56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào

Đã có nhiều bộ phim lấy đề tài về chiến thắng Điện Biên Phủ, tuy nhiên, chưa có bộ phim nào làm hài lòng khán giả. Hầu hết các phim đều bị chê chưa phản ánh đúng tầm, đúng hình tượng một chiến dịch gian khổ, anh dũng, mưu trí và kỳ diệu như 56 ngày đêm ở Điện Biên Phủ năm 1954.

Hướng tới kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954- 7/5/2014), nhà nước đặt hàng Công ty TNHH một thành viên phim truyện Việt Nam (Hãng phim truyện Việt Nam) 25 tập phim truyền hình với tựa đề “Đường lên Điện Biên”. Phim được thực hiện với những bối cảnh tại Sơn La, và đã bước vào thời gian làm hậu kỳ. Theo đúng kế hoạch, phim sẽ được lên sóng vào trung tuần tháng 4 trong không khí cả đất nước hướng tới kỷ niệm 60 năm chiến thắng chiến dịch Điện Biên Phủ.

Phim được giới thiệu sẽ là câu chuyện về những chàng Vệ quốc đoàn hào hoa rời thủ đô đi kháng chiến và những cô dân công hỏa tuyến xinh đẹp nết na. Tình yêu và lửa đạn, máu và nước mắt cùng hào khí ngàn năm hội tụ ở một thế hệ cha ông anh dũng sẽ được thể hiện trong “Đường lên Điện Biên” vừa lãng mạn vừa bi tráng.

Tổ quốc và tình yêu là chủ đề xuyên suốt của bộ phim.

Đoàn làm phim đã hé lộ những hình ảnh đầu tiên về những câu chuyện “vừa lãng mạn vừa bi tráng” trong “Đường lên Điện Biên”. Bộ phim được kỳ vọng sẽ mang đến một hình ảnh gần gũi, dung dị nhưng rất đỗi anh hùng của 56 ngày đêm máu lửa ở Điện Biên năm 1954.

Một số hình ảnh trong phim Đường lên Điện Biên:

56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào

Những cảnh kéo pháo vào, kéo pháo ra khỏi trận địa được tái dựng trong phim

56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào

Một số ý kiến cho rằng, trang phục cho các chiến sĩ Điện Biên trong phim vẫn... hơi mới

56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào

Hình ảnh trong phim "Đường lên Điện Biên"

H.H

Thứ 4, 06/05/2020 | 08:01:43

3,033 lượt xem

66 năm đã trôi qua nhưng mỗi khi nhắc đến chiến thắng ngày 7/5/1954 các chiến sĩ Điện Biên năm xưa không thể nào quên những tháng năm gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng cùng đồng đội cắt núi, luồn rừng đánh giặc...

56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào

Du khách tham quan di tích chiến trường Đồi A1. Ảnh: Xuân Tiến (TTXVN)

Cứ mỗi dịp tháng 5 về, cựu chiến binh (CCB) Phạm Văn Bát, sinh năm 1935, 63 năm tuổi đảng, thôn Long Bối, xã Đông Hợp (Đông Hưng) lại kể cho con cháu nghe về một thời hào hùng, oanh liệt của mình và đồng đội. Cách đây 67 năm, ông Bát lên đường nhập ngũ khi vừa tròn 18 tuổi, được biên chế về Trung đoàn 57, Đại đoàn 304, trực tiếp tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Đơn vị của ông nhận nhiệm vụ chiến đấu ở cứ điểm Hồng Cúm, là một trong những cứ điểm mạnh, tập trung nhiều lực lượng địch tại chiến trường Điện Biên Phủ. Mục đích của quân Pháp khi lập ra cụm cứ điểm này là để làm cho Mường Thanh không bị trơ trọi, để hai cụm cứ điểm có thể che chở, yểm hộ cho nhau bằng pháo binh, xe tăng và bộ binh. CCB Phạm Văn Bát nhớ lại: Chúng tôi ngày đêm đào giao thông hào. Ngày ấy bộ đội mình khổ lắm. Nhưng với sức trẻ và nhiệt huyết của tuổi thanh xuân, việc đào núi, khoét hầm cứ phăng phăng, vào đến tận căn cứ của địch với những dụng cụ thô sơ như cuốc chim, xẻng... Nhiệm vụ đào giao thông hào càng khó khăn, nguy hiểm hơn khi đã đào sâu vào gần căn cứ địch ở Hồng Cúm. Xung quanh căn cứ, địch bố trí hàng rào thép gai dày đặc, nhiều lớp. Suốt 56 ngày đêm ròng rã, đơn vị của ông Bát đã đào hàng ki-lô-mét giao thông hào từ bìa rừng ra tới căn cứ Hồng Cúm. Hệ thống giao thông hào ngày một dày, thành đường ngang nẻo dọc, ba bề bốn bên vây chặt quân Pháp; lúc đầu xa đồn địch 400 - 500m, sau đó tiến vào còn 40 - 50m rồi chạy dọc, luồn qua hàng rào, chọc thẳng vào đồn địch, tạo thế vây ráp, cô lập căn cứ, không cho địch ở đây lên tiếp viện cho căn cứ ở Mường Thanh.

