Anh chỉ hiểu thế nào về câu thơ sau trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu

Phân tích Nỗi Buồn của người chinh phục trong bài "Chinh Phụ Ngâm Khúc" Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn là kiệt tác trong nền văn học cổ điển của nước nhà. Bản dịch “ Chinh phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748) là tác phẩm dịc đặc sắc vừa truyền đạt tư tưởng sâu sắc của tác giả vừa phô diễn vẻ mĩ lệ của tiếng Việt. Đoạn trích diễn tả nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ, khía cạnh nổi bật của chủ đề tác phẩm: oán ghét chiến tranh và đòi quyền sống cho người phụ nữ. Chiến tranh phong kiến đã xô đẩy người chinh phu biền biệt ngoài chiến địa. Người chinh phụ vò võ đợi chờ, nỗi thương nhớ chất chồng trong lòng , tràn ra cả không gian xa cách: “ Lòng này gửi gió đông có tiện Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong Cảnh buồn người thiết tha lòng Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun ” Một chút ngờ vực “ Lòng này gửi gió đông có tiện”, một cử chỉ trân trọng “ Nghìn vàng xin gửi đến non Yên” đã thể hiện được tình cảm thiêng liêng trong lòng người chinh phụ. Hình ảnh ước lệ ( non Yên – một địa danh ở Trung Quốc) khiến cho cách biểu đạt sang trọng , cổ kính làm tôn vẻ đẹp của tâm hồn người chinh phụ . Nỗi nhớ trong lòng người đã tràn ra cả cả không gian rộng lớn: “ Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” Trong hình ảnh khoa trương ấy có cả thời gian thương nhớ “ đằng đẵng”, có cả không gian chia li rộng lớn mà chỉ kích thước của vũ trụ “ đường lên bằng trời” thì mới sánh kịp. Mà nói thời gian “ đằng đẵng”, nói không gian xa cách vô tận “ bằng trời” là để làm nổi bật nỗi cô đơn trong lòng người chinh phụ: “ Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong Mỗi từ ở đây, ngoài nghĩa riêng , nó còn thấm đẫm tâm trạng của người chinh phụ. Từ “ thăm thẳm” ngầm ý oán trách, từ “ đau đáu” như hiện lên nỗi thèm khát mà vô vọng trong trái tim yêu thương của người chinh phụ. Tình và cảnh xâm nhập, thẩm thấu lẫn nhau tạo ra hình ảnh của nỗi lòng thương nhớ não nề: “ Cảnh buồn người thiết tha lòng Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun” Gợi nhớ một câu Kiều “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nhưng đó là câu thơ đã có tính khái quát, triết lí, lạnh. Câu thơ này là một hiện tượng cụ thể của một nỗi lòng , nỗi lòng đã hoàn toàn phơi ra bên ngoài cảnh vật: “ Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”. Chao ôi, “ cành cây sương đượm” đã buốt giá, “ tiếng trùng” đã ảo não , lại còn mưa phun vào tiếng trùng! Âm thanh của một cõi lòng tan nát. Khi “ tiếng trùng mưa phun” rung lên thì ta không còn nghe tiếng của “ lòng này” nữa mà tâm trạng của người chinh phụ càng lẫn khuất trong hình ảnh, âm điệu của thiên nhiên làm xao động lòng người: “ Sương như búa, bổ mòn gốc liễu Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô Giọt sương phủ bụi chim gù Sâu tường kêu vẳng , chuông chùa nện khơi Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên Lá màn lay ngọn gió xuyên Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm…” Hình ảnh nào cũng là hình ảnh bên ngoài mà hình ảnh nào cũng là hình ảnh bên trong , âm thanh nào cũng là âm thanh của thiên nhiên mà âm thanh nào cũng là âm thanh của lòng người. Một hệ thống hình ảnh thiên nhiên đã họa lên nỗi lòng của người chinh phụ , nhớ thương mòn mỏi, héo hắt. Những hình ảnh so sánh bất ngờ, độc đáo mà chỉ có sự đồng cảm với nỗi đau của người chinh phụ thì mới có cái nhìn, cái nghe kì lạ như vậy. “ Sương như búa, bổ mòn gốc liễu Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô” Hình ảnh so sánh nào cũng lạ , cũng táo bạo . Hình ảnh nào cũng đau đớn “ sương như búa…”, “ tuyết dường cưa…”, khi đau đớn nặng nề ( búa bổ) khi thì đau