sống. Đó

chính là vị trí mà người trần thuật chọn để từ đó nhìn ra và miêu tả cuộc sống.

Do đó điểm nhìn có thể đặt bên trong hoặc bên ngoài nhân vật. Từ đó đặt ra

một vấn đề là tiêu cự. Theo nhà nghiên cứu Pouillon thì nếu nhìn từ bên

trong: người kể chuyện biết bao nhiêu thì nhân vật biết bấy nhiêu, lúc này tiêu

cự bằng 0; nếu nhìn từ đằng sau thì người kể chuyện biết nhiều hơn nhân vật

luôn đóng vai trò biết tuốt yểm trợ nhân vật; nếu nhìn từ bên ngoài từ người

kể chuyện sẽ biết ít hơn nhân vật, chỉ đóng vai trò quan sát nhân vật. Trong

mối quan hệ tương tác qua lại thì người kể chuyện, ngôi kể và điểm nhìn chỉ

cần một thành tố thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của các thành tố còn lại dẫn

đến sự biến hóa trong cách kể chuyện. Tiểu thuyết truyền thống thường được

kể từ ngôi ba với điểm nhìn từ đằng sau, người kể chuyện đóng vai trò thượng

đế, biết tuốt liên tục mách nước, nhắc vở cho người đọc về nội tâm, tính cách

nhân vật. Ngược lại ở tiểu thuyết hiện đại người kể chuyện dần mất đi năng



50



lực này và không còn khả năng chi phối tới toàn bộ cốt truyện, đôi khi người

kể chuyện cũng chỉ như người nghe chuyện biết ít hơn cả nhân vật. Và vì vậy

độc giả trong tiểu thuyết hiện đại cũng mất đi một chỗ dựa là người kể chuyện

để dắt lối vào câu chuyện.

Trong Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả định nghĩa người kể

chuyện là hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ

xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác

phẩm. Một tác phẩm văn học, có thể có một người kể chuyện hoặc nhiều

người kể chuyện. Sự hiện diện của nhân vật người kể chuyện cũng đem lại

cho độc giả sự tin cậy chân thực với hiện thực được ghi nhận trong mỗi tác

phẩm.

Các sáng tác của Ma Văn Kháng chủ yếu kể chuyện theo lối truyền

thống với trình tự tuyến tính, người kể chuyện ở ngôi ba giữ vị trí quan trọng,

biết tuốt. Vậy điểm hấp dẫn trong cách kể chuyện của Ma Văn Kháng là gì?

2.1. Ngƣời kể chuyện:

2.1.1.Trần thuật khách quan

Có thể nói, người kể chuyện ngôi thứ ba chiếm vị trí quan trọng trong

tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Đây là cách kể chuyện truyền thống. Người

kể chuyện là một nhân vật toàn năng, không tham gia vào cốt truyện, đóng vai

trò như một thượng đế "biết tuốt". Hình thức kể chuyện này cho phép điểm

nhìn được di động rất linh hoạt, dưới sự "điều phối" của người kể chuyện hàm

ẩn. Kể chuyện từ ngôi thứ ba là cách kể từ bên ngoài tưởng rằng khách quan

nhưng vì lúc này tiêu cự lớn hơn 0. Do đó người kể chuyện biết nhiều hơn

người đọc, nhiều hơn nhân vật và vì thế câu chuyện phát triển theo ý đồ chủ

quan của người kể chuyện. Một số cây bút cách tân hiện nay không còn ưa

chuộng lối kể chuyện này. Vì nó đánh mất đi tính dân chủ của câu chuyện.



51



Tuy nhiên nếu khéo léo xử lý thì cách kể chuyện này vẫn có thể mang lại sức

hấp dẫn nhất định.

Người kể chuyện trong các tiểu thuyết Một mình một ngựa, Đám cưới

không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ của Ma Văn Kháng tuy vẫn là

người kể chuyện từ ngôi ba như nhiều tác phẩm khác của ông nhưng lại có sự

thay đổi đáng kể.

Bằng thái độ thân mật suồng sã, bình đẳng với nhân vật, người kể

chuyện này kéo nhân vật gần về với đời sống hơn. Vì thế, xuất hiện trong các

tiểu thuyết này hình ảnh những người có chức quyền mà bất tài, vô đạo đức.