56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt nơi về chiến dịch nào

Cựu chiến binh Nguyễn Đức Thành cùng cháu nội bên kỷ vật chiến trường những ngày đánh Pháp ở Điện Biên Phủ.


Cũng là người tham gia hai cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, CCB Nguyễn Đức Thành, 68 năm tuổi đảng, ở thôn Phong Lôi Đông, xã Đông Hợp năm nay đã 88 tuổi. Ký ức về những tháng ngày cùng đồng đội Trung đoàn 98 (Đại đoàn 316) chiến đấu ở Điện Biên Phủ gần 7 thập kỷ trước vẫn còn vẹn nguyên trong ông. Chiếc bi đông đựng nước, con dao găm và Huy hiệu chiến sĩ Điện Biên là những kỷ vật được ông gìn giữ để nhắc nhở cháu con phải biết ơn thế hệ cha ông đã đổ máu xương vì hòa bình, độc lập của Tổ quốc. CCB Nguyễn Đức Thành cho biết: Năm 1950, tôi tòng quân đánh giặc, được bổ sung vào đơn vị trợ chiến thuộc Trung đoàn 98. Giữa năm 1951, Trung đoàn 98 được biên chế vào Đại đoàn 316, tôi được tham gia chiến đấu trong vùng địch hậu ở nam phần Bắc Ninh, Bắc Giang. Trong một lần tấn công đánh chiếm đồn địch ở Bắc Giang, tôi bị thương nặng và được chuyển về điều trị ở Yên Thế (Bắc Giang). Đến năm 1952, tôi trở về Trung đoàn 98 tiếp tục tham gia chiến đấu. Tháng 11/1953, Đại đoàn 316 gấp rút hành quân theo hướng Điện Biên Phủ và nhận nhiệm vụ giải phóng thị xã Lai Châu. Sau khi tiêu diệt địch, giải phóng Lai Châu, Đại đoàn 316 tiến về áp sát Điện Biên Phủ và tổ chức ngay trận tập kích pháo binh vào sân bay Mường Thanh...


Với CCB Hoàng Sỹ Oánh, thôn Trần Phú, xã Bình Định (Kiến Xương), niềm vinh dự nhất chính là được tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và được dự lễ mừng chiến thắng tại xã Mường Phăng - nơi đặt Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ sau ngày chiến thắng. Đơn vị của ông Oánh là Đại đội 273, Tiểu đoàn 54, Trung đoàn 102 (Đại đoàn 308) trực tiếp tham gia đào giao thông hào, lấn dần sân bay Mường Thanh - một vị trí chiến lược, được ví như “yết hầu” của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. CCB Hoàng Sỹ Oánh nhớ lại: Mỗi mét giao thông hào ở Điện Biên Phủ đã thấm biết bao mồ hôi và cả máu của bộ đội ta. Để hoàn thành nhiệm vụ mỗi ngày đào 2m giao thông hào, chúng tôi hết đào đứng lại đào quỳ, có lúc nhoai ra nằm mà đào. Đặc biệt, chiến dịch diễn ra trong đợt mưa nên có những ngày cả đơn vị cứ ba người một hầm, ngủ tại hầm; có đêm đơn vị ra tập kết tại rừng, lấy cây sặt làm thành giát giường. Gian khổ là thế nhưng tất cả cán bộ, chiến sĩ đều có chung một niềm tin về ngày toàn thắng.


