Trường hợp gãy xương chi hở phải kéo chi như thế nào?

Trường hợp gãy xương chi hở phải kéo chi như thế nào?

Trường hợp gãy xương chi hở phải kéo chi như thế nào?

Trường hợp gãy xương chi hở phải kéo chi như thế nào?

Trường hợp gãy xương chi hở phải kéo chi như thế nào?

Trường hợp gãy xương chi hở phải kéo chi như thế nào?

Trường hợp gãy xương chi hở phải kéo chi như thế nào?

Các loại nẹp chuyên dụng: như nẹp Thomas, nẹp Diteric, nẹp Beckel… mặc dù là những loại nẹp tốt và có nhiều ưu điểm như các loại nẹp này đều cố định vững chắc, an toàn, có thể tái sử dụng nhiều lần; nẹp Thomas và nẹp Diteric còn có khả năng kéo dãn nhẹ... Tuy nhiên, về cơ bản chưa thể mua để sử dụng rộng rãi được hoặc vì lý do kinh tế (đắt tiền), hoặc vì lý do kỹ thuật (nặng, khó sản xuất, khó linh hoạt cho các nạn nhân, các tổn thương khác nhau…).

Nẹp mới dạng orbe: Nẹp này mới ra đời, được sử dụng khá rộng rãi trong lâm sàng do nẹp tương đối gọn nhẹ, cố định dễ dàng, thuận tiện, có thể tái sử dụng nhiều lần. Mặc dù có nhiều ưu điểm, song theo các nhà lâm sàng, nẹp này phù hợp hơn khi dùng để cố định tạm thời ở tuyến bệnh viện vì các lý do sau:

+ Kích thước nẹp còn hạn chế nên cố định chưa thật vững chắc, nhất là khi cố định gãy xương lớn (ví dụ, trong cố định đùi, nẹp không cố định được khớp háng và khớp cổ chân).

+ Vì bao nẹp che kín đoạn chi nên khi nạn nhân bị tổn thương kết hợp, bao nẹp sẽ che kín các kỹ thuật sơ - cấp cứu khác gây mất an toàn (ví dụ, che kín ga rô khi phải đặt ga rô, che kín băng khi phải băng vết thương...).

Nẹp Cramer: là loại nẹp tốt, làm bằng kim loại, có thể uốn theo hình dáng chi thể nên rất thuận lợi khi cố định; mang vác, cơ động dễ, có thể tái sử dụng nhiều lần... Tuy nhiên, để sử dụng nẹp cramer, chúng ta phải chuẩn bị kỹ trước khi cố định và khi dùng cố định ở chi dưới thì chưa thật vững chắc.

Nẹp ứng dụng - truyền thống

Trường hợp gãy xương chi hở phải kéo chi như thế nào?

Nẹp ứng dụng - truyền thống: nẹp tre, nẹp gỗ.

Ưu điểm: Cố định vững chắc, nẹp dễ làm (tự làm được) do vật liệu là tre, gỗ rất sẵn có ở Việt Nam, giá rẻ; mang vác tương đối nhẹ, có thể ứng dụng linh hoạt trên thực tế chiến trường.

Nhược điểm: Nẹp còn khá cồng kềnh, nẹp dài nhất dài 1,2 mét đến 1,3 mét; kỹ thuật tương đối khó, phải sử dụng bông gạc để đệm lót ở nhiều vị trí và dùng băng cuộn để cố định nẹp vào chi bằng nhiều vòng băng, nhiều kiểu băng khác nhau nên có nhiều thao tác phải thực hiện (điều này rất bất lợi khi phải cấp cứu cho nhiều nạn nhân cùng một lúc, ví dụ trong cấp cứu thảm họa).

Chi tiết Bài viết chuyên môn Được viết: 09 Tháng 11 2009 Lượt xem: 32794

Nguyên tắc cấp cứu gãy xương chi chỉ là một trong các bước của nguyên tắc kiểm soát ban đầu các trường hợp chấn thương. Các tổn thương nhìn thấy được vùng đầu mặt và chân tay rất dễ thu hút sự tập trung trong cấp cứu, làm chậm trễ việc cấp cứu các tổn thương đang đe doạ trực tiếp đến tính mạng người bệnh như chấn thương ngực, bụng, cổ, xương chậu...

Vì vậy trong cấp cứu chấn thương luôn phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản đã có. Chúng tôi thường sử dụng nguyên tắc của JATEC trong cấp cứu chấn thương.

