Cung trăng được “hình thành” bởi vũ khúc “Nghê Thường” của cặp thần tiên Hậu Nghệ – Thường Nga, cũng là Chử Đồng Tử và Tiên Dung trong truyền thuyết Việt ở đầm Nhất Dạ đã một đêm bay lên trời hóa thành bất tử. Từ xa xưa Trung Thu đã trở thành một lễ hội truyền thống của dân tộc Việt. Lễ hội này được tiếp nối qua nhiều thế hệ và cho đến nay vẫn vẹn nguyên sự háo hức, niềm ước vọng về những điều viên mãn, tròn đầy như ánh trăng ngày rằm tháng 8. Đối với Người Việt nói đến mặt trăng là nói đến chú Cuội, chị Hằng, cây Đa, Thỏ ngọc và Cóc vàng. Những hình tượng của cung trăng này mang ý nghĩa gì trong văn hóa Việt? 1. Theo quan niệm phương Đông trong vòng tuần hoàn của Tứ tượng thì phía Đông là ban ngày, mùa Xuân, thần chủ là mặt Trời. Ngược lại rằm tháng 8 là giữa Thu, thuộc phía Tây, ban đêm, do mặt Trăng làm thần chủ. Chính vì thế Trung Thu trở thành ngày Tết của chị Hằng – thần mặt Trăng. Về chị Hằng, thần thoại Trung Hoa kể, Hậu Nghệ có vợ là Hằng Nga, là những vị thần bất tử sống trên thượng giới. Lúc đó, mười người con trai của Ngọc Hoàng biến thành mười mặt trời, làm cho mặt đất trở nên nóng bỏng và khô cằn. Hậu Nghệ, bằng tài bắn cung của mình, đã bắn hạ chín mặt trời, chỉ để lại một mặt trời. Ngọc Hoàng bèn trừng phạt, đày Hậu Nghệ và Hằng Nga xuống hạ giới. Thấy Hằng Nga rất đau khổ vì bị mất khả năng bất tử, Hậu Nghệ quyết định lên đường đi tìm thuốc trường sinh trong một cuộc hành trình dài và đầy gian khổ, nguy hiểm để hai người có thể trở lại cuộc sống bất tử. Hậu Nghệ đã gặp được Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu cho Hậu Nghệ một viên thuốc để trở thành bất tử. Hậu Nghệ mang viên thuốc về nhà và cất nó trong một cái hộp. Khi ông đi vắng, Hằng Nga tò mò mở chiếc hộp và vô tình Hằng Nga đã nuốt viên thuốc. Ngay lập tức Hằng Nga bay lên trời, bay mãi cho đến khi đến Mặt Trăng. Thần thoại Hằng Nga – Hậu Nghệ trên đã chỉ rõ thế nào là thần bất tử trong quan niệm xưa. Khả năng bất tử là khả năng đặc biệt mà chỉ một số ít các vị thần mới có. Hậu Nghệ đã phải vượt muôn ngàn gian khổ mới đến gặp và xin được thuốc bất tử của Tây Vương Mẫu về. Khái niệm bất tử là mắt xích thú vị khi kết nối thần thoại Trung Hoa với tích cổ của người Việt. Trong tín ngưỡng dân gian thì Chử Đồng Tử được tôn là vị thần bất tử, đứng hàng thứ hai trong Tứ bất tử nước Nam. Câu chuyện về Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa được tóm tắt trong câu đối ở đền Đa Hòa (xã Bình Minh, Khoái Châu, Hưng Yên) như sau: Hiếu thuận động tới trời, bãi Chử màn che thành kỳ ngộ. Chử Đồng Tử vì hiếu thuận với cha nên đã kỳ ngộ gặp được Tiên Dung ở bãi Tự Nhiên. Sau đó nhờ thành tâm học đạo đã được tiên ông truyền cho phép màu ở núi Quỳnh Lâm. Phép màu của Chử Đồng Tử là ở cây gậy và chiếc nón thần. 2. Xem chuyện Đầm Nhất Dạ có thể nhận ra nhiều điểm tương đồng với thần thoại Hậu Nghệ – Hằng Nga về tên gọi cũng như nội dung lịch sử. Cổ sử Trung Hoa cho biết sau khi Hạ Khải mất, con là Thái Khang lên nối ngôi. Thái Khang ham chơi bời, thích săn bắn, không quan tâm việc chính sự. Hậu Nghệ vốn là vua của nước Hữu Cùng, là một chư hầu của nhà Hạ. Hậu Nghệ thường đi theo phục vụ Thái Khang. Thấy Thái Khang bỏ bê triều chính, Hậu Nghệ nảy sinh ý định giành ngôi. Một hôm Thái Khang rời kinh đô đi săn ở đất Lạc. Hậu Nghệ bí mật tập kích kinh đô nhà Hạ, chiếm được kinh thành. Sau đó mang quân ra chặn bờ sông, phong tỏa lối về của Thái Khang. Thái Khang bị buộc phải lưu lạc đến hết đời. Liên hệ giữa Chử Đồng Tử và Hậu Nghệ thấy rõ nhất là về ngôn ngữ và những yếu tố lịch sử. Có từ “chư hầu”, chỉ ra mối tương thông Chử – Hậu. Hậu Nghệ là một chư hầu đã làm gián đoạn nhà Hạ, đuổi Hạ Thái Khang lưu lạc nơi đất Lạc. Bốn mươi năm sau nhà Hạ phải tới Thiếu Khang mới lại trung hưng. Chử Đồng Tử đã lấy con gái vua Hùng mà không được phép nên vua Hùng tức giận, đem quân đến đánh vợ chồng Chử Đồng Tử – Tiên Dung, cho thấy có một cuộc đụng độ đã xảy ra vào thời này. Trong thần thoại Trung Hoa, Hậu Nghệ có công bắn mặt trời, diệt các loài quái vật nên được nhân dân tôn thờ là thần Tông Bố, tổng quản các loài ma quỷ trong thiên hạ. Còn Chử Đồng Tử tu tiên, có được phép cải tử hoàn sinh đi cứu người, chữa bệnh, được tôn là Chử Đạo Tổ. Theo phép phiên thiết, “Tông Bố” đọc lướt là “Tổ”. Như vậy cách gọi Tông Bố Hậu Nghệ trùng cả họ và tên với Chử Đạo Tổ. Lý do để Chử Đồng Tử là thần bất tử chính là ở phép cải tử hoàn sinh. Gậy và nón là hình ảnh của vuông – tròn, âm – dương. Thần tích ở Đa Hòa còn kể tại đây có vị thần Cá (thần Dí) đã vật chết voi của nhà vua, nhưng khi được yêu cầu làm voi sống lại thì không làm được, bởi “phép cải tử hoàn sinh chỉ có Tản Viên Sơn Thần và Đức thánh Chử Đồng Tử là làm được”. Điều này cho thấy không phải “thần” nào cũng có thể “cải tử hoàn sinh”. Chỉ có 2 vị thần bất tử là Tản Viên Sơn Thánh và Chử Đồng Tử là có phép thuật này. 3. Hậu Nghệ đi tìm thuốc trường sinh gặp Tây Vương Mẫu cho thuốc tiên. Hậu Nghệ nghĩa là vị Hầu ở xứ Nghệ, cũng là nơi tu hành của Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử đi vào đất Quỳnh Lâm (Nghệ An) gặp lão Phật Quang và được gậy nón, có khả năng cải tử hoàn sinh. Thần tích ở đền Đa Hòa còn kể Chử Đồng Tử lấy thêm một người vợ nữa là Tây Sa công chúa. Vị công chúa này là người có phép thuật, giúp Chử Đồng Tử chữa bệnh cho nhân dân. Ba người (Chử Đồng Tử, Tiên Dung, Tây Sa) dùng phép thuật của mình cứu dân, xây dựng lâu đài, để rồi một đêm cùng bay về trời. Câu đối ở đền Đa Hòa miêu tả lại chuyện này: Cảnh hóa đó năm nào, đây bãi Tự Nhiên, một đêm thành đầm trạch. Về mặt chữ nghĩa thì Hằng thông nghĩa với Thường nên Hằng Nga cũng là Thường Nga. Mặt khác trong Ngũ hành thì hành Hoả ở phía trên, hành Thủy ở phía dưới. 2 nhân vật Hậu Nghệ và Thường Nga làm thành một cặp đối ứng theo phép lưỡng lập. Trong đó, chữ “Nghệ” nghĩa là đỉnh cao, đối phản với “Thường”, tiếng Việt là bình thường, sàn sàn như nhau, không có gì nổi trội. Về mặt trăng nổi tiếng nhất là tích cổ kể chuyện vua Đường Huyền Tông nằm mơ rong chơi trên nguyệt cung. Ông nghe thấy tiếng nhạc và các tiên nữ múa trong y phục mang sắc màu cầu vồng được làm bằng lông chim. Tiếng hát của tiên nữ vô cùng huyền diệu, điệu bộ thanh thoát, bay bổng. Sau khi tỉnh dậy, vua đã hồi tưởng lại giấc mơ và chép lại vũ điệu, nhạc khúc. Vũ khúc đêm trăng có tên Nghê Thường vũ y khúc. Nếu để ý, sẽ thấy Nghê Thường rất gần với Nghệ – Thường. Trong đó Nghệ là Hậu Nghệ, Thường là Thường Nga. Y phục lông chim mang sắc cầu vồng tức là năm sắc của Ngũ hành. 4. Ngũ tượng Trung Thu ngoài Hậu Nghệ – Thường Nga là trục trên dưới hay Nam – Bắc, thì trục Đông Tây được lập bởi hình ảnh Thỏ Ngọc và Cây Đa. Từ khoá Cây giúp nhận ra hành Mộc của phía Đông. Cuội có thể là biến âm của “cội”, nghĩa là “gốc”, ứng với câu “Thằng Cuội ngồi gốc cây Đa”. Hoặc cũng có thể đó là biến âm từ “cối” trong từ kép “cây cối”, “cối” có thể là từ Việt cổ cũng nghĩa là “cây” mà ngày nay không còn dùng nữa. Trên gương đồng cung trăng thời Đường thường thể hiện một cái cây lớn (cây Đa hay cây Quế) với một cái u to ở giữa thân. Liệu cái u này có phải là nói đến cái “cội” hay “cối” trong tên của chú Cuội không? Cây Đa đã là hành Mộc phía Đông thì còn lại biểu tượng Thỏ Ngọc phải là tượng trưng của phía Tây. Dịch học Việt xác định phía Tây thuộc hành Thổ, nghĩa là đất đá khoáng vật nói chung (gồm cả Ngọc) và vì thế đối phản với thực vật ở phía Đông. “Thỏ” âm Hán Việt là “Thố”, chính là biến âm của “Thổ”. Phía Tây trong Ngũ hành có sắc Trắng, nên Thỏ trên cung trăng gọi là Bạch Thố. Như thế trong câu truyện dân gian về Trăng thu, Thỏ Ngọc cùng với Cây Đa đã tạo thành trục Đông Tây, hợp với trục trên dưới là Hậu Nghệ và Thường Nga, hoàn chỉnh mặt phẳng đứng trong không gian 2 chiều. Thỏ Ngọc có chiếc chày giã thuốc bất tử, tương ứng với Tây Sa công chúa, người vợ thứ hai của Chử Đồng Tử trong truyện Đầm Nhất Dạ. Còn lại vị trí trung tâm của cung trăng được biểu hiện bằng chú Cóc vàng, tên chữ là Kim thiềm (Thiềm thừ). Mặt trăng cũng được gọi là Thiềm cung. Màu Vàng là màu của Trung cung trong Ngũ hành. “Con cóc là cậu ông Trời”. Hóa ra cậu ông Trời lại “ngự” ở chính cung trăng. Trên những chiếc gương đồng thời Đường có hình cung trăng có thể hiện Cóc vàng đang giơ cả 4 chân, như chỉ về 4 hướng. Bởi vì Cóc vàng ở Trung tâm, Nghệ – Thường ở hướng Nam – Bắc, Cây – Thỏ ở hướng Đông – Tây. Tất cả xếp thành một mô hình Ngũ hành đầy đủ, toàn mĩ trên Cung trăng. Trong bài “Dạ Trạch tiên gia phú” lưu truyền ở vùng Khoái Châu, Hưng Yên, Thánh Chử đã giáng bút đề: “Tích cũ còn ghi trong sách khó tin. Gót tiên như áng mây trôi bất diệt”. Sách “Thái Bình hoàn vũ ký” chép: “Người Lạc Việt, cứ mùa thu tháng Tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý thì lấy nhau”. Câu chuyện về cặp vợ chồng Chử Đồng Tử – Tiên Dung hay Hậu Nghệ – Thường Nga còn là biểu tượng cho sự kết hợp tròn đầy của âm dương, ngũ hành, là biểu tượng cho sự đoàn tụ và những khát vọng về viên mãn thường hằng, bất tử./. MINH THI
Gió thu man mác nhớ Hằng NgaThỏ xế ác tà chuyện đã quaGậy thánh Chử Đồng hô bất tửNón thần Tiên Chúa bốc không nhàLững lờ núi Tản mây mờ phủCuồn cuộn sông Hồng sóng nước nhòaCổ tích đêm rằm vầng nguyệt sáng Rọi soi cứu thế khắp muôn nhà.
