Unclos là gì UNCLOS có tầm ảnh hưởng như thế nào tới việc sử dụng đại dương trên thế giới

(PLO)- Giới quan sát đồng ý rằng sự ra đời của UNCLOS đã giúp quy chỉnh hóa cách hành xử và tranh chấp của các quốc gia trong những vấn đề liên quan tới biển, đại dương.

Ngày 29-3, ĐH Quốc Gia Singapore đã tổ chức hội thảo khoa học để bàn về 40 năm ra đời của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS). Sau Hiến chương LHQ, Công ước Luật Biển 1982 được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, được nhiều quốc gia ký kết và tham gia.

Là một văn kiện pháp lý đa phương đồ sộ, bao gồm 320 điều khoản và hơn 1.000 quy phạm pháp luật, nhiều nước đã kỳ vọng UNCLOS sẽ mở đầu cho một trật tự pháp lý quốc tế mới đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.

Không thể phủ nhận tầm quan trọng của UNCLOS

Theo GS Laurence Boisson de Chazournes thuộc ĐH Geneva (Thụy Sĩ), sau khi UNCLOS ra đời và có hiệu lực đến nay, các quốc gia ven biển đã ra các tuyên bố để khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình đối với những vùng biển được mở rộng theo quy định của Công ước. Quy chế pháp lý đối với lãnh hải đã trở thành biện pháp giải tỏa cho các yêu sách xung đột giữa các quốc gia với nhau.

Lưu thông hàng hải qua vùng lãnh hải và các dải hẹp giờ đây dựa trên các nguyên tắc pháp lý. Các quốc gia ven biển đã tận dụng các điều khoản lợi thế cho phép mở rộng vùng đặc quyền kinh tế ra tới 200 hải lý dọc theo bờ biển. Các quốc gia không có biển được quyền tiếp xúc với biển hoặc từ biển cũng được quy định một cách rõ ràng. Quyền được tiến hành các nghiên cứu khoa học biển giờ đây được dựa trên các nguyên tắc mà không thể vì lý do gì để từ chối.

Unclos là gì UNCLOS có tầm ảnh hưởng như thế nào tới việc sử dụng đại dương trên thế giới

Tàu chiến Trung Quốc tập trận ở Biển Đông hồi tháng 6-2019. Ảnh: AP 

Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương đã thành lập năm 1994, đang thực hiện chức năng tổ chức và kiểm soát các hoạt động dưới biển sâu ngoài vùng thuộc quyền tài phán quốc gia, nhằm điều hành việc khai thác và bảo tồn các nguồn tài nguyên của biển. Tòa án Luật Biển quốc tế (ILTOS) cũng đã được thành lập năm 1996 và có quyền lực để giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển phát sinh từ việc áp dụng hay hiểu biết về Công ước.

Trước nhiều tranh chấp biển xảy ra ở các khu vực trên thế giới, cộng đồng quốc tế cần phải hết sức tôn trọng và thực hiện đầy đủ UNCLOS, làm rõ yêu sách và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS thì mới sớm đạt giải pháp giải quyết thỏa đáng tranh chấp giữa các bên liên quan

GS LAURENCE BOISSON DE CHAZOURNES, ĐH Geneva (Thụy Sĩ)

 

Về cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS

Bàn về thêm về cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS, GS Carlos Esposito thuộc ĐH Madrid (Tây Ban Nha) nhấn mạnh để sử dụng thủ tục bắt buộc giải quyết tranh chấp của UNCLOS, các bên tranh chấp phải đáp ứng điều kiện trao đổi và chưa ký kết văn bản thỏa thuận nào loại trừ thủ tục giải quyết tranh chấp của UNCLOS.

Công ước cũng có quy định để bảo đảm, trừ một số ngoại lệ được quy định, thì tranh chấp có thể được đưa ra giải quyết tại cơ chế bắt buộc - Toà trọng tài thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS. Cơ chế Tòa trọng tài này của UNCLOS đã được một số nước sử dụng trên thực tế và tuy có trường hợp có sự phản đối của một bên tranh chấp, song phán quyết của tòa vẫn có giá trị chung thẩm và ràng buộc pháp lý, ngay cả trong trường hợp một bên tranh chấp không tham gia tranh tụng.

Ngoài ra, UNCLOS còn quy định về cơ chế hòa giải bắt buộc, theo đó nếu tranh chấp phát sinh sau khi Công ước có hiệu lực và hai bên không đạt được giải pháp thông qua đàm phán trong một khoảng thời gian hợp lý, một bên có thể đưa tranh chấp ra Uỷ ban hòa giải được thành lập theo Phụ lục V. Các khuyến nghị của Uỷ ban hòa giải không có giá trị ràng buộc pháp lý nhưng các bên tranh chấp có nghĩa vụ phải đàm phán trên cơ sở báo cáo và khuyến nghị của Ủy ban hòa giải, để đạt giải pháp giải quyết tranh chấp.