Và cũng do người kể chuyện này đứng ngang bằng với nhân vật nhìn nhân vật

bằng cái nhìn thân mật nên những trang sách của ông cũng phơi bày hiện thực

với đầy đủ các yếu tố bi hài của nó. Thế giới hiện thực với những câu chuyện

nhốn nháo, tầm phào cùng những nhân vật chân thật, đậm chất thị dân đã đi

vào trang văn của Ma Văn Kháng thay thế cho những trang sử thi hào hùng ở

giai đoạn trước.

Người kể chuyện toàn năng còn thường xuyên sử dụng độc thoại nội

tâm, trong đó đa phần là lồng vào bình luận, đánh giá của người kể chuyện về

nhân vật. Ở đây người đọc dễ dàng nhận ra quan niệm của chính nhà văn. Đây

là những suy nghĩ của nhân vật Tự trong Đám cưới không có giấy giá thú:

Chà dám nghi ngờ những người lao động, thành phần cơ bản của xã hội ta,

những xích lô, đồ tể, mõ làng (...) thì rõ ràng giáo Tự đã tỏ ra rất kém cỏi về

lập trường quan điểm. Hay là ông tức khí vặt vì ông thấy lương bổng cả

tháng trời của ông không bằng một ngày tập thể dục đôi chân anh xích lô?

Nhưng có lẽ ông trời ăn ở không công bằng. Anh xích lô vừa có nhiều tiền

vừa được hưởng danh thơm. Ôi giáo Tự khù khờ, xã hội này là xã hội của

người lao động. Xét về mọi mặt, anh ta sáng giá hơn mấy anh tiểu tư sản

nhiều. Rường cột của xã hội này là người xuất thân nghèo khổ như Lại, như



52



Cẩm, chứ loại Tự giỏi lắm chỉ như gã chạy cờ thôi [34, tr. 288]. Qua nỗi đau

đớn, cay đắng, ngậm ngùi của nhân vật, ta có thể thấy nỗi lòng thương cảm

của nhà văn khi chứng kiến sự bất công phi lí và thân phận bạc bẽo đến thảm

thương tội nghiệp của số phận người trí thức của nhà văn.

Cách kể chuyện này đậm chất truyền thống, để dấu ấn chủ quan của tác

giả hằn nếp lên suy nghĩ trăn trở của nhân vật. Với người kể chuyện khôn

ngoan từng trải, Ma Văn Kháng luôn công khai bộc lộ chủ đề và quan niệm

về cuộc sống, con người, xã hội. Nên người kể chuyện này càng gần tác giả

bao nhiêu càng khiến cho chất triết lý cho tác phẩm trở nên đậm đặc bấy

nhiêu.

Người kể chuyện trong ba tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thường sử

dụng sự ám ảnh của số mệnh, của thế giới tâm linh như một phương thức đưa

thêm thông tin cho người đọc. Ở cả ba tiểu thuyết trên ta đều thấy không dưới

một lần các nhân vật nhắc tới tử vi, nhắc tới cách lí giải của tử vi về số phận

các nhân vật. Ví dụ như Thuật trong Đám cưới không có giấy giá thú thường

đem tử vi ra để tiên liệu về cuộc đời mình và mọi người; Toàn trong Một

mình một ngựa cũng đã đôi ba lần nhắc tới tử vi, hoặc những ám ảnh kì lạ của

tâm linh; vết lông ngỗng dẫn đường giúp Khiêm và Hoan trong Ngược dòng

nước lũ tìm thấy nhau sau bao truân truyên, trắc trở.

Có một nét đặc biệt là người kể chuyện ở ngôi ba trong tiểu thuyết của

Ma Văn Kháng khá khôn khéo khi sử dụng nhiều kiểu kể chuyện. Bên cạnh

việc kể - tả - bình luận người kể chuyện còn kết hợp các yếu tố giấc mơ, độc

thoại, hồi ức để kể chuyện. Trong Ngược dòng nước lũ, Ma Văn Kháng đã

đưa ra quan điểm của mình về vị trí của giấc mơ đối với cuộc sống như sau:

Đố ao nằm ngủ mà không mơ (ca dao). Vậy thì riêng giấc mộng đêm đã

chiếm đến một phần mười hai đời một người sáu mươi tuổi, tức là năm năm

trời. Ấy là chưa kể những giấc mơ ban ngày. Ấy là chưa kể mộng mị lúc ốm



53



đau như Khiêm lúc này. Simon Phrớt, bậc tổ sư của khoa học phân tâm học

cho rằng: giấc mơ là sản phẩm của ký ức và ước ao bị dồn nén được biểu

hiện bằng một chuỗi biểu tượng trá hình, xuyên tạc một cách ngọt ngào, chắp

vá, diễn biến giống như một vở kịch nhiều hồi. Và qua kịch trường mộng mị

này, ta có thể hiểu được lòng ham muốn, lo sợ, khát khao, tính cách ở hữu

thức của con người. [34, tr. 212]. Những giấc mơ của Khiêm, Hoan (Ngược

dòng nước lũ) giống như một tấm ảnh cho chúng ta nhìn thấu tâm trạng của

họ, những lo âu, bất an trong con người họ. Khi bị ốm trong những giấc ngủ

mê man của mình Khiêm chìm vào những giấc mơ, những giấc mơ về những

hồi ức những năm anh ở chiến trường, những giấc mơ có hình ảnh Juda phản

Chúa, tất cả những kí ức ấy đều là hình ảnh khác nhau của sự phản bội dối trá

của con người, những nỗi đau mà giờ đây Khiêm đang phải chịu. Giấc mơ của

Khiêm là một cách để bộc lộ rất tự nhiên về những kí ức trong quá khứ mà

nhân vật đã trải qua. Giấc mơ của Hoan là hình ảnh của Khiêm, là hạnh phúc

ngắn ngủi mà họ đã có với nhau. Giấc mơ về cơn bão biển dự báo cho cái chết

của ông Túy; giấc mơ về con ma cụt đầu là tâm trạng bấn loạn, lo sợ của

Hoan trước hoàn cảnh giam cầm, và cũng chính trong giấc mơ ấy nàng tìm

thấy điểm tựa đó là Khiêm và tình yêu của hai người. Đó chính là sức mạnh

để nàng vượt qua tù tội trở về tìm Khiêm. Khi kiệt sức vì phải chịu đựng

những điều xấu xa, bỉ ổi trong cuộc sống, Tự (Đám cưới không có giấy giá

thú) ngã và ngất đi. Nhân vật miên man trong sự xáo trộn của tâm trí. Mộng

đẹp về một cuộc hôn phối giữa thi nhân và người đẹp trong thực tại không

thành, nhân vật xây dựng nó trong giấc mơ. Giấc mơ phản ánh khát khao

mãnh liệt của con người. Giấc mơ là một phương tiện giúp độc giả tiếp cận

phần nào khung cảnh chiến tranh cùng với sự tha hóa của một số cán bộ cấp

cao; những đau đớn về số phận mà nhân vật trải qua trong quá khứ. Đặc biệt,

với tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú, Ma Văn Kháng còn sử dụng



54



hình thức giấc mơ lồng trong giấc mơ. Cơn mơ trong hiện tại của Tự đưa độc

giả về quá khứ, cơn ác mộng trong quá khứ là sự ám ảnh đầy chua chát của

anh về cái chết, về số phận hẩm hiu của con người dưới bàn tay của những kẻ

ngu dốt, bần tiện, ích kỉ đại diện cho chế độ: Chết thực không đáng sợ như

thế. Nếu như đó là cái chết tự nhiên - bao gồm cái chết của nhu cầu sự nghiệp

chung (...). Anh cũng làm như vậy, nhưng không tránh khỏi cảm giác chua

cay. Anh, khác với đồng đội, anh chỉ là một vật hi sinh của một trò đánh lận.

Anh chết vì bàn tay bạo chúa (...). Có ai hiểu nỗi cay đắng của riêng Anh?

[34, tr. 353-354]. Giấc mơ trong lần ngã bệnh của Quyết Định nói lên cảm

giác cô đơn vô cùng của nhân vật: Chao ôi, vậy mà nỗi sợ hãi vì cô đơn đâu

có phải là cảm ứng của ông trong chuyện chăn gối với Yên. Có lẽ đời ông là

vậy, ngoại trừ cái lúc ông một mình trên lưng ngựa đi vào các vùng thổ ti

thuyết phục họ hợp lực đánh Quốc dân đảng phản động thôi. Lúc ấy là tuổi

trẻ. Là khí thế xung thiên của cách mạng (...). Còn như bây giờ thì cô đơn là

trạng thái thường trực của ông (...). Cô đơn lắm! Một mình kiên trì một ý

tưởng (...). Cô đơn lắm! Cô đơn với cả các đồng chí cấp ủy xung quanh

mình [37, tr. 340-341].