Kinh Dương Vương tên là Tản (Tuấn). Bố là Cao Hành, được phong ở đất Sùng. Ông Cao Hành là dòng dõi của Hoàng Đế Đế Minh ở phương Nam (đất Sùng hay đất Lạc).Thời Đường Nghiêu, hồng thủy bao trùm. Đế Nghi tìm người có thể trị thủy. Quần thần Tứ nhạc đều nói ông Cao Hành có thể làm được. Đế Nghi nghe lời Tứ nhạc dùng Cao Hành trị thủy. Ông Cao Hành lấy đất đá đắp bờ chặn dòng nước lũ, nên còn có tên là Cổn (cản). Qua chín năm mà lũ vẫn không dứt, chẳng nên công trạng. Thế rồi Đế Nghi lại tìm người, liền được Lộc Tục ở Lịch Sơn là Thuấn.Thuấn được cất nhắc, làm thay chính sự của thiên tử, đi tuần thú các nơi. Thấy Sùng Cổn trị thủy không có công trạng, bèn đày tới Vũ Sơn. Thiên hạ đều cho rằng Thuấn trách phạt đúng. Thuấn còn được gọi là Ma Thị Cao Sơn, cất nhắc con của ông Cao Hành là Tản, sai tiếp tục công việc của Cổn. Vua Nghi băng, Đế Thuấn hỏi Tứ nhạc: Có ai có thể phát huy và làm rạng rỡ được đức nghiệp của vua Nghi thì cho làm quan? Mọi người đều đáp: Tản Viên làm chức Tư không có thể phát huy và làm rạng rỡ công tích của vua Nghi. Đế Thuấn nói: Ồ, đúng. Rồi mệnh cho Tản Viên rằng: Ngươi dẹp yên nước lũ, thật gắng giỏi. Tản Viên chắp tay dập đầu nhường cho Tiết, Hậu Tắc và Cao Giao. Đế Thuấn nói: Ngươi đi coi việc của ngươi được rồi. Khi đó Tản Viên có oai anh võ dũng, đức cao đạo lớn, có thuật thần tiên, mới đọc ước chú làm cho đá vỡ tung tóe, hiện thành cây gậy sắt, lấy gậy đó mà chỉ vào nước thì nạn thủy tai mới hết, là người có công đầu vậy (nơi Tản Viên Sơn đục đá thông nước lũ là Long Môn Thác Bờ trên sông Hắc Thủy hay sông Đà).Tản Viên cùng với Ích và Hậu Tắc vâng mệnh vua, lệnh cho chư hầu bá quan điều động nhân lực đào đất trị thủy, vượt núi cắm mốc, xác định núi cao sông cả. Hậu Tắc có tên là Kỳ Mệnh do sinh ra chốn rừng núi, được muông thú che chở.Tản Viên thương cha Cao Hành công trạng chưa thành lại bị phạt liền lao tâm khổ tứ, ở ngoài mười ba năm, qua cửa nhà không dám vào. Áo cơm đạm bạc, hết mực kính thờ quỷ thần. Cung thất giản đơn, dốc hết chi phí cho việc trị thủy. Biết Tản Viên mắc việc lâu ngày không trở về nhà, Thủy Tinh cho quân cải trang đến báo tin vợ con ông ốm nặng, mới mất, mời ông về nhà gấp. Tản Viên điềm nhiên bảo: Tản Viên theo miền biển mà về, vào cửa biển Thần Phù, lại qua các quận, muốn tìm được đất tốt, lên núi Đông Nhạc, Yên Tử, xem cảnh trí, nhân qua ở Phạm Xá, Hoa Quật. Rồi đó ngược sông Cái mà qua đất Long Biên. Tiếp tới bến Chấn, muốn ở lại đó nhưng rồi lại ngược sông Lô lên thượng nguồn, qua huyện Phúc Lộc, tới bến Bạn Phiên, nhìn về núi xanh Tam Đảo, đất quý hội loan là đô thành cũ của Hùng Vương. Nhân đó về Mộc Châu xem ngắm phong thủy, theo thế rồng uốn lượn cho đến núi Tản Viên, thấy có 3 ngọn cao vót hơn vạn nhận, thật là đẹp thay, mờ tỏ không thể gọi tên được. Lại thêm nhiều xóm thôn dân cư trù phú tập trung, bất giác thấy lòng trong sáng, chất phác mà thích thú vô cùng. Bèn mới mở một con đường lên, lập cung ở đỉnh đó, thuộc đất của sách Thủ Pháp (nay là Thượng thần cung theo hướng Cấn – Khôn làm chỗ ngự chính, còn Hạ thần cung là nơi để cầu đảo, cung Đông Tây là nơi cáo chúc, Nam Bắc thần cung là nơi tạm trú). Núi Ba Vì là núi Đại Tông của Tản Viên. Vương lúc thì đi ra sông Tiểu Hoành xem đánh cá, qua các huyện Ma Nghĩa, Phúc Lộc, lạc tới xứ Bi Bi xã Cổ Đằng, thường tạm trú ở đó. Đến xã Tam Vật Lại thấy phong cảnh đẹp mà lập hành cung. Lại đi xem đánh cá ở sông Tiểu Hoành, qua tám xã Thuỵ Phiêu, Tam Sơn, Lễ Toàn, Nhân Lý, Văn Khê, Xuân Hương, An Phúc, Tung Cao của huyện Phúc Lộc, rồi xa giá trở về cung, xa trông cửa biển Thần Phù, sai người dân không được làm tắc đường thủy. Vương thường đi vãng du đến sông Tiểu Hoành xem đánh cá tới xã An Vệ huyện Ma Nghĩa thấy một khu Thanh Lan Bảo Sơn, có hình rồng chầu về tổ, mới lập làm cung xá để ở, lấy xã An Vệ làm tạo lệ phụng sự hương hỏa, mỗi năm mùa xuân tháng 2 dùng trâu một con, dê một con, lợn một đầu mà làm nghi lễ cúng tế.Vương thường đi săn bắn tới xã Cổ Đằng huyện Ma Nghĩa nghỉ ngơi, lập cung xá gọi là Nam cung điện, ở xứ Bi Bi lập 4 cột đá, 8 con lợn đá gồm 1 lợn mẹ và 7 lợn con để lưu làm di tích. Lấy xã Cổ Đằng làm tạo lệ phụng sự hương hỏa, mỗi năm mùa xuân tháng 2 dùng trâu một con, dê một con, lợn một đầu mà làm nghi lễ cúng tế. Vương thường đi vãng du sông Tiểu Hoành xe đánh cá đến xã Tam Sơn huyện Phúc Lộc lập làm cung xá một dãy, tạm trú ở đó, nay gọi là điện Cửu Miếu. Hàng nằm các xã Tam Sơn, Nhân Lý, Văn Khê, Xuân Hương, Lễ Toàn, An Phúc, Tung Cao lấy ngày 10 tháng 10 phụng nghênh tại điện Quán Thánh đến điện Cửu Miếu, cùng nhau thờ cúng, tới ngày 15 đánh cá để làm lễ cúng tế. Mười năm sau, Kinh Dương Vương đi tuần hướng Đông, đến Á Lữ bên bờ sông Đuống thì băng, trao thiên hạ cho ông Ích. Kinh Dương Vương hóa sinh bất diệt, đứng đầu trong Tứ bất tử và linh thần đất Việt. Nhờ có công lao trị thủy, yên định 9 châu, ông được tôn là Vua cha Nhạc phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ.Ông Ích là chính dòng của Đế Nghi, còn gọi là Đế Lai. Sau 3 năm Đế Lai nhường ngôi (ái nữ Âu Cơ) cho con của Kinh Dương Vương là Khải, lánh ra ở phía Nam Kỳ Sơn. Con của Hậu Tắc cũng vì bị Hạ Khải bỏ chức Tắc phải lánh nạn theo ông Ích.Chư hầu các nơi đều theo Khải. Khải lên ngôi thiên tử, lấy tên nước là Hoa Hạ, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân là con trai của Tản Viên Sơn Thánh. Mẹ là Thần Long Động Đình. Mẫu Thần Long sinh ra một bọc trứng, đem vứt bỏ ở bãi Nhật Chiêu bên sông Hồng. Tới đêm bọc trứng phát sáng, tiếng nổ như sấm, rồi hóa thành 7 con rồng bay lên trên sông Nhị. Đó là Long Quân và 6 người anh em của lục bộ thủy phủ, là thất giáp Đoài hồ. Long Quân lên ngôi, họ Hữu Hồ không phục, Lạc Long Quân bèn thảo phạt, đại chiếm ở đất Chàm. Sắp khai chiến, Long Quân làm bài Chàm thệ. Đoạn diệt họ Hữu Hồ. Thiên hạ đều chầu. Long Quân sau khi dẹp loạn Cửu vĩ Hồ, định đô ở An Ấp tại Yên Phụ giữa Tây Hồ và sông Nhị, lấy tên là Uy Linh Lang. Lạc Long Quân băng, hóa sinh về biển Động Đình, thành vua cha Bát Hải của Thoải phủ. Những người anh em cùng bọc của Long Quân thành Ngũ vị tôn quan, lập thành ban Công đồng trong Tứ phủ.Con của Lạc Long Quân gọi là Hùng Vương, nối ngôi phụ đạo. Vua gọi là Phụ (Bố), vợ vua gọi là Mẫu (Ma, má). Chế độ cha truyền con nối bắt đầu là từ Lạc Long Quân vậy.Giữa thời Lạc triều, Chử Đồng Tử là một chư hầu, nhân lúc vua đi săn đã chặn đường về, tiếm ngôi, chiếm đoạt vị (công chúa Tiên Dung), lập đô ở vùng Hồng Châu (Hưng Yên). Hùng Thái Khang phải sống lưu lạc ở phương Nam xưa. Tới thời Hùng Thiếu Khang, trung hưng lại vương quyền, nhưng kinh đô đã dời đến đất Quảng Đông ở Dương Thành. Con cháu Lạc triều lại xăm mình, lội nước, noi gương Tản Viên Sơn, khai phá vùng đất Mân Việt, lấy đó làm đất thờ Kinh Dương Vương.Kinh triều cha truyền con nối, truyền 18 đời đến Hùng Duệ Vương thì con cháu của Tản Viên Sơn là Nguyễn Sùng Cao Sơn và Nguyễn Hiển Quý Minh cai quản vùng đất Sùng Lạc của tổ tiên. Hậu duệ của dòng theo Đế Lai và Hậu Tắc chạy về hướng Tây là Thục bá Âu Cơ phát binh tiến đánh nước Sùng. Cao Sơn và Quý Minh ra sức chống giặc, giữ nước, nhiều lần thắng quân Thục, nhưng cuối cùng thất bại. Sùng Hầu đành phải khuyên Hùng Duệ Vương nhường lại ngôi cho Âu Cơ. Lạc triều của Kinh Dương Vương từ đây chấm dứt. Đất Lạc nhập vào với đất Âu thành nước Âu Lạc của Thục triều.Có thơ rằng: Ban sơ Nam Việt từ Kinh DươngThống nhất núi sông mười tám vươngHơn trăm họ truyền ngàn xưa đó Vạn năm hương lửa vạn năm hương. Thái sử công soạn Nguồn tham khảo: 1. Lĩnh Nam chích quái. Các truyện Truyện Họ Hồng Bàng, Truyện Hồ Tinh, Truyện Đầm Nhất Dạ 2. Sử ký Tư Mã thiên. Các phần Ngũ đế bản kỷ, Hạ bản kỷ. 3. Kinh Thư. Khổng Tử san định. 4. Tản Lĩnh sơn từ di tích của ngọc phả của Cẩm Đái (Bất Bạt, Sơn Tây), trưởng tạo lệ đền Thượng núi Ba Vì. 5. Thần tích đền An Trì của làng Yên Phụ, tổng Thượng, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông. 6. Tản Viên Đinh Phi Thánh mẫu, ngọc phả của sách Tang Ma, Thanh Thủy, Phú Thọ. 7. Sự tích núi Chẹ và núi Chẹ Đùng trong tập Dưới chân núi Tản một vùng văn hóa dân gian.