  • Điều trị những tổn thương đe doạ mạng sống nhất
  • Việc chẩn đoán xác định ít quan trọng hơn
  • Nhìn nhận vấn đề từ góc độ sinh lý học cơ thể
  • Thời gian là yếu tố quan trọng nhất
  • Không gây hại thêm cho bệnh nhân.

Nguyên tắc chung trong cấp cứu gãy xương:

  1. Tuân thủ các nguyên tắc chung trong cấp cứu bệnh nhân chấn thương theo các bước ưu tiên ABCDE: Khí đạo (Airway), Hô hấp (Breathing), Tuần hoàn (Circulation), Mất chức năng hệ TKTƯ (Dysfuntion of CNS), Bộc lộ cơ thể-Môi trường (Exposure, Environment).
  2. Nếu không có đa chấn thương thì ưu tiên cấp cứu gãy xương chi theo nguyên tắc 3B: Hô hấp (Breathing), Chảy máu (Bleeding), Xương (Bone).

Chảy máu (Bleeding):

Chảy máu ra ngoài rất dễ nhận thấy và thường được xử trí ngay. Tuy nhiên trong cấp cứu gãy xương chi nhiều khi không đánh giá đúng tình trạng chảy máu dẫn đến những hành động không cần thiết hoặc quá mức ví dụ như đặt garô cho các vết thương vùng bàn tay...

Chảy máu có 3 loại:

  1. Máu đùn từ vết thương lên, không chảy thành dòng, không theo nhịp đập của tim, màu đỏ, đó là máu chảy từ các mao mạch.
  2. Máu chảy thành dòng, không theo nhịp đập của tim, dòng máu thẫm màu, đó là máu chảy từ các tĩnh mạch. Hai kiểu chảy máu này chỉ cần băng ép đúng qui cách ngay trên vết thương là có thể cầm máu được.
  3. Máu chảy thành dòng, phun trào theo nhịp đập của tim, dòng máu đỏ tươi, đó là máu chảy từ động mạch.

Để cầm máu cần xác định đúng đường đi của động mạch và băng ép ngay trên đường đi động mạch.

Trường hợp gãy xương chi hở phải kéo chi như thế nào?

Garô chỉ là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp khác đã thất bại.

Xương (Bone):

Phân loại và triệu chứng gãy xương:

  1. Trong cấp cứu thường phân loại gãy xương kín và gãy xương hở. Gãy xương hở là ổ gãy thông với môi trường bên ngoài, tăng nguy cơ nhiễm khuẩn, để lại nhiều di chứng nếu không được sơ cứu và xử trí tốt.
  2. Gãy xương nhỏ thường ít ảnh hưởng đến tình trạng chung của bệnh nhân, gãy xương lớn có thể gây sốc chấn thương. Triệu chứng gãy xương nhỏ cũng ít rõ rệt như triệu chứng gãy xương lớn.
  3. Triệu chứng gãy xương rõ:
  • Biến dạng trục chi.
  • Cử động bất thường.
  • Lạo xạo xương.
  • Sờ thấy đầu xương gãy chồi ngay dưới da.
  • Gãy xương hở: chảy dịch tuỷ xương, lộ xương.

     4. Triệu chứng nghi ngờ gãy xương:

  • Giảm, mất vận động chi.
  • Đau chói khi ấn tại chỗ, giảm đau khi được bất động.
  • Sưng nề, bầm tím.

Sau khi đã xác định được chi gãy cần bất động ngay để ngăn ngừa tổn thương thêm phần mềm do đầu xương sắc gây ra, làm giảm đau và ngăn ngừa sốc, giảm nguy cơ gãy hở do đầu xương có thể chọc thủng da.

Vật liệu dùng trong bất động chi gãy:

1. Nẹp:

  • Các loại nẹp đã được chuẩn bị sẵn cho cấp cứu: nẹp gỗ các cỡ, nẹp Cramer, nẹp máng Beckel, nẹp hơi, nẹp plastic...
  • Nẹp tuỳ ứng: bất kỳ vật liệu gì sẵn có, không gây nguy hiểm thêm cho bệnh nhân.
  • Nẹp cơ thể: có thể lấy chi lành, cơ thể bệnh nhân, làm chỗ bất động tạm thời khi không có bất kỳ loại nẹp nào khác.

Trường hợp gãy xương chi hở phải kéo chi như thế nào?

2. Độn: thường dùng bông không thấm nước. Nếu không có, có thể dùng bông khác, vải, quần áo. Đệm lót độn vào đầu nẹp hoặc nơi ụ xương cọ xát vào nẹp.

