Bài học kinh nghiệm trong sự nghiệp bảo vệ kinh thành Thăng Long đời TrầnTrong lịch sử, kể từ khi được nhà Lý chọn là kinh đô, sự nghiệp bảo vệ Thăng Long thực sự là tiêu biểu cho sự hình thành phương thức bảo vệ một quốc gia có chủ quyền, với các hoạt động quân sự - quốc phòng bước đầu phát triển khá hoàn chỉnh. Đặc biệt, đến đời nhà Trần chiến công oanh liệt trong ba lần đánh thắng giặc Mông – Nguyênlà nổi bật nhất. Sự nghiệp bảo vệ, giải phóng Thăng Long đời Trần đã phát triển theo khía cạnh kết hợp “bảo vệ Thăng Long” với “giải phóng Thăng Long” diễn ra nhuần nhuyễn và rất linh hoạt trong thế trận chiến tranh toàn dân,ở những thời điểm nhất định, có thể mất địa bàn kinh đô Thăng Long nhưng cuộc kháng chiến mới chỉ bắt đầu, thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ, giải phóng kinh đô Thăng Long luôn là đích đến cuối cùng, quyết định thành bại của sự nghiệp bảo vệ, giải phóng đất nước. Show
Ba cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược. Từ đầu thế kỷ XIII, triều Trần thay thế triều Lý đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta (1226 – 1400). Lúc đó, quân viễn chinh Mông Cổ khét tiếng tàn bạo đang thực hiện cuộc viễn chinh xâm lược tàn phá và gây ra vô vàn đau thương trên các lục địa Á – Âu. Chúng đã chiếm được Bắc Trung Quốc và âm mưu tiến xuống đánh chiếm Đại Việt để từ đó vu hồi đánh Nam Tống. Hốt Tất Liệt đã từng sai sứ sang dụ hàng, nhưng vua Trần Thái Tông đã tống giam sứ giặc và ra lệnh cả nước khẩn trương chuẩn bị kháng chiến. Vua đích thân cầm 3 vạn quân lên lập chiến tuyến ở Bình Lệ Nguyên. Cuộc kháng chiến chống Mông lần thứ nhất diễn ranăm 1258. Ngày 17 tháng 1, khoảng ba vạn kỵ binh Mông Cổ vượt biên giới tiến xuống Bình Lệ Nguyên. Sau “trận đầu thất lợi”, quân ta rút về Phù Lỗ, Phá cầu và lập chiến tuyến tiếp tục chặn địch. Quân Mông dựa vào ưu thế binh lực đã đánh rất mạnh, buộc vua Trần phải rút về Thăng Long, rồi tiếp tục dời toàn bộ triều đình khỏi Thăng Long về Thiên Mạc. Tuy vậy, triều đình và quân dân không hề nao núng. Lúc đó thái sư Trần Thủ Độ tâu với vua: “Đầu tôi chưa rơi xuống dưới đất, xin bệ hạ đừng lo”. Quân và dân ta thực hiện kế hoạch “thanh dã” triệt để, nên dù quân giặc chiếm được Thăng Long nhưng không tìm được lương thực, tiến thoái lưỡng nan, phải án binh bất động. Ngày 29 tháng 1, vua Trần Thái Tông cùng các tướng chỉ huy binh thuyền ngược sông Hồng tiến về Thăng Long và lợi dụng đêm tối tập kích ở Đông Bộ Đầu. Bị đánh bất ngờ, giặc đại tháo chạy, đến trại Quy Hoá còn bị dân binh của Hà Bổng đón đánh. Ngột Lương Hợp Thai cùng tàn quân chạy về Vân Nam. Cuộc kháng chiến chống Mông lần thứ nhất đã giành được thắng lợi. Cuộc kháng chiến chống Mông lần thứ haidiễn ra vào năm 1285. Sau khi thôn tính toàn Trung Quốc, Hốt Tất Liệt lập triều Nguyên và đã ép Đại Việt phải cung cấp lương thực, lấy cớ cho mượn đường đánh Chiêm. Nguy cơ chiến tranh đến gần, nhà Trần đã mở Hội nghị Bình Than (1282) và Hội nghị Diên Hồng (1285) để cùng các vương hầu, tướng lĩnh bàn kế đánh giặc. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn được phong làm Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội, đã ban bố Hịch tướng sĩcổ vũ quyết tâm kháng chiến của quân và dân ta, đồng thời tổ chức nhiều cuộc tập trận và thao diễn quân đội. Đầu năm 1285, quân Nguyên gồm 60 vạn từ ba hướng tiến công nước ta. Trên hướng Đông Bắc, trước thế giặc mạnh, quân Trần lui về Vạn Kiếp, sau đó tiếp tục rời khỏi Thăng Long về Trường Yên và Thiên Trường. Hướng thứ hai sau khi chặn đánh giặc ở Yên Bái, quân ta đã rút về Bạch Hạc rồi lui về hội quân ở hạ lưu sông Hồng. Hướng phía Nam cũng phải lui về chốt chặn ở Thanh Hoá, phương án rút quân chiến lượcđã làm thất bại kế hoạch hợp vây của địch, quân Nguyên không thực hiện được những đòn quyết chiến với chủ lực của ta, lại phải căng sức đối phó cuộc chiến tranh toàn dânnên bị tiêu hao, mệt mỏi, bệnh tật và bị thiếu thốn lương thực. Tháng 5, ta phản công bằng một loạt trận, Thoát Hoan thất bại liên tiếp, phải rút khỏi Thăng Long về Vạn Kiếp, bị quân ta chặn đánh và tiêu diệt lớn, chỉ còn tàn quân chạy về Lạng Sơn, gặp phục binh ta chặn đường, phải chui vào ống đồng mới thoát thân. Tàn quân Na – xi Rút – đin tháo chạy về Vân Nam cũng bị ta truy kích quyết liệt. Toa Đô từ Thanh Hoá ra Trường Yên bị chặn đánh ở Tây Kết phải tử trận. Cuối tháng 6 năm 1285, toàn bộ quân xâm lược đã bị quét sạch khỏi bờ cõi nước ta. Cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ badiễn ra các năm 1287 – 1288. Sau hai lần thất bại, Hốt Tất Liệt tức tối ra lệnh bãi bỏ kế hoạch xâm lược Nhật Bản, tập trung lực lượng gần nửa triệu bộ binh, kỵ binh, thuỷ binh và đến tháng 12 năm 1287 chia thành ba đạo có cả thuyền chiến và thuyền lương tiến vào nước ta. Thoát Hoan tiến đến Vạn Kiếp, và tháng 2 năm 1288 đã vượt sông Hồng đánh Thăng Long. Triều đình và quân đội nhà Trần lại một lần nữa tạm rút khỏi kinh thành, lui về vùng hạ lưu. Ở Vân Đồn, Trần Khánh Dư chủ động tránh đội thuyền chiến của Ô Mã Nhi và mai phục tiêu diệt toàn bộ đoàn thuyền lươngTrương Văn hổ. Ba cánh quân địch tiến vào Thăng Long lại lâm vào tình trạng muốn đánh mà không được đánh, lương thực không có. Khắp nơi nhân dân ta thực hiện “vườn không nhà trống” và phối hợp với quân đội tập kích, phục kích địch. Thoát Hoan ra lệnh đốt phá kinh thành Thăng Long, rút về Vạn Kiếp rồi chia quân làm hai đạo thuỷ, bộ rút về nước. Thuỷ quân Ô Mã Nhi rút lui đã lọt vào trận địa mai phục của Trần Quốc Tuấn và bị tiêu diệt trên sông Bạch Đằng. Cánh quân bộ của Thoát Hoan cũng bị đánh liên tiếp, phải mở đường máu mới chạy thoát. Sau thất bại này, nhà Nguyên không còn đủ sức đánh Đại Việt và từ bỏ hoàn toàn mưu đồ tiến xuống phương Nam. Bài học kinh nghiệm trong sự nghiệp bảo vệ kinh thành Thăng Long Từ những chiến công tiêu biểu, sự đóng góp của các tài năng anh hùng và sự phát triển của tư tưởng quân sự đời Trần thế kỷ XIII, có thể đúc rút những bài học kinh nghiệm quý báitrong sự nghiệp bảo vệ kính thành Thăng Long. Một làn, thường xuyên xác định và nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng chiến lược của kinh đô Thăng Long trong sự nghiệp giải phóng, bảo vệ đất nước. Xác định đúng đắn vị trí chiến lược và tầm quan trọng của sự nghiệp giải phóng, bảo vệ kinh đô Thăng Long là điều kiện tiên quyết để quy tụ tiềm lực quân sự của Thăng Long vả cả nước chuẩn bị toàn diện nhằm bảo vệ yếu địa này. Tuy đây là vấn đề khách quan, nhưng việc nhận thức đúng đắn và toàn diện về tầm quan trọng ấy lại phụ thuộc