Những mẩu truyện trong Lĩnh Nam chích quái là những thông tin hết sức cô đọng về quá khứ của người Việt từ đầu thời kỳ dựng nước. Có nhiều chi tiết trong các chuyện này, đọc đi đọc lại mà không khỏi giật mình vì sự xác tín và thâm sâu của nó. Người Việt đã dùng truyền thuyết lưu lại lịch sử của mình một cách khéo léo nhưng cũng rất rõ ràng. Chỉ là chúng ta “có mắt không tròng” mới đọc mà không hiểu những nhắn gửi của tiền nhân để lại. Cổng đền Đa Hòa (Khoái Châu, Hưng Yên) thờ Chử Đồng Tử với 4 chữ Cận thủy lâu đài. Câu đối trên cổng đền Đa Hòa ở Khoái Châu về Chử Đồng Tử: 淳孝格天沙渚幔帷成異遇 至誠通聖瓊林杖笠契真傳 Thuận hiếu cách thiên, Sa Chử mạn duy thành dị ngộ Chí thành thông thánh, Quỳnh Lâm trượng lạp khế chân truyền. Dịch: Hiếu thuận động tới trời, bãi Chử màn che thành kỳ ngộ Thành chí thông tận thánh, Quỳnh Lâm gậy nón tiếp chân truyền. Một câu chuyện khác cũng về thời kỳ vươn ra biển Đông của người Việt là Truyện dưa hấu. Truyện bắt đầu như sau: Về đời Hùng Vương có viên quan tên là Mai Tiêm vốn người ngoại quốc, khi lên 7, 8 tuổi, vua mua từ thương thuyền về làm nô bộc. Kíp tới khi lớn lên diện mao đoan chính, nhớ thuộc sự vật, vua ban tên cho là Mai Yến, hiệu là An Tiêm, lại ban cho một người thiếp. Tiêm sinh hạ được một trai một gái… Mai An Tiêm như thế là một “người ngoại quốc”. “Ngoại quốc” thời Hùng Vương thì chỉ có thể là từ nước Hồ Tôn ở phía Nam. Truyện Mai An Tiêm từng được xác định cũng là sự tích thánh mẫu Thiên Y A Na của vùng miền Trung Việt. An Tiêm = Thiên Yên = Thiên Y A Na. Trong truyền tích Thiên Y A Na lấy hoàng tử Bắc Hải cũng sinh được một trai và một gái, đặt tên là Tri và Quí, rất khớp với Truyện dưa hấu kể rằng An Tiêm sinh được một trai một gái. Biểu tượng của thánh mẫu Thiên Y A Na ở Khánh Hòa là loài chim Yến hay chim Tinh Vệ, tha đá ở núi Tây mà lấp biển biển Đông. Còn Mai An Tiêm vốn có tên là Mai Yến, là tên của loài chim này (loài chim đã mang hạt dưa tới cho An Tiêm?). Mai là hướng mặt trời lên (ban mai) hay hướng Đông, được biểu trưng bằng số 8 (Bát) trong Hà thư. Có lẽ Bát Hải đã bị chép nhầm thành ra Bắc Hải, chỉ vị hoàng tử chồng của Thiên Y An Na. Truyện Đổng Thiên vương thì có đoạn kể Long Quân hiển hiện thành một cụ già tới gặp vua Hùng và nói: Ba năm nữa giặc Bắc sẽ sang, phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ binh mà giữ nước, lại phải đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phân phong tước ấp, truyền hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi có thể dẹp được giặc vậy. Lời nhắn nhủ của Long Quân rất kỳ lạ. Khi thắng được giặc thì các tướng có công sẽ được phân phong tước ấp, truyền hưởng lâu dài. Đây chính là nói tới việc bắt đầu của chế độ “phong kiến”, phân phong và kiến lập của các chư hầu nhà Chu. Thánh Dóng là vị tướng dẫn đầu quân đội của nhà Chu tiến đánh Ân Trụ Vương. Đối chiếu theo Hoa sử thì có thể Thánh Dóng tương ứng với là Khương Thái Công Lã Vọng. Phải chăng Vọng là biến âm của Dóng? Chuyện Văn Vương cầu hiền gặp được Lã Vọng cũng tương tự như việc vua Hùng cầu người tài đánh giặc Ân vậy. Sau khi thành đại nghiệp Lã Vọng được kiến phong đất ở nước Tề, gọi là Khương Thái Công. Câu nói của Long Quân trong truyện là bằng chứng về khởi điểm chế độ phong kiến, thiên tử – chư hầu của thời Hùng Vương (thời Chu) tại nước ta. Chế độ phân phong này còn được nhắc đến trong một truyện khác của Lĩnh Nam chích quái. Truyện bánh chưng bánh dày có đoạn: Vua bèn truyền ngôi cho Liêu, anh em hai mươi mốt người đều được chia giữ các nơi phiên trấn, tụ tập bộ đảng mà thành phiên quốc. Về sau các tướng tranh giành nhau thường dùng mộc sách (hàng rào bằng gỗ) để phòng ngự… Rõ ràng đây là chuyện phân phong và kiến lập các chư hầu. Lang Liêu hay Văn Lang là Chu Văn Vương, người đã tác Dịch, được truyền thuyết kể là làm ra bánh chưng bánh dày (bánh trăng bánh giời hay âm dương, tròn vuông). Nhà Chu đã phân phong cho các công thần và anh em trong dòng tộc cùng họ Cơ các vùng đất, sau thành các nước chư hầu. Các nước chư hầu tới thời Đông Chu thì nổi lên bá đạo, rồi vương đạo, tranh giành nhau qua các thời Xuân Thu Chiến Quốc, đúng như truyện kể trên. Thậm chí truyện còn dùng cả hình ảnh thực tế là cái hàng rào gỗ để ghi nhận sự tranh giành giữa các chư hầu, 21 người anh em của Lang Liêu… Núi Trâu Sơn nhìn từ hồ Phùng Dị (Ngọc Xá, Quế Võ, Bắc Ninh). Đặc biệt có một địa danh rất linh thiêng của nước Việt cổ, được nhiều truyện trong Lĩnh Nam chích quái nhắc tới, đó là núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, gần khu vực Lục Đầu giang. Đây là nơi Thánh Dóng đánh giặc Ân theo truyền thuyết. Vua Ân chết tại trận ở núi này và được lập đền miếu. Truyện Giếng Việt kể tới thời Tần Nhâm Hiêu làm quan ở Long Xuyên, có Thôi Vĩ là con của ngự sử đại phu nhà Tần (Thôi Lượng) sau khi chữa bệnh cho Nhâm Hiêu thì ngã xuống giếng tại núi Trâu Sơn. Thôi Vĩ gặp một con rắn trắng lớn, trên trán có chữ Vương Kinh Tử (dòng dõi của Kinh Vương hay Lạc Vương?). Rắn dẫn Thôi Vĩ gặp Ân hậu… Khi trở về có Dương quan đưa đường. Dương quan sau đó hóa thành con dê đá ở sau chùa Triệu Việt Vương. – Chùa Triệu Việt Vương và con dê đá hóa hình của Dương quan. Chùa Hữu Bằng (Ngọc Xá, Quế Võ, Bắc Ninh) ở chân núi Trâu Sơn. Theo các tư liệu địa chí của Bắc Ninh thời Nguyễn thì những di tích này từng tồn tại ở đây. Núi Trâu Sơn ở Bắc Ninh nay là khu vực huyện Quế Võ với các cái tên xã rất “cổ tích” của miền Giếng Việt: Châu Cầu (Châu = Trâu, có chùa Cô Tiên – nơi Thôi Vĩ gặp tiên nữ Ma Cô?), đầm Thất Gian (nơi Thánh Dóng nhổ tre đánh giặc), Ngọc Xá (liên quan đến viên ngọc Long Tụy?), hồ Phùng Dị (nơi Thôi Vĩ gặp sự lạ, rơi xuống giếng?). Trâu Sơn như vậy là nơi giao thời của các triều đại: từ Thương sang Chu, Chu sang Tần, Tần sang Triệu. Một câu đối ở chùa Hữu Bằng tại chân núi Trâu Sơn: 有憑灵寺傳自古 樓臺經始永千秋 Hữu Bằng linh tự truyền tự cổ Lâu đài kinh thủy vĩnh thiên thu. Quanh núi Trâu Sơn như thế là một khu vực rất đáng được tìm hiểu cặn kẽ cả về mặt sự tích dân gian cũng như khả năng phát hiện những di chỉ khảo cổ của thời kỳ trước Công nguyên.
