Xưng tội phá thai ở đâu

Thưa cha, con có một vấn đề bâng khuâng con muốn hỏi Cha và nhờ Cha tư vấn. trước đây nhiều năm con có phạm phải tội phá thai. nhưng con vẫn đi xưng tội và rước lễ bình thường, vì con không ý thức được đây là một tội nghiêm trọng phạm vạ tuyệt thông, nhưng trong lòng con vẫn luôn ấy nấy về tội lỗi đó của mình. hôm vừa rồi con đi lễ thì có nghe cha giảng năm nay là năm lòng thương xót Chúa, các linh mục được phép của Đức Thánh Cha có thể giải vạ tuyệt thông, con nghe xong mừng quá liền xét mình và đi xưng tội, nhưng trong lúc xưng tội con lại chỉ xưng là trước đây con có phạm tội phá thai thôi, rồi sau đó cha đã tha vạ và tha tội cho con rồi, ra khỏi tòa giải tội về nhà con lại nhớ ra là con đã không trình bày với cha về việc con phạm tội như vậy mà sau đó con vẫn đi xưng tội và rước lễ , vì vậy con bâng khuâng và muốn hòi cha như vậy con đã được Chúa tha vạ và tha tội chưa? con đã được lãnh nhận các bí tích chưa? hay con có cần phải đi xưng lại tội đó và trình bày lại hay không?còn những tội trước đây con xưng như vậy con có được tha không? con mong Cha giải đáp giúp con, chân thành cảm ơn Cha. email cua con ()

Việc Xưng Tội và Tội Phá Thai

 
1. Giáo huấn của Giáo Hội về việc Phá Thai  

            Sự sống con người, ngay từ lúc tượng thai, phải được tôn trọng và bảo vệ cách tuyệt đối. Ngay từ giây phút bắt đầu hiện hữu, các thụ tạo nhân linh phải được nhìn nhận có các quyền lợi của một nhân vị, trong đó có quyền được sống là quyền bất khả xâm phạm của mọi thụ tạo vô tội (GLHTCG số 2270).

              Do đó, Giáo hội ngay từ thế kỷ thứ nhất, đã khẳng định mọi vụ phá thai đều là tội ác luân lý. Giáo huấn đó không thay đổi. Giáo huấn đó vẫn luôn luôn không thể thay đổi. việc phá thai trực tiếp, nghĩa là, hoặc được muốn như mục đích hoặc được muốn như phương tiện, đều trái ngược một cách nghiêm trọng với luật luân lý.  

            “Thiên Chúa là Chúa của sự sống, đã giao phó cho con người nhiệm vụ cao cả là bảo tồn sự sống, và họ phải chu toàn nhiệm vụ đó cách xứng đáng với con người. Vì vậy, sự sống ngay từ lúc tượng thai, phải được bảo vệ hết sức cẩn thận: việc phá thai và giết trẻ sơ sinh là những tội ác ghê tởm” (MV 51).

 

            Vì thế, cộng tác chính vào việc phá thai là một trọng tội. Theo giáo luật, Hội thánh phạt vạ tuyệt thông cho tội ác chống lại sự sống con người này. “Người nào thi hành việc phá thai và nếu việc phá thai có hiệu quả, thì bị vạ tuyệt thông tiền kết (Latae sententia) (x. GL đ. 1398). Hình phạt tiền kết có nghĩa là “Phạm nhân phải chịu hình phạt tức khắc do chính sự kiện phạm tội” (GL đ. 1314) và theo những điều kiện đã được giáo luật dự liệu (x GL đ. 1323-1324).

 

2. Việc tha Vạ và tội Phá Thai

              Thông thường, hình phạt tiền kết do luật thiết định nhưng chưa được tuyên bố, và nếu hình phạt ấy đã không dành riêng cho Tông Toà, thì có thể được Đấng Bản Quyền tha cho những người thuộc quyền mình và những người đang ở trong địa hạt mình hay những người đã phạm tội tại đó, mọi Giám Mục nào cũng có quyền tha hình phạt ấy, nhưng chỉ trong khi ban bí tích Giải tội (x. GL đ. 1356).  