đớn dai dẳng (cưa xẻ ). “ Gốc liễu”, “ cành ngô” là những vật yếu mềm , hiện thân của người phụ nữ bị nỗi sầu muộn tàn phá cả thể xác lẫn tinh thần . Không còn phân biệt được những hình ảnh đó là bên trong hay bên ngoài , cũng như không còn phân biệt được những âm thanh cô đơn này là bên ngoài hay bên trong: Giọt sương phủ bụi chim gù Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi Tiếng chim gù ( gọi bạn) đơn phương trong bụi bị “ sương phủ”, tiếng chim gù nghe lạnh thấu xương. Sắc độ của âm thanh được phân biệt trong hai từ “ vẳng” và “ nện”. “ Vẳng” là dành cho tiếng côn trùng “ sâu tường”, và “ nện” là dành cho tiếng “ chuông chùa”, tiếng chuông chùa đã làm thổn thức trái tim cô quạnh của người chinh phụ. Không một âm thanh nào trong đêm trăng là không dội vang vào lòng người chinh phụ. Song để ý một chút ta có thể nhận ra sắc độ của âm thanh, có những âm thanh nỉ non, thê thiết của “ tiếng trùng mưa phùn”, của tiếng “ chim gù” phủ sương , của tiếng dế não nùng, lại có những âm thanh dữ dội của “ chuông chùa nện khơi”, của “ gió thốc ngoài hiên” biểu hiện sức sống mãnh liệt của người chinh phụ. Chính sức sống mãnh liệt đó làm run rẩy cây cỏ, tiếng trùng trong đêm trăng, làm lay động lá màn đơn chiếc của nàng . Và kì lạ thay, nỗi sầu muộn đã tàn phá dung nhan của nàng , làm đau đớn trái tim yêu thương của nàng, nhưng không thể hủy diệt được sức sống mãnh liệt của nàng, không thể hủy diệt được tình yêu của nàng, nàng vẫn hiện diện như một bông hoa trong đêm trăng. “ Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm” Nếu như hai khổ thơ đầu, âm điệu tha thiết của tình cảm được thể hiện ở những từ láy như “ đằng đẵng”, “ thẳm thẳm”, “ đau đáu”, “ thiết tha” thì ở hai khổ thơ tiếp theo tâm trạng của nhân vật trữ tình được biểu hiện ở thanh điệu; những thanh trắc khô khốc như “ búa”, “ bổ”, “ tuyết”, “ héo”, “ nện”, “ thốc”…phô diễn được xung đột nội tâm của người chinh phụ: sự tàn phá ghê gớm của hoàn cảnh khắc nghiệt và sự trỗi dậy của tinh thần người thiếu phụ đòi được sống, được yêu thương. Và những vần thơ thần bút đã hiện lên cùng với tinh thần ham sống, đam mê, khát khao hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ: “ Hoa giãi nguyệt , nguyệt in một tấm Nguyệt g hoa, hoa thắm từng bông Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu” Thiên nhiên đã bày ra một cuộc ái ân thật là mê li. Những ẩn dụ “ hoa”, “ nguyệt” đã tạo ra “ trường liên tưởng” về một quá khứ tình cảm êm đẹp, về chuyện buồng the ân ái nồng nàn. Nhạc điệu cũng chuyển , tha thiết hơn, nồng nàn hơn bằng những điệp ngữ, điệp từ, bằng sự hòa âm, hòa điệu tạo ra sự trùng điệp mê li. Bằng những hình ảnh hoa nguyệt gợi cảm lạ lùng, bằng nhạc điệu đầy cám dỗ , tác giả đã họa lên nỗi lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ. Và đây cũng là những dòng thơ thể hiện một cách rực rỡ vẻ mĩ lệ của tiếng Việt. Đoạn thơ “ Nỗi buồn chinh phụ” đã thể hiện một cách rực rỡ tài hoa của tác giả và dịch giả “ Chinh phụ ngâm “. Tình cảm nhân bản, nồng nàn. Tư tưởng sâu sắc, thái độ căm ghét chiến tranh, phản kháng chiến tranh được bộc lộ một cách kín đáo, tế nhị( chỉ bóng gió mà thái độ oán trách vẫn lộ ra. “ Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu”). Bút pháp biến hóa, nhạc điệu thay đổi rất hay ( âm điệu của từ láy ở hai khổ thơ đầu , âm điệu và thanh sắc ở khổ ba, bốn và điệp từ, điệp ngữ ở đoạn kết). Đoạn thơ gây xúc động đối với người đọc là những biểu hiện sống mãnh liệt của người phụ nữ bị chiến tranh vùi dập. Nỗi nhớ chồng ( chinh phụ) tha thiết, vô vọng . Thương nhớ, sầu muộn trong chia lìa ảm đạm đã tàn phá cả tinh thần và thể xác của người chinh phụ, nhưng không có gì có thể dập tắt được ngọn luwarcuar sự sống, của tình yêu và những khát vọng về hạnh phúc lứa đôi trong lòng người chinh phụ.