NGUYỄN MINH TƯỜNG, TRƯƠNG ĐỨC QUẢ. TẠP CHÍ HÁN NÔM SỐ 6(73) NĂM 2005 1. Lời giới thiệu 2. Nguyên vãn chữ Hán 奉 鐫 拜 進. Phiên âm 3. Dịch nghĩa: 4. Mấy nhận xét Bài Dạ Trạch Tiên gia phú được ra đời trong hoàn cảnh Cầu tiên do các vị Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Tấn Cảnh, Lê Chuyên… tổ chức. Loại trừ việc coi bài phú này của Chử Đồng Tử là điều khó có thể tin được, thì giá trị văn học của Dạ Trạch Tiên gia phú là điều dễ nhận thấy. Về hình thức cũng như nội dung, Dạ Trạch Tiên gia phú có vẻ tài hoa, thanh thoát tương tự như bài Thanh Tâm Tài Nhân phú được sáng tác trong Tao đàn Hưng Yên cũng vào nãm 1905 của Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh. Do vậy, chúng tôi cho rằng việc công bố rộng rãi bài Dạ Trạch Tiên gia phú này, để bạn đọc tham khảo và thưởng thức là điều hết sức cần thiết và bổ ích. N.M.T – T.Đ.Q CHÚ THÍCH (10) Bạch Xã: địa danh thuộc huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam của Trung Quốc. Theo sách Tấn thư – Ðổng Kinh truyện, thì Bạch Xã là nơi mà Ðổng Kinh đã từng trú ngụ. Theo sách Thủy kinh chú thì Bạch Xã là tên làng cũ ở phía Bắc của sông Dương Cừ chảy qua tỉnh Hà Nam. (Từ nguyên-Bộ Ngọ, tr.57). (11) Nguyên chú: ta có phép thần có thể biến thành rồng rắn giáng thế. (12) Xích Tùng – Cựu Lã: tức Xích Tùng Tử và Lã Động Tân là hai vị tiên trong số Bát tiên của Đạo giáo thần tiên Trung Quốc.(13) Thần Nông: một trong Ngũ Đế trong thời Cổ sử Trung Quốc (Phục Hy – Thần Nông – Hoàng đế – Đế Nghiêu – Ðế Thuấn). Tương truyền, Thần Nông đã có công dạy dân biết trồng trọt, phân biệt ngũ cốc và chữa bệnh. (14) Thương Hiệt: người đời cổ của Trung Quốc, được coi là có công sáng tạo ra chữ Hán. (15) Bàn Cổ: một nhân vật thần thoại Trung Hoa. (16) Chử giang: dòng sông Hồng chảy qua bãi Chử Xá, nơi Chử Đồng Tử sinh ra và kiếm sống rồi gặp Tiên Dung công chúa. (17) Nguyên chú: Ta ngồi hóa giờ Dậu (7-8 giờ tối), ngày 20-9 nãm Giáp Tuất đời Hùng Vương thứ 20. Ta sống tại cõi trần 30 năm, lại trở về cõi tiên, vì thế cổ nhân bảo ta có thuốc trường sinh.(18) Lại Công Trúc: truyện Khấu Chuẩn trong Tống sử chép: Khấu Chuẩn bị biếm đến Lôi Châu, chết ở đó. Người nhà đem ông về táng ở Tây Kinh. Ðường đi qua huyện Công An, phía Nam Kinh Châu, nhân dân thương ông đều đặt bàn thờ, khóc lóc tế ông bên đường. Họ còn bẻ trúc trồng hai bên đường… Sau này trúc khô đi nhưng sinh ra măng. Do đó ở Kinh Châu có loại trúc Lại Công. (Từ nguyên – bộ Thân, tr.27). (19) Phan Lệnh đào: chưa rõ ở điển nào.(20) Thiệu Bá: tên thật là Thiệu Công Thích, con thứ của Chu Vãn Vương. Ông cùng với Chu Công Ðán là hai bề tôi có công lao cai trị đất nước thời Chu Võ Vương và Chu Thành Vương. Thiệu Công Thích vốn họ Cõ, nhưng vì được chia thái ấp ở đất Thiệu, nên xưng là Thiệu Bá. Thiệu Bá xử kiện công minh cho dân, người sau trồng cây cam đường để ghi nhớ! Kinh Thi có câu: Tế phế cam đường (Rườm rà cây cam đường). (21) Dương Công: chưa rõ tác giả sử dụng điển nào. (22) Nguyên chú: sử nước ngoài có nói chuyện gậy trúc, nón gồi, có lý nào như vậy! Thế mà con Hoàng đế giáng vân. Đến việc vây màn bên sông, đều do bọn dốt nát bịa ra, không thể tin cậy được! Muốn hiểu thấu phải tự mình lý giải mà thôi! (23) Nguyên chú: nói là phi linh, tức giáng linh, đây dùng lời của bậc đại nhân.(24) Nguyên chú: chỗ này cũng nên xem xét cho rõ ràng./.
Hiện nay khái niệm Tứ bất tử trong văn hóa dân gian được quan niệm là tên gọi chung của bốn vị thánh là Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh Công chúa. Mỗi vị thánh tượng trưng cho sự bền vững, thịnh đạt của một lĩnh vực đời sống nên được coi là “bất tử”. Tuy nhiên, suy nghĩ kỹ thì quan niệm cho rằng dân gian đã “bất tử” hóa những ước vọng của mình vào các vị thần không hoàn toàn hợp lý. Đúng hơn, những vị thần phải có phép “bất tử” thì mới có thể gọi là thần bất tử. Một số tài liệu thay vào chỗ của Mẫu Liễu Hạnh là Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không là dẫn chứng cho điều này vì Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không là nhà sư, đạo sĩ, không biểu trưng cho lĩnh vực nào của đời sống nhân dân. Không phải dân gian đã đem mong muốn của mình gửi gắm vào các vị thần mà là hành trạng, khả năng của chính những nhân vật này đã cho phép gọi họ là “bất tử”. Bất tử là mục đích tối cao của phép tu tiên trong Đạo giáo nên các thần bất tử là những nhân vật trong quá trình phát triển Đạo thần tiên ở nước ta. Từ nhận thức như vậy có thể xem xét lại ý nghĩa các truyền tích và vị trí của các vị thần trong Tứ bất tử. [i] Tản Viên Sơn Thánh Đứng đầu Tứ bất tử là Tản Viên Sơn Thánh vì đây là vị “Đệ nhất phúc thần” nước Nam[ii]. Tản Viên Sơn Thánh cũng là nhân vật có xuất xứ lâu đời nhất trong số các vị thần bất tử được nói đến. Theo thần tích đền Và (xã Trung Hưng, Sơn Tây, Hà Nội) thì Tản Viên đã nhận được cây gậy thần đầu sinh đầu tử của Thái Bạch tử vi thiên tướng trên núi Tản. Từ đó Tản Viên xưng là Thần sư, đi cứu độ nhân gian, dùng gậy thần cứu sống được con rắn là con của Long Vương Động Đình. Khi xuống thăm Long Cung Tản Viên lại được thêm cuốn sách ước có phép nhiệm màu thay đổi trời đất… Câu đối ở đền Và tóm tắt về sự tích của thần Tản Viên như sau: 神爲之靈地爲之靈亦人崇爲之靈屹爾東宮西鎮 山得其術水得其術卽今欲得其術渺乎僊杖約書 Thần vi chi linh, địa vi chi linh, diệc nhân sùng vi chi linh, ngật nhĩ Đông cung Tây trấn Sơn đắc kỳ thuật, thủy đắc kỳ thuật, tức kim dục đắc kỳ thuật, diểu hô tiên trượng ước thư. Dịch: Thần tôn là thiêng, đất tôn là thiêng, cũng người tôn mà thành thiêng, cung Đông trấn Tây cao ngất Núi được thành thuật, sông được thành thuật, nay muốn được xem thành thuật, gậy thần sách ước diệu kỳ. “Gậy thần sách ước” của Tản Viên là phép thuật gì? Chuyện này có thể hiểu khi so sánh truyền thuyết Tản Viên với chuyện của Đại Vũ trong thần thoại Trung Hoa: … Vũ đang đứng trên bờ quan sát sức mạnh của dòng nước thì thấy một ông già mặt trắng trẻo, mình cá, nhảy lên từ dòng sông… Ông già tự xưng là Hà Bá. Vị thần này cho Vũ một phiến đá to màu xanh… Đó chính là Hà đồ.[iii] Rồi tiếp theo còn có chuyện Vũ gặp một con rắn thần ở trong hang, rắn dẫn Vũ tới gặp Phục Hy và Phục Hy trao cho Vũ một thanh Ngọc giản, có thể đo đạc được trời đất. Có thể thấy chuyện Sơn Tinh được gậy thần sách ước và chuyện Đại Vũ được Hà đồ, Ngọc giản chỉ là một. “Ông già mặt trắng” là Thái Bạch Thần Tinh ở núi Tản. Thái Bạch cũng là Thái Hạo (Hạo trong Hoa ngữ nghĩa là sáng, bạch), là tên khác của Phục Hy trong truyền thuyết. Phục Hy tương truyền có mình rắn. Phục Hy là người tìm ra Bát quái nên hoàn toàn có thể Phục Hy cũng là Thái Bạch Tử Vi thiên tướng trong truyền thuyết Tản Viên. Phục Hy là người đã chép Hà đồ từ lưng con Long Mã (tức là con rồng, rắn thần). Còn vua Vũ vẽ Lạc thư từ lưng con Thần Quy. Có thuyết khác lại cho rằng cả Hà đồ lẫn Lạc thư đều do Đại Vũ nghĩ ra. Dù thế nào thì rõ ràng phép thần của Tản Viên Sơn Thánh chính là Hà Lạc, được tiếp thụ từ tiền nhân và sáng tạo thêm trong quá trình trị thủy. Gậy thần sách ước của Tản Viên Sơn Thánh xét thực chất chính là Hà đồ Lạc thư, trong đó bao hàm đạo Âm dương (sinh tử), Trời đất (Hà – Lạc). Nhờ những kiến thức khoa học này ở thủa bình minh của dân tộc mà Tản Viên Sơn Thánh đã quy tụ được các bộ tộc ở vùng Nam Giao (2 anh em Cao Sơn, Quý Minh), trị thủy thắng lợi. Thánh Tản do vậy đã trở thành vị thần bất tử đầu tiên của người Việt. Chử Đạo Tổ Xét trong Tứ bất tử thì người càng có vị trí thứ tự cao thì khả năng phép thuật linh ứng càng cao. Quan trọng hơn là thời điểm xuất hiện của người đó càng sớm trong chiều dài lịch sử. Vị trí thứ hai trong Tứ bất tử thuộc về Chử Đồng Tử. Sự tích Chử Đồng Tử được tóm tắt trong câu đối ở đền Đa Hòa (xã Bình Minh, Khoái Châu, Hưng Yên): 淳孝格天沙渚幔帷成異遇 至誠通聖瓊林杖笠契真傳 Thuận hiếu cách thiên, Sa Chử mạn duy thành dị ngộ Chí thành thông thánh, Quỳnh Lâm trượng lạp khế chân truyền. Dịch: Hiếu thuận động tới trời, Bãi Chử màn che thành kỳ ngộ Thành chí thông tận thánh, Quỳnh Lâm gậy nón tiếp chân truyền. Chử Đồng Tử vì hiếu thuận với cha nên đã kỳ ngộ gặp được Tiên Dung công chúa ở bãi Tự Nhiên. Sau đó nhờ thành tâm học đạo đã được tiên ông truyền cho phép màu ở núi Quỳnh Lâm. Phép màu của Chử Đồng Tử là cây gậy và chiếc nón thần. Gậy và nón là hình ảnh của vuông – tròn, âm – dương. Thần tích ở Đa Hòa còn kể tại đây có vị thần Cá (thần Dí) đã vật chết voi của nhà vua, nhưng khi được yêu cầu làm voi sống lại thì không làm được, bởi “phép cải tử hoàn sinh chỉ có Tản Viên Sơn Thần và Đức thánh Chử Đồng Tử là làm được...”