            Kế đến các Kinh sỹ nhà thờ chánh toà (GL đ. 508) và các cha giải tội trong trường hợp nguy tử ( GL đ, 976) cũng có năng quyền để tha ở toà bí tích các vạ tiền kết chưa được tuyên bố. Ngoài ra Giáo luật cũng cho phép mọi cha giải tội có thể tha ở toà trong, lúc ban bí tích vạ tuyệt thông tiền kết hay vạ cấm chế tiền kết chưa được tuyên bố, nếu thấy hối nhân cảm thấy khổ sở khi phải sống trong tình trạng tội trong suốt thời gian cần thiết để bề trên có thẩm quyền định liệu. Và khi tha vạ, cha giải tội buộc hối nhân trong vòng một tháng phải thượng cầu lên bề trên có thẩm quyền hay lên tư tế có năng quyền và tuân theo quyết định của ngài. Nếu bất tuân thì mắc vạ lại. Trong khi chờ đợi quyết định, cha giải tội phải ra một việc đền tội cân xứng và phải buộc đương sự sửa chữa gương xấu cũng như đền bù thiệt hại trong mức độ cần thiết. Đương sự cũng có thể nhờ cha giải tội thực hiện việc thượng cầu này (GL đ. 1357).

              Trường hợp ngoại lệ trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót, Đức Thánh Phanxico vào ngày 24 tháng 11 năm 2015 đã ban cho mọi linh mục trong khi cử hành bí tích Giải tội năng quyền tha vạ tuyệt thông của tội phá thai (Prot. N 15208/2015).  

3. Việc Xưng thú tội lỗi

Theo chỉ dẫn của sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, muốn lãnh nhận bí tích Thống hối (giải tội) cách hữu hiệu, người tín hữu được khuyên nên làm các việc sau với ý ngay lành:

  1. Xét mình.
  2. Ăn năn và dốc lòng chừa tội.
  3. Xưng tội.
  4. Đền tội.

  Việc xét mình giúp chúng ta khiêm nhường nhớ lại các tội lỗi chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân (GLHTCG 1454). Việc ăn năn và dốc lòng chừa tội là thật lòng chê ghét các tội đã phạm và quyết tâm từ nay không phạm tội nữa (GLHTCG 1451-1454). Việc xưng tội là thành tâm thú nhận với linh mục, đại diện Chúa Kitô, các tội mình đã phạm (GLHTCG 1455-1456). Việc đền tội là làm những việc cha giải tội chỉ định, để tạ lỗi với Chúa và đền bù thiệt hại do tội lỗi gây ra (GLHTCG 1459-1460).

Trong các việc trên, Xưng tội với vị linh mục được xem như là phần cốt yếu. Do dó, nó đòi buộc hối nhân phải kể tất cả các tội trọng mà họ đã ý thức được sau khi xét mình kỹ lưỡng. Và nếu họ đã chân thành xưng thú tất các tội ấy, Thiên Chúa nhân từ sẽ tha thứ cho họ kể cả những tội họ quên xót. Tuy nhiên, nếu ai cố tình giấu giếm một tội trọng, thì họ không những không được tha các tội đã xưng. 

  Giáo huấn Công Đồng trindentinô dạy về điều này như sau:  

“Mỗi khi các Kitô hữu cố gắng xưng thú tất cả các tội lỗi mà họ nhớ được, chắc chắn là họ đã trình bày tất cả cho lòng thương xót Chúa để được tha thứ. Còn những ai trình bày điều gì khác đi và cố tình giấu mốt số tội, thì họ chẳng trình bày điều gì cho lòng nhân hậu Chúa để được ơn tha thứ qua vị tư tế. Vì nếu bệnh nhân xấu hổ không cho thầy thuốc coi vết thương, thì thuốc không chữa được điều mà nó không biết” (GLHTCG 1456). 

  Do đó, nếu chúng ta đã thành tâm xưng thú các tội lội với lòng ăn năn chân thành thì Thiên Chúa tha mọi tội cho chúng ta. Còn với những tội mà chúng ta quên xót thì Chúa cũng tha, nhưng nếu trong lần xưng tội kế tiếp mà ta nhớ lại tội ấy, ta cũng có thể xưng lại với Cha giải rội.  

Lm Gioan Lê Quang Tuyến

1- Thế nào là tội phá thai[1]?