rất lớn vào khả năng trí tuệ, trình độ, kinh nghiệm của các chủ thể quân sự mà trực tiếp là triều đình nhà Trần và quân dân Thăng Long. Đây là một trong những bài học kinh nghiệm có giá trị xuyên suốt lịch sử. Thực tiễn lịch sử cho thấy, ngay từ thời tiền Thăng Long, vấn đề chuẩn bị sẵn sàng bảo vệ vùng yếu địa Cổ Lao đã được nhà nước và quân dân Âu Lạc sớm nhận ra và gắng sức giải quyết thông qua xây dựng một kinh thành kiêm quân thành kiên cố, đủ sức tự bảo vệ. Tuy nhiên, nhà nước Âu lạc sau đó lại mất cảnh giác, để đến khi nhận ra địch chiếm được Cổ Loa cũng đồng nghĩa với chiếm cả đất nướcthì đã quá muộn. Đến sự định đô của nhà Lý tại Thăng Long, nơi không có thế giữ hiểm bằng cựu đô Hoa Lưnhưng lại có thế “rồng bay” để mở mang nền văn hiến, chứng tỏ Đại Việt đã đủ sức bảo vệ đất nước, bảo vệ kinh đô bằng phương thức mới, và vị trí chiến lược quân sự của Thăng Long đã được nhìn nhận toàn diện hơn nhiều. Triều đình tập trung xây dựng lực lượng vũ trang chủ lực mạnh nhất ở kinh đô, mở mang đường giao thông thuỷ bộ nối Thăng Long với cả nước để tiện cơ động lực lượng, bố trí quân ở các cửa ải hiểm yếu trên cả ngả đường tiến về Thăng Long, dựng phòng tuyến ngăn chặn giặc từ xa. Mặt khác, nhận rõ vị thế chiến lược quân sự cực kỳ quan trọng của Thăng Long không đồng nghĩa với việc coi đây là yếu địa duy nhất - mất nó là mất tất cả, nên văn hoá bảo vệ Thăng Longthời kỳ này thể hiện rất đa dạng. Nếu như thời Lý chủ động ra quân đập tan căn cứ xuất phát xâm lược của địch, rồi rút về dựng phòng tuyến sông Cầu, có hậu phương trực tiếp là kinh thành Thăng Long để đuổi giặc, thì thời Trần, cả ba lần đều chủ động rút khỏi kinh thànhđể bảo toàn lực lượng trước thế giặc mạnh, phát động chiến tranh toàn dân, chuyển hoá dần rồi thực hiện tiến công giải phóng kinh thành. Hai là, phát huy ưu thế sự kết hợp trực tiếp giữa trung ương với địa phương sở tại và sự liên thông với cả nước để bảo vệ, giải phóng kinh thành. Sự nghiệp bảo vệ, giải phóng kinh thành Thăng Long diễn ra ở bất cứ thời kỳ lịch sử nào, cho dù miền đất này có đang là quốc đô hay không, cũng đều thể hiện song hành hai hệ giá trị: một là trực tiếp bảo vệ, giải phóng địa bàn, cuộc sống lao động hoà bình của nhân dân, những giá trị vật chất và tinh thần của Thăng Long; hai là bảo vệ chế độ nhà nước, bảo vệ quốc hồn, quốc tuý dân tộc Việt Nam. Vì vậy, công cuộc bảo vệ, giải phóng Thăng Long không chỉ là trách nhiệm của quân và dân sở tại, mà còn là trách nhiệm chung của cả nước, và theo đó sự kết hợp giữa trung ương với Thăng Long trong sự nghiệp này là sự kết hợp trực tiếp. Việc bảo vệ, giải phóng Thăng Long không đơn thuần là vấn đề quân sự, mà là vấn đề chính trị trực tiếp của cả quốc gia dân tộc, quy tụ sức mạnh tổng hợp từ mọi phương diện đời sống xã hội, được kết nối với mọi miền đất nước, trước hết là sự kết hợp trực tiếp giữa trung ương với Thăng Long, sự liên thông với các địa bàn, tạo nên một ưu thế đặc biệt. Trong lịch sử, khi những nỗ lực của bộ máy nhà nước trung ương kết nối trực tiếp được với sức mạnh của quân, dân Thăng Long và cả nước thì sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn để vượt qua thử thách, và ngược lại. Trong thời tiền Thăng Long, bảo vệ thành Cổ Loa đồng nghĩa với bảo vệ đất