66 năm đã trôi qua, không riêng các CCB Phạm Văn Bát, Nguyễn Đức Thành, Hoàng Sỹ Oánh mà với tất cả những người trực tiếp tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, ký ức hào hùng, niềm tự hào về chiến thắng lịch sử của dân tộc vẫn vẹn nguyên trong tâm trí, không thể phai mờ.


                              Tất Đạt

        I   Tin về nửa đêm  Hỏa tốc hỏa tốc Ngựa bay lên dốc Đuốc chạy sáng rừng Chuông reo tin mừng Loa kêu từng cửa

 Làng bản đỏ đèn, đỏ lửa...

 Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp! Sét đánh ngày đêm                       xuống đầu giặc Pháp! Vinh quang Tổ quốc chúng ta Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Vinh quang Hồ Chí Minh, Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ

                                   sao vàng vĩ đại

Kháng chiến ba nghìn ngàyKhông đêm nào vui bằng đêm nayĐêm lịch sử Điện Biên sáng rựcTrên đất nước, như                   Huân chương trên ngực

Dân tộc ta dân tộc anh hùng!

Điện Biên vời vợi nghìn trùngMà lòng bốn biển nhịp cùng lòng taĐêm nay bè bạn gần xa

Tin về chắc cũng chan hòa vui chung.

           II

 Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi,                                 ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn! Những đồng chí thân chôn làm                                         giá súng Đầu bịt lỗ châu mai Băng mình qua núi thép gai Ào ào vũ bão, Những đồng chí chèn lưng cứu pháo Nát thân, nhắm mắt, còn ôm... Những bàn tay xẻ núi lăn bom Nhất định mở đường cho xe ta

                                lên chiến trường tiếp viện

Và những chị, những anh ngày                                       đêm ra tiền tuyến Mấy tầng mây gió lớn mưa to Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát Dù bom đạn xương tan, thịt nát Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh... Hỡi các chị, các anh Trên chiến trường ngã xuống Máu của anh chị, của chúng ta                                  không uổng Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

 Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng...

             III

 Lũ chúng nó phải hàng, phải chết Quyết trận này quét sạch Điện Biên! Quân giặc điên Chúng bay chui xuống đất Chúng bay chạy đằng trời? Trời không của chúng bay Đạn ta rào lưới sắt! Đất không của chúng bay

 Đai thép ta thắt chặt!

 Của ta trời đất đêm ngày Núi kia, đồi nọ, sông này của ta Chúng bay chỉ một đường ra Một là tử địa, hai là tù binh Hạ súng xuống rùng mình run rẩy Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm! Nghe trưa nay tháng năm, mùng bảy Trên đầu bay thác lửa hờn căm Trông: Bốn mặt lũy hầm sụp đổ Tướng quân bay lố nhố cờ hàng Trông: Chúng ta cờ đỏ sao vàng Rực trời đất Điện Biên toàn thắng!

 Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!

 Tiếng reo núi vọng sông rền Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ Bác đang cúi xuống bản đồ Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo... Từ khi vượt núi qua đèo Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày Tin về mừng thọ đêm nay

 Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông!

        IV

 Đồng chí Phạm Văn Đồng Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành Ngày mai, vào cuộc đấu tranh Nhìn xuống mặt bọn Bi-đôn, Smít (*) Anh sẽ nói: "Thực dân, phát xít Đã tàn rồi! Tổ quốc chúng tôi Muốn độc lập hòa bình trở lại Không muốn lửa bom đổ                             xuống đầu con cái Nước chúng tôi và nước các anh Nếu còn say máu chiến tranh Ở Việt Nam, các anh nên nhớ Tre đã thành chông, sông là sông lửa Và trận thắng Điện Biên

 Cũng mới là bài học đầu tiên!"

                                                         5-1954
                                                        TỐ HỮU

----------- (*) Bi-don (Bidault): Ngoại trưởng Pháp.

 Smít (Smaith): Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ.

Lời bình của Trịnh Thanh Sơn

Nếu nói Tố Hữu là nhà thơ cách mạng, nhà thơ thời sự thì Hoan hô chiến sĩ Điện Biên có lẽ là một trong những bài thơ thời sự nhất của ông. Theo ngày tháng đề dưới bài thơ (5-1954) thì ông viết bài thơ này ngay sau ngày Điện Biên Phủ chiến thắng.