Sách Giáo Lý Chung nêu rõ: “Sự sống con người phải được tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ từ lúc được thụ thai… Ngay từ thế kỷ thứ nhất, Hội Thánh đã xác định phá thai là một tội ác… Cộng tác vào việc phá thai là một lỗi nặng… Quyền được sống là quyền bất khả nhượng của mọi người vô tội… Ngay từ lúc thành thai, phôi thai phải được đối xử như một nhân vị, nên phải được hết sức bảo vệ toàn vẹn, chăm sóc và chữa trị như mọi con người khác”[2]. Như vậy, Hội Thánh xem phôi thai lúc mới hình thành đã là một con người.

Trước đây, quan niệm chung trong Hội Thánh định nghĩa tội phá thai là: trục một phôi thai còn sống ra khỏi lòng mẹ; do đó làm phôi thai này chết[3].

Một số nhà luân lý cho rằng: như vậy, việc cắt xẻ phôi thai (craniotomy, embrotomy) và các hình thức làm cho phôi thai chết ngay trong lòng mẹ, chỉ tính là tội giết người (homicide), chứ không phải tội phá thai (abortion).

Uỷ Ban Giáo Hoàng về Giải Thích Giáo Luật đã trả lời rõ ràng: phá thai là việc giết chết phôi thai, bằng bất cứ cách nào và vào bất kỳ thời điểm nào, trong giai đoạn người mẹ mang thai[4].

2- Khi nào người tín hữu mắc vạ tuyệt thông do tội phá thai?

Theo Giáo Luật, “người nào thi hành việc phá thai và nếu việc phá thai có hiệu quả, thì bị vạ tuyệt thông tiền kết” (Giáo Luật điều1398).

Bản Việt ngữ dùng thuật ngữ “thi hành” (việc phá thai) để dịch từ “procurat” (tạo ra, cung cấp…). Người mắc tội và vạ tuyệt thông là “người thi hành”, nghĩa là người chủ ý gây ra việc chết thai nhi. Giáo Luật cố tình dùng chữ “người thi hành”, chứ không dùng từ “người mẹ” hay “y sĩ”; để chỉ tất cả những người nào chủ ý cộng tác vào việc phá thai: người mẹ hay bất cứ người nào đồng ý, xúi giục, cộng tác hay giúp đỡ việc phá thai; y bác sĩ …[5]. Như vậy, bất cứ người tín hữu nào chủ ý tham dự hay cộng tác vào việc phá thai đều bị tội và vạ.

Người mẹ, vì vô ý khi vận động, nên bị sẩy thai, không phạm tội phá thai; người cha vô tâm, không để ý việc vợ mình lén đi phá thai, cũng không phạm tội.

Vạ tuyệt thông chỉ áp dụng khi việc phá thai “có hiệu quả”, nghĩa là thai nhi đã chết do việc làm của họ.

Vạ tuyệt thông này là vạ tiền kết, nghĩa là người nào đã phạm tội phá thai đương nhiên bị vạ từ lúc họ phạm tội, không cần Giáo Hội phải công bố hình phạt.

3- Trước đây, trong Giáo Hội hoàn vũ, linh mục nào có quyền giải vạ tuyệt thông tiền kết do tội phá thai?

Trong Giáo Hội toàn cầu, việc giải vạ này thuộc thẩm quyền của vị Thường Quyền Sở Tại: Đức giám mục giáo phận và vị tổng đại diện của ngài; hoặc các vị được giáo luật xem là tương đương với Đức giám mục giáo phận. Đức Giám Mục giáo phận thường chỉ định một số linh mục lo việc giải vạ trong những trường hợp tương tự. Thông thường, giáo phận chỉ định một vài linh mục tại nhà thờ chính toà. Các cha tuyên úy bệnh viện, nhà tù… cũng thường được trao năng quyền này.

Linh mục giải tội bình thường có thể tha vạ này, nhưng chỉ trong Toà Giải Tội (Toà Trong) mà thôi, nếu tội phạm này chưa bị Đức Giám Mục công bố (Giáo Luật điều1357). Đồng thời, vị linh mục giải tội này phải buộc hối nhân xin Đức Giám Mục tha vạ chính thức (Toà Ngoài) trong thời gian ngắn nhất.