Nếu không đàm phán được, các bên có nghĩa vụ giải quyết thông qua cơ quan tài phán. Đơn cử, Đông Timor - sau một thời gian đàm phán với Úc không thành công - đã sử dụng Uỷ ban hoà giải nhằm tìm giải pháp cho tranh chấp về phân định biển và chia sẻ tài nguyên tồn tại đã lâu giữa nước này với Úc là thực tiễn đầu tiên áp dụng thủ tục hòa giải bắt buộc và đã thành công. Trên cơ sở báo cáo và các khuyến nghị của Uỷ ban hoà giải, hai nước Đông Timor và Úc đã đàm phán và ký Hiệp ước phân định biển tháng 3-2018, có giá trị ràng buộc đối với hai nước và giải quyết dứt điểm tranh chấp giữa hai nước này.

“Thực tiễn cũng đã cho thấy, phán quyết của các cơ quan tài phán theo quy định của UNCLOS, đặc biệt là ITLOS hoặc tòa trọng tài đã góp phần giải thích đúng đắn các quy định của UNCLOS, giúp làm rõ một số vấn đề còn chưa rõ hoặc gây tranh cãi, hoặc yêu sách và hành động trái với quy định của UNCLOS” - ông Esposito cho hay.

Hiệu quả thực thi UNCLOS, cũng giống như việc thực thi các điều ước quốc tế khác, trên thực tế không chỉ thể hiện ở quan điểm của quốc gia tại các diễn đàn khu vực và quốc tế thảo luận về biển mà phụ thuộc vào hành động của mỗi quốc gia thành viên trong việc sử dụng biển, đại dương và các tài nguyên biển, đòi hỏi thiện chí và quan tâm đúng mức của mỗi quốc gia.

Chuyên gia tiếp tục đánh giá cao phán quyết Biển Đông 2016

TS Tara Davenport thuộc ĐH Quốc gia Singapore cho biết cùng trong cuộc thảo luận về tinh thần thượng tôn pháp luật quốc tế, bà đánh giá cao phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài thường trực (PCA), cho rằng phán quyết là cơ sở pháp lý quan trọng trong giải quyết vấn đề Biển Đông và các bên liên quan cần tôn trọng luật pháp quốc tế, không có hành động làm phức tạp tình hình.

“Phán quyết của PCA là văn bản pháp lý có giá trị quốc tế cao và có vai trò quan trọng trong giải quyết tranh chấp cũng như phân định giới hạn bên ngoài của thềm lục địa ở Biển Đông. Việc phân định các giới hạn của thềm lục địa là thủ tục ràng buộc và bắt buộc trong UNCLOS” - bà Davenport chia sẻ.

Chuyên gia này cũng đề cập tới việc những nước như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Úc, New Zealand, Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam cũng đã đưa ra các tuyên bố về những diễn biến căng thẳng trên vùng biển này. Các bên đều mong muốn Biển Đông sẽ là một vùng biển an toàn, ổn định và đảm bảo tự do hàng hải.

 

Unclos là gì UNCLOS có tầm ảnh hưởng như thế nào tới việc sử dụng đại dương trên thế giới
Biển Đông: Tìm cách xử lý quốc gia phớt lờ UNCLOS

(PLO)- Nếu xét ở khu vực Biển Đông, Trung Quốc trong vai trò là một thành viên của UNCLOS nhưng vẫn chưa thể hiện đúng và đủ trách nhiệm của mình.

Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (tiếng Anh: United Nations Convention on Law of the Sea - UNCLOS), cũng gọi là Công ước Luật biển hay cũng được những người chống đối nó gọi là Hiệp ước Luật biển, là một hiệp ước quốc tế được tạo ra trong Hội nghị về luật biển Liên Hợp Quốc lần thứ 3 diễn ra từ năm 1973 cho đến 1982 với các chỉnh sửa đã được thực hiện trong Hiệp ước Thi hành năm 1994.

Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển
Ngày kí10 tháng 12 năm 1982
Nơi kíMontego Bay, Jamaica
Ngày đưa vào hiệu lực16 tháng 11 năm 1994[1]
Điều kiện60 quốc gia phê chuẩn
Bên kí157[2]
Bên tham gia168[2][3]
Người gửi lưu giữTổng Thư ký Liên Hợp Quốc
Ngôn ngữTiếng Ả Rập, Tiếng Trung, tiếng Anh, Tiếng Pháp, Tiếng Nga, và Tiếng Tây Ban Nha
Unclos là gì UNCLOS có tầm ảnh hưởng như thế nào tới việc sử dụng đại dương trên thế giới

Các vùng biển theo luật biển quốc tế.