Ngày "Giải phóng Điện Biên, bộ đội ta tiến quân trở về là ngày 7-5-1954, thì ngày 11-5-1954, báo Nhân Dân đã in trang trọng trên trang nhất bài thơ này của Tố Hữu. Có nghĩa là, từ khi viết cho đến lúc bài thơ ra mắt hàng triệu độc giả chỉ vẻn vẹn có bốn ngày.

Bài thơ dài tới 96 câu thơ, viết bằng thể thơ tự do có vần (Tố Hữu không viết thơ không vần bao giờ), xen lẫn những đoạn lục bát và vài ba câu song thất, như những lời hát hân hoan xen vào một ký sự thơ.

Cả bài thơ mang một tiết tấu nhanh, mạnh; khỏe ào ào như sóng reo, thác cuốn, lửa cháy và bão táp. Câu, chữ trong thơ là câu chữ dân giã, dễ hiểu, mang hàm lượng thông tin rất cao. Sắc độ chính, xuyên suốt bài thơ là tiếng reo vui, hân hoan chiến thắng. Ngay "tít" bài thơ cũng thể hiện điều đó: "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên"! Lấy một tiếng reo vui, một câu khẩu ngữ mang tính khẩu hiệu làm đầu đề cho bài thơ Tố Hữu đã khẳng định âm hưởng chính cho bài thơ của ông rồi: Đây là niềm hân hoan chiến thắng.

Bài thơ dài, vì thế nhà thơ tổ chức bố cục thật chặt chẽ và khoa học. Có thể thấy bài thơ được chia làm sáu đoạn nhỏ, mỗi đoạn mang một mầu sắc riêng và mang một sứ mạng cụ thể:

Đoạn 1 (bảy câu đầu): Đây là một tin thông tấn được viết dưới góc độ nhìn và tình cảm của một nhà thơ có trái tim yêu nước nồng nhiệt. Ông cho biết rõ thời gian ông nhận được tin, đó là "nửa đêm" (Tin về nửa đêm) và tin ấy đã đến với ông rất nhanh, rất kịp thời, rất "hỏa tốc" (Hỏa tốc, hỏa tốc). Rồi tin ấy đã đến với ông bằng một chiến sĩ thông tin đi ngựa (chứ không phải bằng điện đài - (Ngựa bay lên dốc). Sau khi ông biết tin, thì cả làng bản nơi ông ở đều cùng được biết:

Đuốc chạy sáng rừngChuông reo tin mừngLoa kêu từng cửa

Làng bản đỏ đèn, đỏ lửa!

Tuy nhiên, ta chỉ biết đó là một tin vui, từ một người nhân ra nhiều người, từ một nhà nhân ra nhiều nhà, từ một bản nhân ra nhiều bản. Nhưng tin vui đó là tin gì vậy, ông vẫn giấu, ông dành cái tin vui ấy cho câu mở đầu ở đoạn 2. Cái tài của người đưa - tin - thi - sĩ chính là ở đấy!

Đoạn 2 (bảy câu tiếp): Ngay câu mở đầu của đoạn 2, tác giả đã "bật mí" cái tin vui to lớn kia là tin gì: Nhưng vì là nhà thơ, thay vì nói "Chúng ta đã giải phóng Điện Biên rồi!", thì nhà thơ lại báo tin bằng một lời reo vui, một khẩu hiệu:

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!

Niềm vui to lớn quá làm cho nhà thơ không kìm nén nổi lòng mình, bật reo lên những lời xưng tụng, rất gần với khẩu ngữ mà vẫn tràn đầy chất thơ, ngợi ca vị tướng tài ba, ngợi ca Bác Hồ, những người trực tiếp chỉ đạo để làm nên chiến thắng lẫy lừng:

Hoan hô đồng chí Võ Nguyên GiápSét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp

... Vinh quang Hồ Chí Minh - cha của chúng ta ngàn năm sống mãi!


Quyết chiến quyết thắng cờ đỏ sao vàng vĩ đại!