. Điều này cho thấy không phải “thần” nào cũng có thể “cải tử hoàn sinh”. Chỉ có 2 vị thần bất tử là Tản Viên Sơn Thánh và Chử Đồng Tử là có phép thuật này. Khi so sánh truyền thuyết Chử Đồng Tử và Tiên Dung với chuyện của các vị thần trong Đạo Giáo Trung Hoa thì thấy đây cũng là chuyện của Hậu Nghệ – Hằng Nga. Hậu Nghệ có vợ là Hằng Nga, là những vị thần bị đày xuống trần gian. Hậu Nghệ đi tìm thuốc bất tử, trải qua muôn vàn gian khó mới gặp và xin được của Tây Vương Mẫu một viên thuốc để trở thành bất tử. Khi về nhà Hằng Nga vô ý uống thuốc này nên đã bay lên mặt trăng. Câu chuyện Hằng Nga – Hậu Nghệ trên đã chỉ rõ thế nào là thần bất tử trong quan niệm xưa. Khả năng bất tử là khả năng đặc biệt mà chỉ một số ít các vị thần mới có. Hậu Nghệ – Hằng Nga là những vị thần bất tử như Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử và Tiên Dung cũng một đêm cũng bay về trời ở đầm Nhất Dạ như chuyện Hằng Nga về cung trăng. Thần tích ở đền Đa Hòa còn kể Chử Đồng Tử lấy thêm một người vợ nữa là Tây Cung công chúa. Vị công chúa này cũng có phép thuật, giúp Chử Đồng Tử chữa bệnh cho nhân dân. Tây Cung công chúa như vậy ở đây tương đồng với Tây Vương Mẫu trong chuyện Hậu Nghệ tìm thuốc bất tử. Trong lịch sử Trung Hoa thì Hậu Nghệ là người đã tiếm ngôi, làm gián đoạn nhà Hạ thời Hạ Thái Khang. Truyền thuyết về Chử Đồng Tử cũng kể về vua Hùng tức giận, đem quân đến đánh vợ chồng Chử Đồng Tử – Tiên Dung, thể hiện một cuộc đụng độ đã xảy ra. Liên hệ giữa Chử Đồng Tử và Hậu Nghệ rõ nhất là về ngôn ngữ. Có từ Chư hầu, chỉ rõ mối tương thông Chử – Hậu, là chư hầu của nhà Hạ đã tiếm ngôi (lấy con gái vua mà không được phép). Liên hệ Hậu – Chậu – Chử tương tự như trong những từ Hầu (đồng) – Chầu (đồng) – (ca) Trù đều chỉ hình thức xướng ca phục vụ nghi lễ cung đình (triều đình) xưa cả. Hậu Nghệ có công bắn mặt trời, diệt các loài quái vật nên được nhân dân tôn thờ là thần Tông Bố, tổng quản các loài ma quỷ trong thiên hạ. Chử Đồng Tử tu tiên, có được phép cải tử hoàn sinh đi cứu người, chữa bệnh rồi được tôn là Chử Đạo Tổ. Tông Bố phiên thiết cho chữ Tổ. Như vậy cách gọi Tông Bố Hậu Nghệ trùng cả họ và tên với Chử Đạo Tổ. Đổng Thiên Vương Vị trí thứ ba trong Tứ bất tử theo quan niệm hiện tại là Thánh Gióng, cậu bé làng Phù Đổng cưỡi ngựa sắt đánh thắng giặc Ân. Tuy nhiên, khi xét quan niệm về thần “bất tử” là những vị thần có phép màu nhiệm, có sinh hóa, có liên quan đến đạo thần tiên (Đạo Giáo) thì nhân vật Thánh Gióng hoàn toàn không phù hợp là thần bất tử. Thánh Gióng không có phép màu nào, dùng sức khỏe đánh giặc. Đánh thắng giặc xong là thần “hóa”, bay về trời ở núi Sóc… và không quay trở lại nữa. Như vậy sao có thể gọi là thần “bất tử”? Ở đây đã có sự nhầm lẫn do mặt chữ. Vị thần bất tử thứ ba là Đổng Thiên Vương, chứ không phải Phù Đổng Thiên Vương. Phù Đổng là từ phiên thiết của chữ Phổng hay Bổng, chỉ Thánh Gióng. Còn Đổng Thiên Vương lại là Huyền Thiên Đại Thánh. Đền thờ Huyền Thiên Đổng Thiên Vương nằm ở làng Bộ Đầu (xã Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội). Thần phả ở đền Bộ Đầu có tên “Bộ Đầu linh từ sự tích Đổng Sóc Thiên Vương Huyền Thiên Đại Thánh, Thành hoàng nhất vị“. Các sách cũ[iv] đều cho rằng đền này thờ Huyền Thiên Đại Thánh. Bản thân đền được gọi là đền Quán Thánh. Theo sự tích ở Huyền Thiên quán tại làng Ngọc Trì (xã Thạch Bàn, Gia Lâm, Hà Nội) thì Huyền Thiên nhiều lần giáng sinh, tu hành, từ đó có phép thuật trấn yêu ma các động. Còn Huyền Thiên ở đền Sái (Đông Anh) là người đã giúp Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Huyền Thiên còn là vị thần được thờ tại Trấn Vũ quán ở Hồ Tây (Hà Nội). Ở những nơi này tượng thờ Huyền Thiên đều được làm dưới hình dạng một người cao lớn, tay bắt quyết và dẫn dụ rắn rùa. Chữ Đổng như vậy thực ra là ký âm của Đùng, chỉ vị thần có thân hình to lớn. Câu đối ở Quán Thánh (Hồ Tây) kể về sự tích Huyền Thiên Trấn Vũ: 武當山石鍊何年色相俱空真身尚在 玄天觀雲遊此日仙縱偶寄靈蹟長留 Vũ Đương sơn thạch luyện hà niên, sắc tướng câu không, chân thân thượng tại Huyền Thiên quán vân du thử nhật, tiên tung ngẫu kí, linh tích trường lưu. Dịch thơ: Núi Vũ Đương năm xưa luyện đá Mặc hình nhan thân cả ở cao Mây bay Huyền quán ngày nào Dấu tiên chợt hiện, biết bao giờ mờ. Huyền Thiên không ai khác chính là Lão Tử, vì Huyền Thiên hay Huyền Nguyên là tên sắc phong của nhà Đường cho Lão Tử. Lão Tử, vị giáo chủ Đạo giáo, có khả năng giáng sinh nhiều kiếp, có phép màu trấn yểm yêu quỷ, quy xà nên Huyền Thiên Đổng Thiên Vương là một thần bất tử hoàn toàn hợp lý. Lão Tử hiện còn được thờ làm thành hoàng ở đình Thổ Hà (xã Vân Hà, Việt Yên, Bắc Giang), với công trạng giống như của Huyền Thiên tại đền Sái. Có thể thấy phép thuật của Huyền Thiên Đổng Thiên Vương hạn chế hơn so với Chử Đạo Tổ. Trong khi Chử Đồng Tử có thể cải tử hoàn sinh, tham dự vào huyền cơ thiên địa, thì phép thuật của Đổng Thiên Vương hạn chế ở khả năng chữa bệnh dịch, diệt yêu trừ quỷ, chỉ hóa sinh chứ không cải tử hoàn sinh. Vì thế Đổng Thiên Vương được xếp ở vị trí thứ ba trong Tứ bất tử, sau Chử Đạo Tổ. Bắt đầu từ vị thần bất tử thứ ba Đổng Thiên Vương ta thấy xuất hiện thông tin về đạo Phật. Lão Tử được coi trong một thân là thánh thần tiên phật. Quan niệm về luân hồi, chuyển kiếp đầu thai cũng là quan niệm của đạo Phật. Đạo giáo nói đến tu tiên, trường sinh bất lão và cải tử hoàn sinh chứ không đầu thai. Lão Tử ban đầu là một nhân vật trường sinh bất lão, luyện tiên đan (Thái Thượng Lão Quân). Sang đến hình ảnh Huyền Thiên mới thêm việc chuyển kiếp theo quan niệm đạo Phật. Liễu Hạnh Thánh Mẫu Khả năng hóa sinh nhiều lần và trong một ngôi gồm cả thánh thần tiên Phật thấy rõ hơn ở thánh mẫu Liễu Hạnh. Câu đối ở lăng mộ Liễu Hạnh tại Vụ Bản (Nam Định) nói về khả năng hóa sinh, chuyển thể của thánh: 五百餘年神故化 再三轉世聖而仙 Ngũ bách dư niên thần cố hóa Tái tam chuyển thế thánh nhi tiên. Dịch: Năm trăm năm lẻ thần hóa cũ Ba lần chuyển thế thánh là tiên. Mẫu Liễu được tôn sùng vì trong các lần chuyển hóa thể hiện là người có “hiếu, trinh, từ”: 勝蹟肇仙鄉而聖而神而佛 靈聲振越甸惟慈惟孝惟貞 Thắng tích triệu Tiên hương, nhi thánh nhi thần nhi phật Linh thanh chấn Việt điện, duy từ duy hiếu duy trinh. Dịch: Thắng tích mở Tiên Hương, là thánh là thần là phật Linh thiêng vang Việt điện, bởi lành bởi hiếu bởi trinh. Phép thuật cụ thể của Mẫu Liễu là gì thì truyền tích không đề cập đến. Có thể thấy khả năng của Mẫu Liễu hạn chế hơn nhiều so với Huyền Thiên Đổng Thiên Vương. So về năng lực và thời gian xuất hiện (thời Lê) thì Liễu Hạnh xếp thứ tư trong Tứ bất tử là đúng, cho dù Liễu Hạnh là Mẫu chủ của Địa phủ trong đạo Tứ phủ. Như vậy, Tứ bất tử là 4 nhân vật đánh dấu những mốc trong quá trình hình thành và phát triển Đạo thần tiên ở nước Nam. Thứ tự và phương vị của Tứ bất tử được sắp xếp như sau: – Đứng đầu là Tản Viên Sơn Thánh, người có gậy thần sách ước, là Hà thư Lạc đồ, những kiến thức khoa học thời sơ khai. Tản Viên là người đã tập hợp các bộ tộc Việt chiến thắng thiên tai trong thời kỳ dựng nước. Phương vị của Tản Viên là hướng Tây (Sơn Tây). Xét trong đạo Tứ phủ thì Tản Viên là thần chủ của Nhạc phủ. – Thứ hai là Chử Đạo Tổ, cũng là người nắm được thuật Âm dương, có bảo bối là gậy nón, có khả năng cải tử hoàn sinh. Truyền thuyết Chử Đồng Tử là cách kể khác của chuyện Hậu Nghệ thời nhà Hạ. Chử Đồng Tử hay Chử Đông Tử, nghĩa là Người ở bãi phía Đông, là thần nắm hướng Đông và là thần trong Thoải phủ (Thủy phủ). – Xếp thứ ba là Đổng Thiên Vương Huyền Thiên Lão Tử, là giáo chủ Đạo giáo, là thầy thuốc cứu dân độ thế, có khả năng trường sinh bất lão, có thể trừ yêu dẹp quỷ, trấn quy xà. Lão Tử là người đã giúp vua Chủ An Dương Vương xây thành Cổ Loa vào đầu thời Đông Chu. Đổng Thiên Vương là người trấn phương Bắc (Huyền phương), ứng với Thiên phủ. – Cuối cùng là thánh mẫu Liễu Hạnh, thần chủ của Địa phủ trong đạo Tứ phủ, có khả năng tái sinh nhiều lần, đắc đạo thánh thần tiên phật, nổi danh hiếu trinh từ ở thời Lê. Liễu Hạnh là người thành Nam (Nam Định), nắm giữ phương Nam.