Năm 1967, vấn đề về các tuyên bố khác nhau về lãnh hải đã được nêu ra tại Liên Hợp Quốc. Năm 1973, Hội nghị Liên Hợp Quốc lần thứ 3 về Luật biển (Third United Nations Conference on the Law of the Sea) được tổ chức tại New York. Để cố gắng giảm khả năng các nhóm quốc gia thống trị đàm phán, hội nghị dùng một quy trình đồng thuận thay cho bỏ phiếu lấy đa số. Với hơn 160 nước tham gia, hội nghị kéo dài đến năm 1982. Kết quả là một công ước có hiệu lực từ ngày 16 tháng 11 năm 1994, một năm sau khi Guyana, nước thứ 60, ký công ước.

Nội dung công ước có một loạt điều khoản. Những điều khoản quan trọng nhất quy định về việc thiết lập các giới hạn, giao thông đường biển, trạng thái biển đảo, và các chế độ quá cảnh, các vùng đặc quyền kinh tế, quyền tài phán thềm lục địa, khai khoáng lòng biển sâu, chính sách khai thác, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học, và dàn xếp các tranh chấp.

Công ước đặt ra giới hạn cho nhiều khu vực, tính từ một đường cơ sở (baseline) được định nghĩa kỹ càng. (Thông thường, một đường biển cơ sở chạy theo đường bờ biển khi thủy triều xuống, nhưng khi đường bờ biển bị thụt sâu, có đảo ven bờ, hoặc đường bờ biển rất không ổn định, có thể sử dụng các đường thẳng làm đường cơ sở). Có các khu vực dưới đây:

Nội thủy Bao phủ tất cả vùng biển và đường thủy ở bên trong đường cơ sở (phía đất liền). Tại đây, quốc gia ven biển được tự do áp đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài không có quyền đi lại tự do trong các vùng nội thủy. Lãnh hải Vùng nằm ngoài đường cơ sở có chiều ngang 12 hải lý. Tại đây, quốc gia ven biển được quyền tự do đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài được quyền "qua lại không gây hại" mà không cần xin phép nước chủ. Đánh cá, làm ô nhiễm, dùng vũ khí, và do thám không được xếp vào dạng "không gây hại". Nước chủ cũng có thể tạm thời cấm việc "qua lại không gây hại" này tại một số vùng trong lãnh hải của mình khi cần bảo vệ an ninh. Vùng nước quần đảo Công ước đưa ra định nghĩa về các quốc gia quần đảo trong phần IV, cũng như định nghĩa về việc các quốc gia này có thể vẽ đường biên giới lãnh thổ của mình như thế nào. Đường cơ sở được vẽ giữa các điểm ngoài cùng nhất của các đảo ở ngoài cùng nhất, đảm bảo rằng các điểm này phải đủ gần nhau một cách thích đáng. Mọi vùng nước bên trong đường cơ sở này sẽ là vùng nước quần đảo và được coi như là một phần của lãnh hải quốc gia đó. Vùng tiếp giáp lãnh hải Bên ngoài giới hạn 12 hải lý của lãnh hải là một vành đai có bề rộng 12 hải lý, đó là vùng tiếp giáp lãnh hải. Tại đây, nước chủ có thể vẫn thực thi luật pháp của mình đối với các hoạt động như buôn lậu hoặc nhập cư bất hợp pháp.Vùng đặc quyền kinh tế Rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng này, quốc gia ven biển được hưởng độc quyền trong việc khai thác đối với tất cả các tài nguyên thiên nhiên. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế được đưa ra để ngừng các cuộc xung đột về quyền đánh cá, tuy rằng khai thác dầu mỏ cũng đã trở nên một vấn đề quan trọng. Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước ngoài có quyền tự do đi lại bằng đường thủy và đường không, tuân theo sự kiểm soát của quốc gia ven biển. Nước ngoài cũng có thể đặt các đường ống ngầm và cáp ngầm. Thềm lục địa Được định nghĩa là vành đai mở rộng của lãnh thổ đất cho tới mép lục địa (continental margin), hoặc 200 hải lý tính từ đường cơ sở, chọn lấy giá trị lớn hơn. Thềm lục địa của một quốc gia có thể kéo ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa, nhưng không được vượt quá 350 hải lý, không được vượt ra ngoài đường đẳng sâu 2500m một khoảng cách quá 100 hải lý. Tại đây, nước chủ có độc quyền khai thác khoáng sản và các nguyên liệu không phải sinh vật sống.