Văn xuôi Việt Nam sau đổi mới chú trọng khám phá chiều sâu tâm

linh của con người. Nhà nghiên cứu Nguyễn Bích Thu cho rằng Đi sâu vào

cõi tâm linh vô thức của con người, khai thác con người ở bên trong con

người là biểu hiện của một nền văn học dân chủ, đa dạng và nhân bản. Sử

dụng giấc mơ không phải là điều mới mẻ đặc biệt trong nghệ thuật trần thuật.

Nó đã được khai thác rất nhiều trong văn học từ cổ chí kim. Đây là một hình

thức linh hoạt cho phép người kể chuyện di động câu chuyện, thay đổi nhịp kể

làm tăng thêm tính thú vị cho câu chuyện. Giấc mơ cũng chính là phần vô

thức của con người, nó phản ánh chân thực những khát vọng thầm kín, những

lo âu sợ hãi, những yêu thương ẩn sâu trong trái tim mỗi nhân vật. Hình thức



55



kể chuyện đan xen những giấc mơ những dòng hồi ức chính là một điểm nhấn

trong nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết Ma Văn Kháng.

Bên cạnh đó trong tác phẩm của mình, còn có nhiều lúc người kể

chuyện đan xen những bài thơ, những truyện ngắn vào truyện. Tiêu biểu là ở

tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ:

Và nàng lại khẽ khẽ đọc:

Trong tình đời em chỉ nghĩ đến anh,

Không sao lãng dù chỉ là một phút [37, tr. 457].

Chúng tôi thống kê được 11 lần tác giả xen những bài thơ vào các mạch

kể chuyện, hai truyện ngắn của Khiêm và một đoạn ghi chép trong cuốn sổ

tay của anh. Với số lượng như vậy mức độ đan xen của những thể loại này

vào trong tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ không phải là nhỏ. Nó cho thấy ý

thức chủ động của nhà văn trong cách khai thác lối kể chuyện này. Những bài

thơ trong tác phẩm một phần thể hiện chính nội dung tiểu thuyết, phần khác

nó làm nhịp kể chuyện biến đổi và linh hoạt hơn.

Trong chương XII trong Ngược dòng nước lũ, Ma Văn Kháng thể hiện

sự tìm tòi mới mẻ khi tác giả - với tư cách là người kể chuyện ở ngôi thứ nhất

- đã xưng tôi nhằm đối thoại trực tiếp với chúng ta: Tháng 1 - 1997 khi tôi

viết cuốn tiểu thuyết này, nhà thơ Pờ Sao Mìn, người dân tộc Padí, tác giả bài

thơ Cây hai nghìn lá nổi tiếng cũng xác nhận điều đó với tôi. Rằng, thế nào

thì thế, trước khi quả thuốc căng nhựa bao giờ ở vùng trời ấy cũng nổ một

trận sấm sét rung trời và mưa đổ tầm tã. Tôi nhớ đến những điềm lạ trên vòm

trời khi một nhân vật kiệt xuất ra đời. Tôi nhớ đến những chấn động khác

thường như động đất, sao chổi xuất hiện báo trước một biến động xã hội,

thường thấy trong cổ tích và những trang lịch sử cổ đại. Kinh thiên động địa

là cái sự kiện quả thuốc phiện tiết nhựa, ghê gớm thay! [35, tr. 440]. Lối kể

chuyện này có tác dụng đột ngột chuyển mạch truyện, tạo ra sự sống động cho



56



câu chuyện, thay đổi cấu trúc tuyến tính của thời gian, chuyển vùng không

gian (từ thời điểm hiện tại lúc Hoan đang bị giam giữ ở nhà tù quay về thời

điểm quá khứ khi cô kiếm lợi nhuận bằng nghề nguy hiểm: vận chuyển ma

túy). Tôi như luôn sát cánh cùng nhân vật, chứng kiến nhất cử nhất động

của nhân vật. Và nó giúp ta hiểu rằng, tất cả những hành vi trái pháp luật kia,

đối với người phụ nữ cá tính, chỉ là một trò tiêu khiển để giải tỏa cơn tự ái,

nỗi uất ức mà nàng đang phải gánh chịu trong cuộc đời. Song thực chất, câu

chuyện về Hoan ngay sau đó được kể từ điểm nhìn ngôi thứ ba, vì cái tôi của

tác giả không là nhân vật nào trong truyện. Cách thể hiện này của Ma Văn

Kháng có phần tương đồng với Nguyễn Công Hoan trong một số tác phẩm

như: Ông chủ bảo chẳng bằng lòng, Mất cái ví, Một tấm gương sáng, Ngậm

cười, Đồng hào có ma... Với lối kể chuyện này, ta thấy trong truyện kể cùng

lúc xuất hiện cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, hiệu quả nghệ thuật là tạo ra sự

linh động trong cách đưa cái tôi khách quan khác nhau trong mỗi câu

chuyện, thể hiện tìm tòi đáng quý của nhà văn trong cách kể.