CHÚ THÍCH: [i] Bài viết được trích lược từ sách Bước ra từ huyền thoại của tác giả.
Đạo Phật du nhập vào nước Nam từ bao giờ? Đạo Phật đã có mặt ở Việt Nam từ thời Hùng Vương là chắc chắn, nhưng Hùng Vương là thời kỳ kéo dài hơn 2000 năm trước Công nguyên. Vậy đạo Phật đến Việt Nam cụ thể vào lúc nào? Một liên hệ khác để định vị công lao khai mở phía Đông của Chử Đồng Tử là chuyện về Quảng Bác Đại Vương ở Phú Xuyên (Hà Nội). Đây là vị thần được thờ làm thành hoàng ở nhiều làng quanh khu vực Phú Xuyên (tổng Thịnh Đức), nơi thờ chính của thần là đền Ba Sa ở Phú Yên, Phú Xuyên. Sự tích thần chép Quảng Bác Uyên Dung Đại Vương là con vua Hùng thứ tám và cung phi Tiên Dung Châu, đã lập nhiều chiến công đem lại bình yên cho đất nước. Câu đối ở cổng đền Ba Sa: Thuận hiếu cách thiên, Sa Chử mạn duy thành dị ngộ Chí thành thông thánh, Quỳnh Lâm trượng lạp khế chân truyền. Dịch: Hiếu thuận động tới trời, bãi Chử màn che thành kỳ ngộ Thành chí thông tận thánh, Quỳnh Lâm gậy nón tiếp chân truyền. Chữ Sa 沙 và Chử 渚 đều nghĩa là bãi cát ven sông. Còn chữ Ba (3) trong tên Ba Sa và số Tám (Hùng triều bát đại vương) của chuyện Quảng Bác Đại Vương đều là những con số chỉ hướng Đông trong Hà Thư. Như vậy Ba Sa đồng nghĩa với Đông Chử hay Chử Đồng. Chử Đồng Tử đúng phải là Chử Đông Tử, nghĩa là vị thầy ở bãi Đông. Chử Đồng Tử được tôn là Chử Đạo Tổ, rõ ràng là một vị tổ của Đạo giáo, chứ không phải đạo Phật. Nghĩa của tên Chử Đạo Tổ và Quảng Bác Đại Vương cũng rất gần nhau. Bên cạnh đình Giẽ Hạ còn có đền thờ mẫu là bà Tiên Dung Châu, hoàn toàn trùng với tên Tiên Dung trong truyền thuyết về Chử Đồng Tử. Quay lại với một số “dấu tích” cổ của đạo Phật ở Việt Nam. Một số tác giả căn cứ vào Ngọc phả Hùng vương kể chuyện vua Hùng thứ 7 là Lang Liêu lên núi Tam Đảo gặp Tiên ở chùa Địa Ngục mà kết luận: đạo Phật có mặt ở Việt Nam từ thời Lang Liêu (?!) Có điều Lang Liêu, vị vua Hùng thứ 7, là thời kỳ nước ta vừa mới đánh giặc Ân xong. Nhà Ân Thương trước thời Phật Thích Ca ra đời có tới nửa thiên niên kỷ, làm sao thời Lang Liêu đã có đạo Phật được. Chuyện Lang Liêu lấy nàng Tiên ở núi Tam Đảo chỉ rõ đây là chuyện thần tiên của đạo Lão chứ không phải chuyện của đạo Phật. Tây Thiên quốc mẫu Lăng Thị Tiêu ở núi Tam Đảo là Tây Vương Mẫu hay Mẫu Cửu trùng (Cửu Thiên Huyền Nữ), là vị mẫu cùng Ngọc Hoàng thượng đế cai quản các vị thần tiên trên trời, hoàn toàn không phải là Phật hay Bồ Tát gì cả.Một “Phật tích” khác là tấm bia ở Hải Phòng có nói tới Tháp Xá Lợi ở miền Bắc Việt. Xá Lợi tháp là tháp nào? Tấm bia Xá lợi tháp minh mới phát hiện ở Trí Quả, Thuận Thành, Bắc Ninh năm 2012 cho biết vào năm Nhân Thọ thứ nhất Tùy Văn Đế đã cho nhập xá lợi Phật vào Giao Châu tại chùa Thiền Chúng. Thiền Chúng phản thiết là Chiền, tức là chỉ một ngôi chùa ở Giao Châu mà thôi. Cổ Châu Phật bản hạnh ở chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) cho biết rõ: Thời ấy có ông Lưu Chi Tùy Văn Đế năm 601 đã cho nhập xá lợi vào Giao Châu tại chùa Dâu. Tháp Hòa Phong ở chùa Dâu ngày nay được xây dựng lại trên nền cũ tháp Xá Lợi xưa.
Sự đan xen giữa đạo Lão và đạo Phật trong tín ngưỡng dân gian Việt như vậy gặp ở nhiều sự tích, di tích. Ngay như ngôi chùa Mui (thôn An Duyên, xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín, Hà Nội) gọi là chùa nhưng thực ra vốn là một Đạo quán (Hưng Thánh quán) thờ Thái thượng Lão quân, tức là thờ Lão Tử. Nếu không phân tách ảnh hưởng muộn của đạo Phật trong các truyền thuyết của đạo Lão thì sẽ đi đến những kết luận lệch lạc về lịch sử Phật giáo ở Việt Nam. Đối với Việt Nam Tiên có trước, Phật là sau. Tín ngưỡng chính thống và đặc sản của người Việt là Đạo giáo chứ không phải Phật giáo.
Cổ sử Trung Hoa cho biết sau khi Hạ Khải mất con là Thái Khang lên nối ngôi. Thái Khang ham chơi bời, thích săn bắn, không quan tâm việc chính sự. Hậu Nghệ thường đi theo phục vụ Thái Khang. Thấy Thái Khang bỏ bê triều chính, Hậu Nghệ nảy sinh ý định giành ngôi. Một hôm Thái Khang rời kinh đô đi săn ở đất Lạc. Hậu Nghệ bí mật tập kích kinh đô nhà Hạ, chiếm được kinh thành. Sau đó mang quân ra chặn bờ sông, phong toả lối về của Thái Khang. Thái Khang bị buộc phải lưu lạc đến hết đời. Thần thoại Trung Hoa thì kể Hậu Nghệ có vợ là Hằng Nga, là những vị thần bất tử sống trên thượng giới. Một hôm, mười người con trai của Ngọc Hoàng biến thành mười mặt trời, làm cho mặt đất trở nên nóng bỏng và khô cằn. Hậu Nghệ, bằng tài bắn cung của mình, đã bắn hạ chín mặt trời, chỉ để lại một mặt trời. Ngọc Hoàng thấy các con trai của ông đã chết bèn trừng phạt Hậu Nghệ bằng cách đày Hậu Nghệ và Hằng Nga xuống hạ giới. Thấy Hằng Nga rất đau khổ vì bị mất khả năng bất tử, Hậu Nghệ quyết định lên đường đi tìm thuốc trường sinh trong một cuộc hành trình dài và đầy gian khổ, nguy hiểm để hai người có thể trở lại cuộc sống bất tử. Hậu Nghệ đã gặp được Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu đồng ý cho Hậu Nghệ một viên thuốc để trở thành bất tử. Hậu Nghệ mang viên thuốc về nhà và cất nó trong một cái hộp. Khi ông đi vắng, Hằng Nga tò mò mở chiếc hộp và, vô tình Hằng Nga đã nuốt chửng viên thuốc. Ngay lập tức Hằng Nga bay lên trời do thuốc quá mạnh. Hằng Nga cứ bay lên mãi cho đến khi đến Mặt Trăng. Câu chuyện Hằng Nga – Hậu Nghệ trên đã chỉ rõ thế nào là thần bất tử trong quan niệm xưa. “Bất tử” không phải là do dân gian tôn sùng mà thành như cách giải thích ngày nay. Khả năng bất tử là khả năng đặc biệt mà chỉ một số ít các vị thần mới có. Hậu Nghệ đã phải vượt muôn ngàn gian khổ mới đến gặp và xin được thuốc bất tử của Tây Vương Mẫu về. Khi so sánh câu chuyện của hai vị thần bất tử Hằng Nga – Hậu Nghệ với với các vị thần bất tử nước Nam thì chợt nhận ra đây cũng là chính chuyện Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Rõ nhất là liên hệ về ngôn ngữ: Hậu – Chậu – Chử. Liên hệ này tương tự như trong những từ Hầu (đồng) – Chầu (đồng) – (ca) Trù đều chỉ hình thức xướng ca phục vụ nghi lễ cung đình (triều đình) xưa cả. Còn có từ Chư hầu, chỉ rõ mối liên hệ Chử – Hậu, là chư hầu của nhà Hạ đã tiếm ngôi (lấy con gái vua mà không được phép). Hậu Nghệ có công bắn mặt trời, diệt các loài quái vật nên được nhân dân tôn thờ là thần Tông Bố, tổng quản các loài ma quỷ trong thiên hạ. Chử Đồng Tử tu tiên, có được phép cải tử hoàn sinh đi cứu người, chữa bệnh rồi được tôn là Chử Đạo Tổ. Tông Bố thiết Tổ. Như vậy cách gọi Tông Bố Hậu Nghệ trùng cả họ và tên với Chử Đạo Tổ. Hậu Nghệ là người đã làm gián đoạn nhà Hạ, đuổi Hạ Thái Khang lưu lạc nơi đất Lạc. 40 năm sau nhà Hạ phải tới Thiếu Khang mới lại trung hưng. Truyền thuyết về Chử Đồng Tử cũng kể về vua Hùng tức giận, đem quân đến đánh vợ chồng Chử Đồng Tử – Tiên Dung, thể hiện một cuộc đụng độ đã xảy ra. Việc Chử Đồng Tử lấy Tiên Dung con gái vua Hùng mà không được vua cha đồng ý là chỉ việc Chử Đồng Tử – Hậu Nghệ đã chiếm ngôi của Thái Khang. Như đã từng xác định, Chử Đồng Tử là vị Tứ bất tử xếp hàng thứ hai sau Tản Viên Sơn Thánh nhưng trước Đổng Thiên Vương. Nghĩa là Chử Đồng Tử ở vào quãng sau Đại Vũ nhà Hạ tới trước thời Chu của Lão Tử. Hậu Nghệ cũng là nhân vật lịch sử ở đúng thời kỳ này. Phép thần trượng lạp (gậy nón) của Chử Đồng Tử cho thấy đây là một nhân vật ở thời kỳ rất sớm trong lịch sử vì gậy nón là hình ảnh của Âm Dương, tức là khi quan niệm Dịch học vẫn còn khá đơn giản. Hậu Nghệ đi tìm thuốc trường sinh gặp Tây Vương Mẫu cho thuốc tiên. Hậu Nghệ nghĩa là vị Hầu ở xứ Nghệ, cũng là nơi tu hành của Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử đi vào đất Quỳnh Lâm (Nghệ An) gặp lão Phật Quang và được gậy nón, có khả năng cải tử hoàn sinh. Thần tích ở đền Đa Hòa còn kể Chử Đồng Tử lấy thêm một người vợ nữa là Tây Cung công chúa. Vị công chúa này cũng có phép thuật, giúp Chử Đồng Tử chữa bệnh cho nhân dân. Tây Cung công chúa như vậy ở đây tương đồng với Tây Vương Mẫu trong chuyện Hậu Nghệ tìm thuốc bất tử. Hằng Nga uống thuốc và bất ngờ bay lên tận cung trăng. Còn vợ chồng Chử Đồng Tử và Tiên Dung thì một đêm cũng bay về trời ở đầm Nhất Dạ. Thì ra chị Hằng ở cung trăng lại chính là công chúa Tiên Dung. Câu đối ở đền thờ Chử Đồng Tử tại Đa Hòa, (Khoái Châu, Hưng Yên) mô tả: 化境是何年自然為洲一夜成澤 奇緑曠千古人間夫婦天上神仙 Hóa cảnh thị hà niên, Tự Nhiên vi châu, nhất dạ thành trạch Kỳ duyên khoáng thiên cổ, nhân gian phu phụ, thiên thượng thần tiên. Dịch: Cảnh hóa đó năm nào, đây bãi Tự Nhiên, một đêm thành đầm trạch Kỳ duyên trùm thiên cổ, nhân gian chồng vợ, lên trời biến thần tiên. Một trong những công tích khác của Hậu Nghệ là đã diệt con mãng xà khổng lồ (con Tu Xà hay Ba Xà) ở hồ Động Đình. Đoạn kể này về Hậu Nghệ rất giống truyền thuyết Việt về Lạc Long Quân diệt ngư tinh. Hồ Động Đình tức là biển Đông. Ba Xà hay Tu Xà đều có nghĩa là con rắn ở phía Đông vì Ba (3) là số chỉ phương Đông trong Hà thư, Tu hay Từ là tính chất từ ái của phương Đông.