3. Băng: dùng để có định nẹp, hay dùng băng cuộn. Nếu không có, có thể dùng các dải dây, dải vải xé từ quần áo...Băng tam giác hoặc các dạng tương tự có thể dùng để bất động chi gãy vào nẹp cơ thể.

4. Đai treo: dùng cho chi trên, treo qua cổ, qua vai nhằm mục đích bất động tăng cường, tạo điều kiện thuận lợi hơn khi vận chuyển bệnh nhân.

Nguyên tắc bất động chi gãy:

  1. Nhận định tìnhnh trạng nạn nhân
  2. Xác định ổ gãy
  3. Chuẩn bị bú nẹp, phải đảm bảo là nạn nhân đó được nới lỏng quần áo, lấy đồ trang sức
  4. Theo dõi tuần hoàn ngoại vi trước khi nẹp
  5. Đệm lút nẹp
  6. Đặt nẹp: - Không nắn lại xương, không ấn xương chồi
                 - Nâng đỡ nhẹ nhàng, không nắm, không băng vào ổ gãy
  7. Kiểm tra độ chặt lỏng
  8. Đặt băng treo, đai nẹp nếu cần
  9. Nâng cao chi thể
  10. Theo dõi tuần hoàn sau nẹp
  11. Sau nẹp có thể buộc hai chi dưới với nhau, buộc chi trên vào cơ thể cho thuận tiện cho việc vận chuyển bệnh nhân
  12. Bất động nẹp trong tư thế gãy ngoại trừ:
  • Chi biến dạng nặng nề không thể nẹp, khó khăn cho vận chuyển
  • Đầu xương gãy có nguy cơ chọc thủng da
  • Rối loạn tuần hoàn

Nếu vậy - Hãy kéo chi theo trục hoặc chỉnh lại trục xoay hay chỉ cần chỉnh lại cho thẳng tương đối để có thể bất động tốt hơn.

Trong trường hợp gãy xương hở cần tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc vô khuẩn trong sơ cứu:

  1. Rửa vết thương bằng nước muối sinh lý.
  2. Chỉ sát khuẩn xung quanh vết thương, không đổ thuốc sát khuẩn hay kháng sinh vào vết thương.
  3. Không thăm dò vết thương, không nắn đẩy đầu xương chồi.
  4. Băng vô khuẩn 4 lớp: một lớp gạc tẩm ướt bằng nước muối sinh lý đặt trực tiếp lên vết thương, sau đó là lớp bông thấm nước, tiếp đó là một lớp bông dày không thấm nước, ngoài cùng là 1 lớp băng ép.
  5. Bất động trong tư thế gãy.
  6. Tiêm phòng SAT, kháng sinh toàn thân, hồi sức.

Ths. Đào Xuân Thành Khoa Ngoại Bệnh viện Bạch Mai

Bộ môn Ngoại trường đại học Y Hà nội

Các biến chứng nặng nề của gãy xương tuy hiếm gặp, nhưng cũng có thể gây giảm chức năng vĩnh viễn, tàn phế, và thậm chí tử vong. Gãy xương hở dễ bị nhiễm trùng, các loại gãy xương kèm tổn thương mạch máu, thần kinh, dập nát phần mềm nhiều là những loại gãy có nguy cơ xảy ra biến chứng cao. Gãy xương kín không kèm tổn thương mạch máu, thần kinh, được nắn chỉnh sớm thì ít khi xảy ra biến chứng nặng nề.

Các biến chứng cấp tính (tổn thương liên quan) bao gồm:

  • Sự chảy máu: Chảy máu luôn đi kèm với tất cả các loại gãy xương (cũng như tổn thương mô mềm). Đặc biệt, những chảy máu trong hoặc ngoài có thể trầm trọng đến mức gây ra tình trạng sốc mất máu (ví dụ: ở vùng chậu, đùi, gãy hở).

  • Tổn thương mạch máu: Một số loại gãy hở phá vỡ thành mạch máu. Một số gãy xương kín, điển hình như gãy trên lồi cầu cánh tay di lệch ra sau có thể gây tổn thương mạch máu nuôi đủ để gây ra biểu hiện thiếu máu cục bộ chi trên, lâm sàng thể hiện vài giờ sau chấn thương.