Trong cách trần thuật khách quan của người kể chuyện toàn năng và tác

giả hàm ẩn, ta nhận thấy dấu hiệu thay đổi giữa các giai đoạn sáng tác của Ma

Văn Kháng đồng thời thấy trong tiểu thuyết của ông những đặc điểm tiếp thu

kế thừa của văn học truyền thống. Bên cạnh đó nhà văn cũng đã tạo nên dấu

ấn cá nhân mình trong lối kể chuyện. Đó là các thủ pháp tưởng như đơn giản

nhưng lại tạo hiệu quả bất ngờ là sử dụng giấc mơ, sử dụng thơ, các đoạn đan

xen truyện ngắn ghi chép vào tiểu thuyết. Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã

hút vào mình những thể loại khác, tạo nên sự phong phú trong cấu trúc tác

phẩm.



57



2.1.2 Trần thuật chủ quan

Tuy sử dụng chủ yếu là hình thức người kể chuyện toàn năng từ ngôi

thứ ba nhưng phảng phất trong các tác phẩm của Ma Văn Kháng là hình ảnh

của người kể chuyện chủ quan từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai.

Theo M.Jahn, Trong trần thuật ngôi thứ nhất, đại từ nhân xưng ngôi

thứ nhất chỉ cả người kể chuyện (cái tôi kể chuyện) và một nhân vật trong câu

chuyện (cái tôi trải nghiệm). Nếu người kể chuyện là một nhân vật chính của

câu chuyện thì anh/cô ta là cái tôi - vai chính, nếu anh/cô ta là nhân vật phụ

thì anh/cô ta là cái tôi - chứng nhân [28, tr. 55]. Với hình thức kể chuyện ở

ngôi thứ nhất, khoảng cách của người trần thuật với câu chuyện bị phá vỡ,

làm tăng độ tin cậy của câu chuyện được kể.

Trong Một mình môt ngựa, có một chương là những trang nhật ký của

Toàn. Ở đây Toàn xưng tôi và viết về những suy nghĩ của mình:

25.11 Máy bay Mỹ lại bắn Hà Nội. Hà Nội, nơi trái tim tôi hàng ngày

vẫn đập vì nó. Ở đó, có chùa Kim Liên, nơi gửi gắm vong hồn ba mẹ tôi. Hà Nội

là ngõ 221 phố Sinh Từ, nơi tôi sống qua tuổi thiếu niên. Và hiện thời, Phong và

hai đứa con của chúng tôi là Ngân và Thủy đang sống ở đó. Phấp phỏng lo,

buồn cả đêm chỉ chợp mắt được nửa giờ. Mới vào đông mà đã rét quá.

Ngày 27.11 Nhận được điện của Phong đánh từ Của Nam Hà Nội.

Phong đã cùng hai con theo khoa Hóa Máy của trường Bách Khoa đi sơ tán

lên Thất Khê, Lạng Sơn. Vơi nhẹ cả nỗi lo buồn... [37, tr. 210].

Suốt cả 8 trang sách là những dòng nhật ký của nhân vật với những tâm

sự được giãi bày từ ngôi thứ nhất. Ở đây hình thức nhật ký đã cho phép Ma

Văn Kháng chuyển vai trò kể chuyện từ người kể chuyển toàn năng ở ngôi ba

sang người kể chuyện ở ngôi thứ nhất với tư cách một nhân vật tham gia trực

tiếp vào cốt truyện. Dù những đoạn văn như vậy không nhiều những nó góp

phần làm phong phú hình ảnh người kể chuyện, để câu chuyện được kể từ



58



nhiều góc độ khác nhau. Và việc để Toàn tự kể ở đoạn này là hoàn toàn phù

hợp.

Trong Ngược dòng nước lũ, tác giả sử dụng ngôi kể thứ nhất ở đoạn

Khiêm ghi chép sau khi về vùng trung du trong cuốn sổ tay của mình:

Tôi gặp ông Tuệ khi ông đang trò chuyện với cây cối trong vườn nhà

ông. Vườn nhà ông là khu thực vật phong phú và kỳ lạ, nó phảng phất một đời

sống tinh thần. Nó như là một hóa thân của ông. Nếu mỗi địa phương theo

tập quan tâm lý và lề luật của tự nhiên, cứ ít lâu lại sinh ra một nhân vật có

kích tấc huyền thoại thì nhân vật đó ở tỉnh trung du này là ông. Đó là ý nghĩ

hơi huyễn hoặc nữa của tôi... [35, tr. 317].