Hiện nay thuật ngữ Tứ bất tử được quan niệm là tên gọi chung của bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng Việt Nam, đó là Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử, và Liễu Hạnh Công chúa. Mỗi vị tượng trưng cho một lĩnh vực đời sống của nhân dân nên được coi là “bất tử”. Ví dụ, Tản Viên Sơn Thánh tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên, chiến thắng thiên tai. Thánh Gióng, hay Phù Đổng Thiên Vương tượng trưng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ. Chử Đồng Tử tượng trưng cho tình yêu, hôn nhân, và sự sung túc giàu có. Mẫu Liễu Hạnh tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, phúc đức, sự thịnh vượng, văn thơ… Tuy nhiên… suy nghĩ kỹ thì quan niệm cho rằng dân gian đã “bất tử” hóa những ước vọng của mình vào các vị thần không hẳn đúng. Nếu vậy thì vị thần nào chẳng “bất tử” được. Đúng hơn thì trước hết bản thân những vị thánh này phải có khả năng “bất tử” đã thì mới có thể gọi là thần bất tử. Một số tài liệu thay vào chỗ của Mẫu Liễu Hạnh là Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không là dẫn chứng cho điều này vì cũng như Mẫu Liễu, Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không liên quan đến việc “hóa sinh” đầu thai. “Bất tử” không phải đồng nghĩa với “bất diệt”. Bất tử nghĩa là “không chết”, đúng với nghĩa đen của nó. Chỉ có các vị thần có thể “cải tử hoàn sinh” hoặc có khả năng chuyển kiếp thì mới được gọi là thánh “bất tử”. Không phải dân gian đã đem mong muốn của mình gửi gắm vào các vị thần mà là hành trạng, khả năng của chính những nhân vật này đã cho phép gọi họ là “bất tử” trong quan niệm dân gian. Từ nhận thức như vậy ta có thể xem xét từng vị thần trong Tứ bất tử để hiểu tại sao lại gọi họ là những thần bất tử. Tản Viên Sơn Thánh Câu đối ở đền Và (Sơn Tây), là Đông cung của Tản Viên nói tới những phép thuật của thần: 西傘東宫此地廷遊傳異蹟 左書有仗参天神化福同人 Tây Tản Đông cung, thử địa đình du truyền dị tích Tả thư hữu trượng, tham thiên thần hóa phúc đồng nhân. Dịch: Núi Tản bên Tây, cung điện bên Đông, vua ngao du đất này lưu truyền tích lạ Sách cầm bên trái, gậy mang bên phải, thần biến hóa cùng trời tạo phúc chúng dân. Như đã từng xác định, gậy thần sách ước của Tản Viên thực chất là Hà đồ Lạc thư của người Việt, trong đó bao hàm đạo Âm dương (sinh tử), Trời đất (Hà – Lạc). Nhờ những kiến thức khoa học này ở thủa bình minh của dân tộc mà Tản Viên Sơn Thánh đã quy tụ được các bộ tộc ở vùng Nam Giao (2 anh em Cao Sơn, Quý Minh), trị thủy thắng lợi. Thánh Tản do vậy đã trở thành vị thần bất tử đầu tiên của người Việt. Ca dao: Nhất cao là núi Tản Viên So về độ cao thực tế thì núi Tản rõ ràng là thấp hơn núi Tam Đảo. Việc xếp thứ hạng ở đây như vậy là xếp thứ hạng của 3 vị thần ở 3 ngọn núi này. Tản Viên đứng đầu ở núi Tản. Núi Tam Đảo là địa bàn của Cao Sơn (bộ tộc Lang Tiên Thị của Tây Thiên quốc mẫu). Độc Tôn như vậy phải ứng với Quý Minh, là dòng dõi của vua Hùng Đế Minh, đóng tại núi Nghĩa Lĩnh (Phú Thọ). Chử Đạo Tổ Câu chuyện về Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa được tóm tắt trong câu đối ở đền Đa Hòa (xã Bình Minh, Khoái Châu, Hưng Yên): 淳孝格天沙渚幔帷成異遇 至誠通聖瓊林杖笠契真傳 Thuận hiếu cách thiên, Sa Chử mạn duy thành dị ngộ Chí thành thông thánh, Quỳnh Lâm trượng lạp khế chân truyền. Dịch: Hiếu thuận động tới trời, bãi Chử màn che thành kỳ ngộ Thành chí thông tận thánh, Quỳnh Lâm gậy nón tiếp chân truyền. Chử Đồng Tử vì hiếu thuận với cha nên đã kỳ ngộ gặp được Tiên Dung ở bãi Tự Nhiên. Sau đó nhờ thành tâm học đạo đã được tiên ông truyền cho phép màu ở núi Quỳnh Lâm. Phép màu của Chử Đồng Tử là “trượng lạp”, tức là cây gậy và chiếc nón thần. Theo thần tích đền Đa Hòa thì Chử Đồng Tử “học được tiên thuật, có thể cải tử hoàn sinh”, đã cứu sống nhiều người dân. Một lần nữa ta thấy lý do để gọi Chử Đồng Tử là thần bất tử chính là ở phép cải tử hoàn sinh này. Gậy và nón cũng là hình ảnh của vuông – tròn, âm – dương. Thần tích ở Đa Hòa còn kể tại đây có vị thần Cá (thần Dí) đã vật chết voi của nhà vua, nhưng khi được yêu cầu làm voi sống lại thì không làm được, bởi “phép cải tử hoàn sinh chỉ có Tản Viên Sơn Thần và Đức thánh Chử Đồng Tử là làm được…”. Điều này cho thấy không phải “thần” nào cũng có thể “cải tử hoàn sinh”. Chỉ có 2 vị thần bất tử là Tản Viên Sơn Thánh và Chử Đồng Tử là có phép thuật này. Chử Đồng Tử còn lấy người vợ thứ là Tây Cung công chúa. Câu đối ở đền Đa Hòa: 東土降生三顯聖 南邦不死四靈神Đông thổ giáng sinh tam hiển thánh Nam bang bất tử tứ linh thần. Dịch: Đất Đông giáng sinh ba hiển thánh Nước Nam bất tử bốn linh thần. Ba người (Chử Đồng Tử, Tiên Dung, Tây Cung công chúa) dùng phép thuật của mình cứu dân, xây dựng lâu đài, để rồi một đêm cùng bay về trời. Câu đối ở đền Đa Hòa: 化境是何年自然為洲一夜成澤 奇緑曠千古人間夫婦天上神仙 Hóa cảnh thị hà niên, Tự Nhiên vi châu, nhất dạ thành trạch Kỳ duyên khoáng thiên cổ, nhân gian phu phụ, thiên thượng thần tiên. Dịch: Cảnh hóa đó năm nào, đây bãi Tự Nhiên, một đêm thành đầm trạch Kỳ duyên trùm thiên cổ, vợ chồng nhân gian, lên trời biến thần tiên. Thần tích Đa Hòa chép: “Cả ba vị từ đó đi thành tiên thành thánh, hóa sinh bất diệt, được xếp vào hàng thứ hai trong Tứ bất tử của nước Việt ta”. Việc xác định vị trí thứ hai trong Tứ bất tử thuộc về Chử Đồng Tử khá quan trọng vì vị trí này thường bị chép cho Phù Đổng Thiên Vương. Xét trong Tứ bất tử thì người càng có vị trí cao thì khả năng phép thuật linh ứng càng cao. Điều quan trọng hơn là thời điểm xuất hiện của người đó càng sớm trong chiều dài lịch sử. Sau Tản Viên ở thời Hồng Bàng, truyền tích Chử Đồng Tử hay Chử Đạo Tổ đã cho thấy sự ra đời rất sớm của Đạo Giáo (đạo thần tiên) ở Việt Nam. Tứ bất tử thực ra là 4 nhân vật chính, đánh dấu những mốc trong quá trình hình thành và phát triển Đạo Giáo của người Việt ở nước Nam. Đổng Thiên Vương Theo quan niệm hiện tại thì Thánh Gióng, cậu bé làng Phù Đổng cưỡi ngựa sắt đánh thắng giặc Ân là một trong Tứ bất tử. Tuy nhiên, khi xét quan niệm về thần “bất tử” là những vị thần có phép màu nhiệm, có sinh hóa, có liên quan đến đạo thần tiên (Đạo Giáo) thì nhân vật Thánh Gióng hoàn toàn không phù hợp là thần bất tử. Thánh Gióng không có phép màu nào, dùng sức khỏe đánh giặc. Đánh thắng giặc xong là thần “hóa”, bay về trời ở núi Sóc… và không quay trở lại nữa. Như vậy sao có thể gọi là thần “bất tử”? Ở đây các học giả đã có sự nhầm lẫn do… mặt chữ. Vị thần bất tử thứ ba là Đổng Thiên Vương, chứ không phải Phù Đổng Thiên Vương. Phù Đổng thiết Phổng hay Bổng, chỉ Thánh Gióng. Còn Đổng Thiên Vương là Huyền Thiên Đại Thánh. Đền thờ Huyền Thiên Đổng Thiên Vương nằm ở làng Bộ Đầu (xã Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội). Câu đối ở Huyền Thiên quán tại làng Ngọc Trì (Thạch Bàn, Gia Lâm, Hà Nội), đối diện bên kia sông với đền Bộ Đầu: 南交有國自鴻庞歷陳黎迄今刧局贏輸靈氣依依騰宇宙 