Trong trường hợp nguy tử, bất kỳ linh mục nào cũng có thể tha tội và vạ này (Giáo Luật điều 976).

4- Trước đây, trong giáo phận Sài Gòn, linh mục nào có quyền giải vạ tuyệt thông tiền kết do tội phá thai?

Trước đây, giáo phận Sài Gòn và Giáo Hội toàn Việt Nam được dành điều kiện rộng rãi hơn vì là “xứ truyền giáo”. Bản Năng Quyền Thập Niên 1971-1980 ấn định: “Nếu Cha là linh mục đã nhập tịch hay nhập vụ giáo phận bất cứ với chức vụ gì, Cha được các năng quyền”… “Được giải các dược vạ đã dành cho quyền Toà Thánh cách đơn thường hay cách đặc biệt, trừ trường hợp bỏ đạo công khai; lại cũng được giải các dược vạ Luật Giáo Hội đã dành cho các vị Bản Quyền kể cả vạ làm truỵ thai mà có công hiệu, dù là chính người mẹ”[6].

Bản văn nói trên cũng ghi rõ là các năng quyền này có giá trị “cho đến hết ngày 31-12-1980”. Tuy nhiên, “Theo lời dặn trong Bản Năng Quyền Thập Niên số IV, thì các Năng Quyền ấy vẫn còn hiệu lực cho tới khi Đấng Bản Quyền nhận được những Năng Quyền mới. Bởi vậy hết ngày 31-12-1980 mà chưa có Bản Năng Quyền mới, thì các cha cứ dùng Bản Năng Quyền này” (tr. 09).

Như vậy, tại Tổng giáo phận TPHCM, các linh mục triều hoặc các linh mục dòng có làm nhiệm vụ cho giáo phận, đều có thể giải vạ tuyệt thông tiền kết do tội phá thai. Năng Quyền này có giá trị cho đến khi Bộ Truyền Giáo hay vị Tổng Giám Mục giáo phận công bố rút lại Năng Quyền.

Tại các giáo phận khác của Việt Nam, năng quyền này tuỳ thuộc quyết định của vị giám mục giáo phận.

5- Hiện nay, có thay đổi gì về quyền giải vạ tuyệt thông tiền kết do tội phá thai?

Ngày 20.11.2016, trong Tông thư kết thúc Năm Thánh, Đức giáo hoàng Phanxicô quyết định: “Tôi trao cho mọi linh mục năng quyền xá giải cho những ai phạm tội phá thai…”; dù Ngài vẫn xác định “phá thai là một tội trọng, vì chấm dứt một sinh mạng vô tội”[7].

Như vậy, từ nay, tất cả các linh mục có năng quyền Giải Tội, đều có thể xá giải vạ tuyệt thông tiền kết cho những người phạm tội phá thai.

Toà Tổng giám mục TPHCM ngày 03.12.2016
Lm Gioan Bùi Thái Sơn
Đại Diện Tư Pháp giáo phận

––––––––––––––––––––––––––––

[1] Văn kiện chi tiết nhất của Hội Thánh về phá thai là Huấn thị Donum vitae của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin ngày 22.02.1987.

[2] GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO, số 2270-2275.

[3] D. PRUMMER, Manuale Theologie Moralis II, Roma 1958, p. 125-128.

[4] AAS 80, (1988), p. 1818-1819: “Utrun abortus, de quo in can. 1398, intellegatur tantum de eiectione fetus inmaturi, an etiam de eiusdem fetus occasione quocumque modo et quocumque temporea momento conceptionis procuretur? … A. Negative ad primam partem: affirmative ad secundam”.

[5] Xem thêm Giáo Luật điều 1329.

[6] Bản Năng Quyền Thập Niên 1971-1980, tr. 47;

Formula Facultatum Decennalium n. 24. Đây là Văn kiện Bộ Truyền Giáo tái xác nhận ngày 27.02.1971, để lặp lại các năng quyền theo Tông Thư Pastorale munus của Đức Phaolô VI, ngày 30.11.1963. Cả hai Văn kiện này được trích nguyên văn ở phần phụ lục Bản Năng Quyền Thập Niên 1971-1980.

[7] Tông thư Misericordia et misera, ngày 22.11.2016, số 12.