Bốn trang liền là những ghi chép của Khiêm thể hiện cảm nhận của anh

về những con người ở vùng quê trung du anh lánh chân sau khi xảy ra những

biến cố dữ dội của đời mình. Rõ ràng tâm trạng này buộc nhân vật phải tự bộc

lộ. Vì thế khi chọn hình thức ghi chép, người kể chuyện toàn năng đã nhường

sân chơi cho người kể chuyện là Khiêm, điểm nhìn vì vậy được di động vào

bên trong nhân vật tạo nên cái nhìn sống động và chân thực.

Hình thức kể chuyện ở ngôi thứ nhất không nhiều và không chiếm vị trí

quan trọng trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, nó chỉ giống như một sự tô

điểm cho cách kể chuyện thêm hấp dẫn và đa dạng mà thôi.

Một điểm rất đặc biệt là trong sáng tác của Ma Văn Kháng có sử dụng

cả hình thức kể chuyện ở ngôi thứ hai một hình thức kể chuyện khá hiếm gặp.

Kể chuyện ở ngôi thứ hai thực chất là kể về người nghe. Đây là ngôi kể

không phổ biến do đó cũng khó nhận dạng. Bởi đó là dạng trần thuật mà vai

chính được hướng tới ở ngôi thứ hai. Đó có thể là cái tôi của người kể chuyện

nhưng được gián cách, một cái tôi được kể ra chứ không phải một cái tôi tự

kể. Hình thức kể chuyện ở ngôi thứ hai này thường có độ tin cậy hơn vì nó

được cả người kể chuyện và người được kể thừa nhận.



59



Người kể chuyện lúc này đứng ở vị trí của người kể chuyện ở ngôi thứ

nhất. Dùng điểm nhìn toàn tri để kể về người khác. Thực chất đó là sự phân

thân của người kể chuyện. Tôi đang kể về tôi nhưng thực chất lại tự tách

mình ra và kể về người khác. Người kể chuyện ở ngôi thứ hai này tự đứng

riêng và phán xét, nhận định bản thân mình và người khác bằng chất giọng

chân thực mà thân thiết. Cách kể chuyện ở ngôi thứ hai này mang đậm cái tôi

tự bạch hơn vì nó đươc bộc lộ trong cái nhìn giao thoa giữa sắc thái chủ quan

và khách quan.

Kiểu kể chuyện này được thể hiện trong Đám cưới không có giấy giá

thú qua bức thư của cậu học trò cũ gửi cho Tự. Bức thư không phải là lời hỏi

han thông thường, mà nó giống như những dòng kí ức của Tự được nhắc lại

từ người khác. Những lá thư của anh ta được kể từ ngôi thứ nhất với cách

xưng "em" và phần lớn câu chuyện trong các lá thư này là kể về người thầy

giáo này. Tức là nhắc lại cuộc đời Tự - phần mà "em" đã chứng kiến cho

chính Tự nghe. Cách kể chuyện này thực ra là hướng tới bạn đọc. Nhưng nó

chính là kiểu kể chuyện từ ngôi thứ hai khi mà câu chuyện được kể từ ngôi

thứ nhất nhưng thực chất lại là hướng về chính người nghe.

Các thầy có lẽ là những người vui nhất. Thầy mặc áo trắng quần

xanh, tóc rẽ ngôi. Bài diễn văn của thầy súc tích bóng bảy, như văn thầy nói

hàng ngày với chúng em. Nhưng hôm đó em kinh sợ phát hiện ra lại cố phủi

bỏ đi cuối cùng là nhớ mãi chính các thầy lại là những người tủi hổ nhất trên

đời [34, tr. 106].

Tuy ngay trong cách kể này ta vẫn nhận thấy hình ảnh của người kể

chuyện thứ ba chi phối đằng sau "cánh gà" nhưng ít nhiều cách kể chuyện này

làm thay đổi điểm nhìn, thay đổi ngôi kể và nhất là thay đổi trình tự câu

chuyện, cho phép người đọc hiểu thêm về quá khứ của Tự thông qua một đôi

mắt khác.



60