Chinh phụ ngâm khúc, tác phẩm chữ Hán nổi tiếng của Đặng Trần Côn mang dấu ấn của thời đại, đà gây tiếng vang lớn trong cuộc sống xã hội. Lời dịch thanh thoát, uyển chuyển, mượt mà của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đà góp phần không nhỏ làm cho tác phẩm có một vị trí trong đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân và trong lịch sử phát triển của văn học dân tộc.
Chinh phụ ngâm khúc thành công trong việc miêu tả nỗi khổ của người phụ nữ có chồng đi chiến đấu nơi xa trong cuộc chiến tranh phong kiến. Toàn bộ khúc ngâm là lời tự bày tỏ tâm tình thiết tha, sâu sắc, qua đó toát lên tinh thần oán ghét chiến tranh, khao khát sống trong hòa bình, hạnh phúc của người phụ nữ. Sức mạnh nghệ thuật của tác phẩm tập trung miêu tả tình cảnh, tâm trạng đau khổ của người chinh phụ trong cảnh cô đơn. Đoạn trích trong sách giáo khoa Văn học 10, tập một. Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ có những nét tiêu biểu cho nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Hãy phân tích đoạn thơ trong "Chinh phụ ngâm khúc":

“Lòng này gửi gió đông có tiện?

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên,

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.”

YÊU CẦU

– Thể loại

Kiểu bài phân tích tác phẩm trữ tình, cụ thể là phân tích đoạn thơ trích trong một tác phẩm trường thiên.

– Nội dung

•   Tâm trạng nhớ nhung

•   Tâm trạng sầu muộn của người chinh phụ (Chinh phụ ngâm khúc).

GỢI Ý

Phân tích đoạn thơ Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ chủ yếu là làm nổi bật hai sắc thái của tâm trạng người chinh phụ: nhớ nhung và sầu muộn.

Thân bài có thể được triển khai theo hai ý chính sau:

A. TÂM TRẠNG NHỚ NHUNG CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ

1. Tâm trạng nhớ nhung của người chinh phụ được thể hiện qua sáu câu thơ đầu. Nhân vật trữ tình – người chinh phụ – đã thổ lộ tâm trạng của mình:

Lòng này gửi gió đông có tiện

……

Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.