nước, công việc đó do chính bộ máy nhà nước trung ương đảm nhiệm, hay có thể nói sự kết hợp giữa trung ương với địa phương sở tại trong bảo vệ quốc đô không những là trực tiếp mà còn là một. Các cuộc nổi dậy chống ách đô hộ tiếp đó đều diễn ra theo phương thức tương tự. Nhà Lý bảo vệ Thăng Long bằng cách lập phòng tuyến sông Cầu, do triều đình trực tiếp chỉ huy. Đến đời Trần, sự phân công và phối kết hợp giữa trung ương với các lộ, phủ… thể hiện rất rõ trong sự nghiệp giữ nước. Mặt trận Thăng Long luôn tích hợp sự cộng hưởng trách nhiệm trực tiếp của triều đình với quân dân sở tại, giữa Thăng Long với các địa phương trong cả nước. Thăng Long là mục tiêu chủ yếu của quân Nguyên – Mông xâm lược. Nhưng chiếm được Thăng Long, quân xâm lược vẫn không thực hiện được chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, không tiêu diệt được đại quân ta, không bắt được triều đình kháng chiến. Thăng Long đã không trở thành một chiến trường của chiến tranh chính quy trong đó đội quân kỵ binh thiện chiến Mông – Nguyên có sức đột kích mạnh, cơ động nhanh có thể đánh tan đại quân của ta, mà ngược lại là một chiến trường của chiến tranh du kích địch có thể đánh xuyên qua, nhưng không tiêu diệt được lực lượng và phá được thế trận của ta. Khi chúng vượt qua kinh thành để đuổi theo triều đình thì Thăng Long trở thành một chiến trường địch hậu nguy hiểm,cùng với các vùng địch hậu khác liên tục đánh nhỏ lẻ tiến công địch ngày đêm làm cho chúng sa lầy, bị mất ổn định ở địa bàn đầu não, do vậy mà quân dân Thăng Long đã kìm hãm được sức tiến công của chúng, yểm hộ đắc lực cho triều đình và đại quân rút khỏi kinh thành. Với thế trận đó, khi quân địch bị suy yếu thì quân ta thực hành phản công chiến lược, Thăng Long trở thành chiến trường của những trận quyết chiến như Đông Bộ Đầu (năm 1285), trận tiến công giải phóng Thăng Long (năm 1285), hoặc chiến trường có sức ép quân sự mạnh mẽ buộc đại bản doanh của chúng phải rút chạy về phía bắc (năm 1285). Việc quân ta ba lần rút khỏi kinh thành mà Thăng Long vẫn bình tĩnh, đàng hoàng tiếp tục đánh địch, yểm hộ cho cuộc rút lui chiến lược của triều đình và đại quân, đã làm cho quân dân cả nước càng hướng về triều đình, giữ vững lòng tin vào thắng lợi, kiên trì bám trụ các địa bàn địch hậu để đánh địch cho đến thắng lợi cuối cùng. Ba là, dựa vào truyền thống văn hiến và làm kế sâu rễ bền gốc ở trong dân để xây dựng và chuẩn bị sức mạnh bảo vệ, giải phóng kinh đô. Thăng Long vốn có ưu thế là nơi “thượng đô kinh sư mãi muôn đời”, do vậy có thiên thời, địa lợi, nhân hoà.Từ thời tiền Thăng Long, vùng đất Đại La đã phát triển mạnh từ một làng nghề ven sông Tô thành trung tâm đô thị lớn, từng bước hình thành những nét bản sắc văn hoá, và chỉ riêng Thăng Long đã là một vùng văn hoá.Dưới thời Lý, việc thu hút nhân tài cả nước vào Thăng Long là đương nhiên bởi đây là vùng đất được đô thị hoá tương đối rõ nét, nhân tài có điều kiện phát triển, tinh thần thượng võ luôn có đất dụng võ do được cộng hưởng với chế độ thân dân, truyền thống coi trọng “hiền tài”, mở mang nền văn hiến để hình thành sức mạnh tổng hợp của các cuộc kháng chiến chống xâm lược. Đến thời nhà Trần, những chiến công oanh liệt trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ đời Lý về