  • Tổn thương thần kinh: Thần kinh có thể bị tổn thương do đầu xương gãy di lệch kéo căng, bị đè ép vật tày tác động trực tiếp, dập nát trong những chấn thương nghiêm trọng, hoặc cũng có thể bị đầu mảnh xương gãy xé đứt. Khi các dây thần kinh bị đụng dập (gọi là neurapraxia), làm giảm dẫn truyền thần kinh, nhưng dây thần kinh không bị đứt. Mất chức năng thần kinh tạm thời gây ra mất vận động và/hoặc cảm giác tạm thời; chức năng thần kinh hồi phục hoàn toàn trong khoảng 6-8 tuần. Khi dây thần kinh bị giập nát (gọi là đứt sợi trục thần kinh), sợi trục bị thương, nhưng bao myelin thì không. Tổn thương này nghiêm trọng hơn so với chứng đè ép phù nề. Tùy thuộc vào mức độ tổn thương, dây thần kinh có thể tái tạo trong nhiều tuần đến nhiều năm. Thông thường, dây thần kinh bị đứt (neurotmesis) trong các trường hợp gãy hở. Các dây thần kinh bị đứt không tự lành và cần phải được phẫu thuật.

  • Tắc mạch mỡ: Gãy xương dài (hay gặp như là gãy xương đùi) có thể giải phóng tổ chức mỡ (và các thành phẩn tủy xương khác), các tổ chức này có thể di chuyển vào phổi và gây tắc nghẽn mạch máu phổi gây ra biến chứng hô hấp nặng nề.

  • Hội chứng khoang Hội chứng chèn ép khoang Hội chứng khoang là hiện tượng tăng áp lưc mô mềm trong khoang kín, dẫn đến thiếu máu mô. Triệu chứng sớm nhất là đau quá mức thương tổn. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, khẳng định bằng đo áp lực... đọc thêm : Áp suất mô tăng lên trong không gian khép kín, làm gián đoạn cấp máu và giảm tưới máu mô. Những loại gãy tổn thương đè ép trực tiếp biểu hiện bằng nhiều mảnh vụn nhỏ là nguyên nhân phổ biến, làm tăng áp lực khoang khi phù nề tiến triển. Nguy cơ cao với các trường hợp gãy cả hai xương cẳng tay, vỡ mâm chày (loại gãy đầu trên xương chày phạm khớp), hoặc gãy thân xương chày (1 Tài liệu tham khảo về biến chứng Gãy xương là hiện tượng phá vỡ xương. Hầu hết các loại gãy xương cần một lực mạnh tác động lên xương bình thường. Ngoài gãy xương, còn có kèm theo các thương tổn phần mềm hệ cơ xương Trật khớp... đọc thêm

    Trường hợp gãy xương chi hở phải kéo chi như thế nào?
    ). Hội chứng khoang không được điều trị có thể dẫn tới tiêu cơ vân, tăng kali máu, và nhiễm trùng. Về lâu dài, nó có thể gây ra co cứng cơ, tê bì và liệt. Hội chứng khoang có thể gây ra mất chi (nguy cơ cắt cụt) và cả đe dọa mạng sống.

Các biến chứng muộn của gãy xương bao gồm:

  • Cứng khớp và giảm tầm vận động: Gãy xương phạm khớp gây tổn thương sụn khớp, di lệch mặt khớp sẽ tạo thành gây xơ sẹo, gây thoái hóa khớp, hạn chế vận động khớp. Cứng khớp dễ xảy ra nếu bất động khớp kéo dài. Đầu gối, khuỷu tay và vai đặc biệt dễ bị cứng khớp sau chấn thương, đặc biệt là ở người cao tuổi.

  • Không liền hoặc chậm liền: Đôi khi, gãy xương sẽ không lành (còn gọi không liền), hoặc chậm liền. Các yếu tố gây ra chủ yếu bao gồm bất động không hoàn toàn, tổn thương mạch nuôi dưỡng, và một số yếu tố cơ địa trên bệnh nhân (ví dụ như có sử dụng corticosteroid hoặc hoocmon tuyến giáp).

  • Can xấu: Can xấu là hiện tượng liền xương nhưng bị biến dạng so với giải phẫu. Nó dễ xảy ra ở những gãy xương không được nắn chỉnh và bất động tốt.

  • Hoại tử xương: Một phần của một mảnh vỡ có thể bị hoại tử, chủ yếu xảy ra khi mất hệ mạch máu nuôi dưỡng. Mọt số loại gãy kín dễ bị hoại tử (tiêu) xương như gãy xương thuyền, gãy di lệch cổ xương đùi, gãy cổ xương sên.

  • Thoái hóa khớp: Các loại gãy gây tổn thương diện chịu lực của khớp, gây vẹo trục, hoặc gây mất vững khớp sẽ dẫn đến tổn thương sụn khớp và thoái hóa khớp.