Đọc tới đây, ta chợt nhớ đã có hơn một lần, nhà thơ cũng reo vui bồng bột và nồng nàn như thế. Đó là cái đêm lịch sử đứng dậy cướp chính quyền ở Huế, quê hương ông:

Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãyHãy bay lên! Sông núi của ta rồi!Nước mắt ta trào híp mí, tràn môiCổ ta ré trăm trận cười, trận khóc!... Gió gió ơi! Hãy làm giông, làm tốCuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tươiVàng vàng bay đẹp quá sao sao ơi

Ta ngã vật trong dòng người cuộn thác...

(Huế tháng Tám - Từ ấy)

Chín năm, sau niềm vui ấy là niềm vui hôm nay, dù có từng trải và ghìm nén hơn,nhưng những lời thơ hào sảng thì vẫn nguyên như thế, nguyên một hồn thơ dạt dào như thế; tràn qua đoạn 3 (9 câu):

Kháng chiến ba ngàn ngàyKhông đêm nào vui bằng đêm nayĐêm lịch sử Điện Biên sáng rựcTrên đất nước như huân chương trên ngực

Dân tộc ta dân tộc anh hùng!

Khúc hát hân hoan như một trữ tình ngoại đề, như một dàn đồng ca dào dạt cất lên, thông qua những câu lục bát như lời ru của Mẹ:

Điện Biên vời vợi ngàn trùngMà lòng bốn biển nhịp cùng lòng taĐêm nay bè bạn gần xa

Tin về chắc cũng chan hòa vui chung?

Đoạn 4 (27 câu): Đây là đoạn thơ quan trọng nhất có sức nặng nhất của toàn bộ bài thơ. Tác giả dành hẳn 27 câu thơ để mô tả một cách trực diện cuộc chiến đấu gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt của quân dân ta để giành thắng lợi cuối cùng. Mở đầu đoạn thơ quan trọng này, nhà thơ láy lại câu "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" như một tôn vinh, như một tượng đài bất tử:

Hoan hô chiến sĩ Điện BiênChiến sĩ anh hùngĐầu nung lửa sắtNăm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắtMáu trộn bùn nonGan không núng

Chí không mòn!

Đó là bức chân dung sáng rỡ của tập thể những người chiến sĩ Điện Biên trong một cái nhìn toàn cảnh, còn đây là những đặc tả gương mặt của những anh hùng cụ thể, có tên tuổi như Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện... đã được nhà thơ khắc ghi vào lịch sử văn học đời đời:

Những đồng chí thân chôn làm giá súngĐầu bịt lỗ châu maiBăng mình qua núi thép gaiÀo ào vũ bãoNhững đồng chí chèn lưng cứu pháo

Nát thân, nhắm mắt còn ôm...

Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh, là cuộc chiến đấu toàn dân, toàn diện, có sự đóng góp sức lực và xương máu của cả nước. Nhà thơ đã ngợi ca điều đó trong những vần thơ kế tiếp: Và những chị, những anh đêm ngày ra tiền tuyến/ Mấy tầng mây gió lớn mưa to/ Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ/ Đèo Lũng Lô anh hò chị hát/ Dù bom đạn xương tan thịt nát/ Không sờn lòng không tiếc tuổi xanh... Và tác giả khẳng định:

Hỡi các chị, các anhTrên chiến trường ngã xuốngMáu của anh chị, của chúng ta không uổngSẽ xanh tươi đồng ruộng Việt NamMường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

Hoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng!

Hoa, quả của đất nước mãi còn từ máu và nước mắt, từ tuổi thanh xuân của những anh hùng, liệt sĩ Điện Biên, đó không chỉ là những lời an ủi mà là sự tôn vinh vĩnh hằng!

Đoạn 5 (22 câu): Nhà thơ dành đoạn thơ này để mô tả kẻ thù, những kẻ thù trực tiếp và gián tiếp, những kẻ xâm lược mà kết cục cuối cùng là sự thất bại thảm hại. Lời thơ ở đoạn này thật rắn rỏi, quyết liệt chứng tỏ một tinh thần không khoan nhượng trước kẻ thù! Nhà thơ vốn tài hoa và dịu dàng là thế mà không ngần ngại dùng những từ nhân xưng thật mạnh mẽ và thấm thía: "Lũ" và "nó" và "chúng bay":

Lũ chúng nó phải hàng, phải chếtQuyết trận này quét sạch Điện BiênQuân giặc điênChúng bay chui xuống đấtChúng bay chạy đường trời!... Chúng bay chỉ một đường ra

Một là tử địa, hai là tù binh?