北方之星日玄武中天地而立纒度经緯神光赫赫鎭龜蛇 Nam Giao hữu quốc tự Hồng Bàng, lịch Trần Lê hất kim, kiếp cục doanh thâu, linh khí y y đằng vũ trụ Bắc phương chi tinh nhật Huyền Vũ, trung thiên địa nhi lập, triền độ kinh vĩ, thần quang hách hách trấn quy xà. Dịch: Nam Giao lập nước từ Hồng Bàng, trải Trần Lê tới nay, kiếp cuộc thắng thua, linh khí y nguyên bay vũ trụ Phương Bắc là sao thời Huyền Vũ, giữa trời đất mà nên, bao trùm ngang dọc, ánh thần hiển hách trấn rắn rùa. Cũng theo sự tích ở Ngọc Trì thì Huyền Thiên nhiều lần giáng sinh, tu hành, từ đó có phép thuật trấn yêu ma các động. Còn Huyền Thiên ở đền Sái (Đông Anh) là người đã giúp Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Núi Sái là núi Thất Diệu – Vũ Đương, nơi Huyền Thiên – Lão Tử đã tu luyện thành danh. Câu đối ở đền Sái: 自蜀朝顯蹟于兹佛界峙神宫宸極髙瞻星北拱 爲曜嶺揚靈之最民風存帝典福壽齊祝月東來 Tự Thục triều hiển tích vu tư, Phật giới trĩ thần cung, thần cực cao chiêm tinh Bắc củng Vi Diệu lĩnh dương linh chi tối, dân phong tồn đế điển, phúc thọ tề chúc nguyệt Đông lai. Dịch: Từ triều Thục hiển tích tới khi, giới Phật vững cung thần, đài cực cao xem sao Bắc vái Giúp núi Diệu tỏ linh hết mức, lệ dân lưu sự đế, phúc thọ chỉnh khấn trăng Đông về. Huyền Thiên không ai khác chính là Lão Tử, vì Huyền Thiên hay Huyền Nguyên là tên sắc phong của nhà Đường cho Lão Tử. Lão Tử, vị giáo chủ Đạo giáo, chuyên về thuật trường sinh bất lão (được tôn phong là Thái Thượng Lão Quân), có phép màu trấn yểm yêu quỷ, quy xà nên Huyền Thiên Đổng Thiên Vương là một thần bất tử hoàn toàn hợp lý. Chú ý thì có thể thấy phép thuật của Đổng Thiên Vương hạn chế hơn so với Chử Đạo Tổ. Trong khi Chử Đồng Tử có thể cải tử hoàn sinh, tham dự vào huyền cơ thiên địa, thì phép thuật của Đổng Thiên Vương chỉ hạn chế ở khả năng chữa bệnh, diệt yêu trừ quỷ, chỉ trường sinh hay hóa sinh chứ không cải tử hoàn sinh được. Vì thế xếp Đổng Thiên Vương ở vị trí thứ ba trong Tứ bất tử sau Chử Đạo Tổ. Đổng Thiên Vương – Lão Tử đã giúp vua Chu (Thục) xây thành Đông Đô (Cổ Loa) vào lúc giao thời Tây và Đông Chu. Chử Đạo Tổ như vậy phải là nhân vật trước thời kỳ này, vào thời Tây Chu hoặc thời Thương. Tuy định vị được thời gian của Chử Đồng Tử nhưng vấn đề Chử Đồng Tử là nhân vật lịch sử nào vẫn là một câu hỏi cần tiếp tục được tìm hiểu. Bắt đầu từ vị thần bất tử thứ ba Đổng Thiên Vương ta thấy xuất hiện thông tin về đạo Phật. Lão Tử được coi trong một thân là thánh thần tiên phật như câu đối ở đình Thổ Hà (Việt Yên, Bắc Ninh): 等釋迦仁濟群生佛法千古神仙千古 與孔聖功垂萬世春秋一經道德一經 Đẳng Thích Ca nhân tế quần sinh, Phật pháp thiên cổ thần tiên thiên cổ Dữ Khổng thánh công thùy vạn thế, Xuân Thu nhất kinh Đạo Đức nhất kinh. Dịch: Sánh Thích Ca nhân nghĩa giúp chúng sinh, Phật pháp nghìn kiếp thần tiên nghìn kiếp Cùng Thánh Khổng công đức trùm vạn thế, Xuân Thu một kinh Đạo Đức một kinh. Quan niệm về luân hồi, chuyển kiếp đầu thai cũng là quan niệm của đạo Phật. Đạo giáo nói đến tu tiên, trường sinh bất lão và cải tử hoàn sinh chứ không đầu thai. Lão Tử ban đầu là một nhân vật trường sinh bất lão, luyện tiên đan (Thái Thượng Lão Quân). Sang đến hình ảnh Huyền Thiên mới thêm việc chuyển kiếp theo quan niệm đạo Phật. Huyền Thiên là vị thần trấn phương Bắc rất rõ. Trong khi đó Thánh Gióng lại là thần trấn phương Nam với khả năng cưỡi ngựa phun lửa (tượng trưng của phương Nam) và lấy núi Sóc làm nơi hóa (Sóc phương là phương Nam). Nam Bắc bị đảo lộn nên thành ra Thánh Gióng bị gọi nhầm thành thần bất tử. Việc chỉnh lại vị trí Đổng Thiên Vương trong Tứ bất tử cho phép nhận diện đúng hơn về bản chất của quan niệm này. Liễu Hạnh Thánh Mẫu Khả năng hóa sinh nhiều lần và trong một ngôi gồm cả thánh thần tiên Phật thấy rõ hơn ở thánh mẫu Liễu Hạnh. Câu đối ở phủ Bóng (Vụ Bản, Nam Định): 仙而佛聖而神事有萬奇留越史 崇以南嵬以北跡傳千古記南書 Tiên nhi Phật, thánh nhi thần, sự hữu vạn kỳ lưu Việt sử Sùng dĩ Nam, ngôi dĩ Bắc, tích truyền thiên cổ ký Nam thư. Dịch: Tiên là Phật, thánh là thần, sự có vạn kỳ lưu sử Việt Tôn ở Nam, ngôi ở Bắc, tích truyền thiên cổ chép sách Nam. Hay câu đối ở lăng mộ Mẫu Liễu tại Vụ Bản nói về khả năng hóa sinh, chuyển thể của thánh. 五百餘年神故化 再三轉世聖而仙 Ngũ bách dư niên thần cố hóa Tái tam chuyển thế thánh nhi tiên. Dịch: Năm trăm năm lẻ thần vẫn hóa Ba lần chuyển thế thánh là tiên. Khả năng tái sinh tuy là “bất tử” nhưng so với “thuật trường sinh bất lão” thì còn kém hơn một bậc vì tái sinh tức là vẫn phải chết rồi mới sống lại được ở thân thể khác. Nghĩa là vẫn chưa thoát được vòng “luân hồi” của đạo Phật. Còn người trường sinh bất lão thì đã thoát khỏi sự chi phối của luân hồi, có thể tham dự vào cơ trời. Mẫu Liễu được tôn sùng vì trong các lần chuyển hóa đều thể hiện là người có “hiếu, trinh, từ”. 勝蹟肇仙鄉而聖而神而佛 靈聲振越甸惟慈惟孝惟貞 Thắng tích triệu Tiên hương, nhi thánh nhi thần nhi phật Linh thanh chấn Việt điện, duy từ duy hiếu duy trinh. Dịch: Thắng tích mở Tiên Hương, là thánh là thần là phật Linh thiêng vang Việt điện, bởi lành bởi hiếu bởi trinh. Còn phép thuật cụ thể của Mẫu là gì thì không được đề cập đến. Có thể thấy khả năng của Mẫu Liễu hạn chế hơn nhiều so với Huyền Thiên Đổng Thiên Vương. So về thời gian xuất hiện và năng lực thì Mẫu Liễu Hạnh xếp hàng cuối trong Tứ bất tử là đúng, cho dù Liễu Hạnh là Mẫu chủ của Địa phủ trong đạo Tứ phủ. Để tóm tắt lại về Tứ bất tử nước Nam xin đọc câu đối ở đền Đa Hòa: 碧漢飛昇桂郊四之一 玄幾参賛天地二可三 Bích hán phi thăng Quế Giao tứ chi nhất Huyền cơ tham tán thiên địa nhị khả tam. Dịch: Bay lên dòng Bích Hán, Quế Giao bốn là một Tham dự vào huyền cơ, trời đất hai như ba. Như vậy thần bất tử là những vị thần của Đạo Giáo, có phép tiên có thể cải tử hoàn sinh hay đầu thai chuyển kiếp. Tứ bất tử là tập hợp các vị thần này, thể hiện quá trình phát triển của đạo thần tiên ở Việt Nam. Thứ tự và vị trị của Tứ bất tử được sắp xếp như sau: – Đứng đầu là Tản Viên Sơn Thánh, người có gậy thần sách ước, có khả năng cải tử hoàn sinh, là người đã tập hợp các bộ tộc Việt chiến thắng thiên tai trong thời kỳ dựng nước. Phương hướng của Tản Viên là hướng Tây (Tây Tản). – Thứ hai là Chử Đạo Tổ, cũng là người nắm được thuật Âm dương, có bảo bối là gậy nón, có khả năng cải tử hoàn sinh. Chử Đạo Tổ có khả năng là một đạo sĩ vào thời Thương hoặc Tây Chu. Chử Đồng Tử là thần nắm hướng Đông (Đông thổ). – Xếp thứ ba là Đổng Thiên Vương Huyền Thiên Lão Tử, là giáo chủ Đạo giáo, trường sinh bất lão với cuốn Đạo đức kinh, có khả năng trừ yêu dẹp quỷ, trấn quy xà. Lão Tử là người đã giúp vua Chủ An Dương Vương xây thành Cổ Loa vào đầu thời Đông Chu. Đổng Thiên Vương là người trấn phương Bắc (Huyền phương). – Cuối cùng là thánh mẫu Liễu Hạnh, thần chủ của Địa phủ trong Tứ phủ, có khả năng tái sinh nhiều lần, đắc đạo thánh thần tiên phật, nổi danh hiếu trinh từ ở thời Lê. Liễu Hạnh là người thành Nam (Nam Định), nắm giữ phương Nam. |