2. Người chinh phụ gửi nỗi niềm thương nhớ qua ngọn gió đông (gió mùa xuân). Hình ảnh gió đông, non Yên, trời thăm thẳm có tính chất ước lệ, gợi lên sự xa cách muôn trùng giữa chinh phụ và chinh phu. Khoảng không gian vôtận chia cách đó càng làm nổi bật nỗi nhớ nhung của chinh phụ. Đó là nỗi nhớ triền miên trong thời gian (đằng đẵng) và được cụ thể hóa bằng độ dài của không gian (bằng trời):

Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời

Nỗi nhớ thương đằng dặc ấy được thể hiện tài tình qua thể thơ song thất lục bát với âm điệu triền miên và lối điệp ngữ (non Yên – non Yên, bằng trời – trời thăm thẳm…).

3. Nỗi nhớ cũng thể hiện qua từ láy đau đáu:

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong,

Hai từ láy đằng đẵng, đau đáu cộng hưởng với nhau, gợi lên nỗi nhớ thiết tha canh cánh bên lòng. Nhưng từ đằng đẵng chỉ thời gian dài đặc, trường độ của nỗi nhớ. Còn từ đau đáu biểu thị sự tập trung, sự trăn trở, chỉ độ sâu của nỗi nhớ. Nỗi nhớ nhói lên nỗi đau. Từ thiết tha (người thiết tha lồng) mang giá trị biểu cảm sâu sắc: như cắt như mài da thịt.

Hai câu kế tiếp chuyển mạch thơ, mở ra những cảnh thiên nhiên để tả cảnh ngụ tình.

B. TÂM TRẠNG SẦU MUỘN CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ

1. Ba khổ thơ cuối tả hai bức tranh thiên nhiên với những điểm khác nhau về thời gian, không gian và tính chất. Cảnh sương tuyết gió mưa không thể hòa nhập với cảnh

hoa thắm, trăng trong. Điều tác giả quan tâm hơn cả là lôgíc nội tâm nhân vật chứ không phải là lôgíc ngoại cảnh. Trong cảnh thiên nhiên thứ nhất, nét lạnh lẽo, thê lương được tô đậm:

Sướng như búa bổ mòn gốc liễu

Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.

Hình ảnh búa, cưa vốn gợi lên sự phũ phàng, lại kết hợp với các động từ bổ, xẻ càng thể hiện sức tàn phá dữ dội của sương tuyết. Những từ mòn, héo gợi cảnh tàn tạ dần dần. Trong không gian buốt lạnh tuyết sương ấy, những âm thanh (tiếng sâu tường, tiếng dế, tiếng chuông chùa) lại càng gợi vẻ hoang vắng của cảnh vật. Giữa cảnh vật ấy, tâm trạng người chinh phụ chìm sâu vào nỗi cô đơn vò võ.

2. Cảnh vật ở đây cũng biến đổi để phù hợp với tâm trạng nhân vật. Trong hai khổ thơ cuối, cảnh thiên nhiên tuy có gợi chút não nùng nhưng cũng có những nét đẹp với màu sắc, đường nét tuyệt vời:

Lá màn lay ngọn gió xuyên,

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng

3. Âm điệu có tính chất đặc thù của thể thơ song thất lục bát thể hiện rõ qua cách ngắt nhịp. Tất cả thanh trắc ở tiếng thứ ba của các câu thứ nhất đã khắc họa rõ nét cảnh vật và xoáy sâu vào lòng người. Trong khổ thơ cuối, sáu từ hoa và sáu từ nguyệt được lặp lại. Nghệ thuật điệp từ sóng đôi kết hợp với các động từ theo, dãi, lồng gợi lên sự quấn quýt giữa hoa và nguyệt, hoa nguyệt cùng tỏa sắc lên hương. Ý thơ thể hiện gián tiếp nỗi khát khao âm thầm mà mãnh liệt được hưởng hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ. Đó là khát vọng mang đậm tính nhân bản của đoạn thơ.

Video liên quan

Chủ đề