Những lời thơ ấy, không phải chỉ được viết ra sau khi chúng ta đã giành được chiến thắng; như một sự ăn theo, một tràng vỗ tay muộn mằn, mà nó hình thành ngay từ khi chúng ta quyết định đối đầu với Pháp ở Điện Biên Phủ. Niềm tin chiến thắng, niềm tin ở Đảng và Bác Hồ là động lực vô cùng to lớn để những chiến sĩ Điện Biên phất cờ chiến thắng trên hầm De Castries. Bức tranh hoành tráng này, nhà thơ vẽ trên núi rừng, sông suối của Điện Biên:

Nghe trưa nay, tháng 5, mồng 7,Trên đầu bay thác lửa hờn cămTrông: Bốn mặt lũy hầm sụp đổTướng quân bay lố nhố cờ hàngTrông: Chúng ta cờ đỏ sao vàng

Rực trời đất Điện Biên toàn thắng!

Và thêm một lần nữa, nhà thơ reo lên:

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!

Đoạn 6. Chiến thắng lẫy lừng ấy của toàn dân tộc từ đâu mà ra, do đâu mà có? Trong phút lắng lại của những ngày vui dào dạt, nhà thơ nhớ đến Bác Hồ và nghĩ tới công lao của Bác cho trận quyết đấu lịch sử này. Bằng tám câu thơ lục bát, nhà thơ đã vẽ nên hình ảnh Bác kính yêu trong niềm vui của toàn dân tộc:

Tiếng reo núi vọng sông rềnĐêm nay chắc cũng về bên Bác HồBác đang cúi xuống bản đồChắc là nghe tiếng quân hò quân reoTừ khi vượt suối băng đèoTa đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngàyTin về mừng thọ đêm nay

Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông!

Đọc những câu thơ reo vui ấy, tự nhiên ta giật mình! Ừ nhỉ, chiến thắng Điện Biên (7-5-1954) chỉ cách sinh nhật lần thứ 64 của Bác hơn mười ngày! Nhà thơ liên hệ ngay rằng, chiến thắng này là những bông hoa của toàn dân tộc gửi lên mừng thọ Bác: "Tin về mừng thọ đêm nay/ Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông!".

Cũng trong đoạn thơ thứ 6 này, nhà thơ nhớ tới Thủ tướng Phạm Văn Đồng và phái đoàn ngoại giao Việt Nam ở Hội nghị Geneva. Tin chiến thắng Điện Biên sẽ làm cho chúng ta có được một tư thế mới trước kẻ thù:

Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thànhNgày mai vào cuộc đấu tranhNhìn xuống bọn Bi đôn, SmítAnh sẽ nói: Thực dân, phát xít

Đã tàn rồi!

Và như thế, để chuyển sang phần kết của bài thơ mang vóc dáng một trường ca này. Ở đoạn cuối cùng, nhà thơ tuyên bố với thế giới rằng, chúng tôi, những người Việt Nam đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình. Và bài học Điện Biên này sẽ làm cho các dân tộc thuộc địa biết vùng lên giành quyền tự do, độc lập cho dân tộc mình. Nhà thơ khẳng định, chiến thắng Điện Biên Phủ đã chôn vùi chế độ thực dân cũ:

Tổ quốc chúng tôiMuốn độc lập, hòa bình trở lạiKhông muốn lửa bom đổ xuống đầu con cáiNước chúng tôi và nước các anhNếu còn say máu chiến tranhỞ Việt Nam, các anh nên nhớTre đã thành chông, sông là sông lửaVà trận thắng Điện Biên

Cũng mới là bài học đầu tiên!

Có thể nói, cùng với chiến thắng Điện Biên lịch sử, vang dội địa cầu, bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của nhà thơ Tố Hữu đã làm nên bức tượng đài sừng sững tạc vào năm tháng, tạo một mốc son trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc nói chung và trong tiến trình thơ Tố Hữu nói riêng.

(Kỷ niệm 50 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ), Hà Nội 2004