Bên cạnh các điều khoản định nghĩa các ranh giới trên biển, công ước còn thiết lập các nghĩa vụ tổng quát cho việc bảo vệ môi trường biển và bảo vệ quyền tự do nghiên cứu khoa học trên biển. Công ước cũng tạo ra một cơ chế pháp lý mới cho việc kiểm soát khai thác tài nguyên khoáng sản tại các lòng biển sâu nằm ngoài thẩm quyền quốc gia, được thực hiện qua Ủy ban đáy biển quốc tế (International Seabed Authority).

Các nước không có biển được quyền có đường ra biển mà không bị đánh thuế giao thông bởi các nước trên tuyến đường nối với biển đó.

Ký và phê chuẩnSửa đổi

đã phê chuẩn

đã ký nhưng chưa phê chuẩn

chưa kí

Bắt đầu ký:10 tháng 12 năm 1982.

Đi vào hiệu lực: 16 tháng 11 năm 1994.[4]

Các nước đã ký nhưng chưa phê chuẩn - (14) Afghanistan, Bhutan, Burundi, Campuchia, Cộng hòa Trung Phi, Colombia, El Salvador, Ethiopia, Iran, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Libya, Liechtenstein, Rwanda, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.

Các nước chưa ký - (15) Andorra, Eritrea, Hoa Kỳ, Israel, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Nam Sudan, Peru, San Marino, Syria, Tajikistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmenistan, Uzbekistan, Venezuela.

Thông tin thêmSửa đổi

Ngày 20 tháng 9 năm 2007, một tòa án trọng tài thành lập dưới Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển đã ra phán quyết về một tranh chấp biên giới trên biển từ lâu giữa Guyana và Suriname[13]. Ngày 12 tháng 7 năm 2016, Tòa án Trọng tài Quốc tế (ICA) ở La Hay (Hà Lan) ra phán quyết bác bỏ tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc do vi phạm các điều khoản của công ước này trong phiên tòa khởi kiện bởi Philippines.

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ “The United Nations Convention on the Law of the Sea (A historical perspective)”. United Nations Division for Ocean Affairs and the Law of the Sea. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2009.
  2. ^ a b “United Nations Convention on the Law of the Sea”. United Nations Treaty Series. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2013.
  3. ^ “Chronological lists of ratifications of, accessions and successions to the Convention and the related Agreements”. United Nations Division for Ocean Affairs and the Law of the Sea. ngày 8 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2010.
  4. ^ a b Chronological lists of ratifications of, accessions and successions to the Convention and the related Agreements as at ngày 3 tháng 10 năm 2014. Retrieved 22/05/2015.
  5. ^ Akashi, Kinji (ngày 2 tháng 10 năm 1998). Cornelius Van Bynkershoek: His Role in the History of International Law. Martinus Nijhoff Publishers. tr.150. ISBN978-9041105998. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2016.
  6. ^ “The Freedom of the Seas (Latin and English version, Magoffin trans.) – Online Library of Liberty”. oll.libertyfund.org. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2017.
  7. ^ “Chapter 1: International Law, Adoption of the Law of the Sea Convention – Law of the Sea”. Law of the Sea: A Policy Primer. The Fletcher School of Law and Diplomacy at Tufts University.
  8. ^ Marley, David, 1950- (2011). Modern piracy: a reference handbook. Santa Barbara, Calif.: ABC-CLIO. ISBN978-1-59884-434-4. OCLC699488885.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  9. ^ a b “Three Mile Limit”. Bản gốc lưu trữ |url lưu trữ= cần |ngày lưu trữ= (trợ giúp). Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2020.
  10. ^ Table of claims to maritime jurisdiction
  11. ^ “Table of claims to maritime jurisdiction” (PDF). United Nations Division for Ocean Affairs and the Law of the Sea. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2009.
  12. ^ “transit regions of the world”.
  13. ^ http://www.pca-cpa.org/showpage.asp?pag_id=1147 Lưu trữ 2013-02-08 tại Wayback Machine Guyana/Suriname (official site of the Permanent Court of Arbitration)

Xem thêmSửa đổi

  • List of parties to the United Nations Convention on the Law of the Sea

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • Toàn văn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển
    • Tiếng Việt Lưu trữ 2013-05-06 tại Wayback Machine
    • Tiếng Anh
    • Tiếng Pháp
  • Trang chính về Công ước
  • Hội nghị các bên tham gia công ước LHQ về luật biển Lưu trữ 2008-01-10 tại Wayback Machine
  • Các vùng biển của quốc gia theo Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 Lưu trữ 2014-05-29 tại Wayback Machine, qdnd, 10.05.2014
  • TẠI SAO NƯỚC MỸ CHƯA THAM GIA UNCLOS 1982? (kỳ 1)
  • TẠI SAO NƯỚC MỸ CHƯA THAM GIA UNCLOS 1982? (kỳ 2)