trước đã kích lệ quân dân Thăng Long và cả nước bước vào giai đoạn mới, xây dựng đất nước trong thời bình. Việc bồi dưỡng sức dân, thực hiện các chính sách “khoan thư sức dân” sau chiến tranh đã được triều Trần chú trọng thực hiện một cách thiết thực và hợp lòng dân. Các biện pháp củng cố và tăng cường khả năng giữ nước trong thời bình, đồng thời chuẩn bị tiềm lực quân sự cho quân dân ta sẵn sàng đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược. Những chiến công lẫy lừng, sức mạnh kháng chiến to lớn của quân dân ta đời Trần đều kế thừa và phát huy kết quả xây dựng đất nước từ đời Lý. Từ kinh đô Thăng Long, triều đình nhà Trần đã thực hiện các biện pháp ngoại giao thích hợp sau mỗi lần chiến thắng, thể hiện chiều sâu văn hoá của một dân tộc tuy nhỏ nhưng đã chiến thắng các thế lực xâm lược to lớn, hung hãn. Triều đình đã chăm lo giữ vững mối quan hệ hoà bình, hoà hoãn, giữ vững tư thế của người thắng trận, lại không để phạm sai lầm trong ứng xử với nước lớn láng giềng, bảo đảm hoà bình lâu dài cho đất nước. Sức mạnh giải phóng, bảo vệ Thăng Long chính là sức mạnh tổng hợp được xây tạo bởi sự nghiệp chính nghĩa, nhân đạo, nhân văn, từ miền đất có truyền thống văn hiến. Nhà Trần đã nhận thức được rằng trước một đạo quân xâm lược to lớn đến từ một đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn ta nhiều lần, triều đình không thể chỉ dựa vào quân đội để chống giặc mà phải tìm nguồn sức mạnh ở trong dân, động viên sức mạnh của cả dân tộc để đánh địch. Trong di chúc của mình năm Canh Tý (1300), Trần Hưng Đạo đã chỉ rõ, “Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt vây đánh. Bên ta vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, nước nhà chung sức, địch tất phải bị bắt, đó là trời xui nên tất nhiên phải như vậy”. Ông còn chỉ rằng: “Khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ nước”. Điều đó lý giải vì sao quân dân ta vẫn đàng hoàng, bĩnh tĩnh qua ba lần rút khỏi kinh đô, vẫn chịu đựng được mức độ quyết liệt của các trận đánh ngày và đêm ở Thăng Long trong điều kiện đã bị giặc chiếm đóng. Đó là cội nguồn sức mạnh của những trận đánh làm cho kỵ binh tinh nhuệ của quân Nguyên hết sức hoảng sợ. Bốn là, phát triển nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc, tiến hành “chiến tranh toàn dân” để giải phóng, bảo vệ đất nước. Trong cả ba cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông, quân và dân ta dùng cách đánh đau, hiểm, rộng khắp trong thế trận chiến tranh toàn dân để giải phóng, bảo vệ kinh đô. Thắng lợi của quân dân Thăng Long gắn liền với tài thao lược ngày càng cao, vững chắc trong việc điều hành kháng chiến của triều đình Trần, mà tiêu biểulà nhà quân sự kiệt xuất Trần Quốc Tuấn. Rút lui chiến lược khỏi kinh thành Thăng Long, thực hiện “kế thanh dã” để tránh quyết chiến trong điều kiện không có lợi, bảo toàn được lực lượng của ta là cách tốt nhất để bảo vệ Thăng Long và đất nước. Hạ được quyết tâm đó chứng tỏ bộ thống soái đã giải quyết được mối quan hệ chiến lược giữa không gian và thời gian trong chiến tranh. Dùng không gian một cách chặt chẽ để đổi lấy thời gian, tạm rút lui chiến lược để đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của địch. Sau khi có thời gian để làm yếu địch thì khôi phục lại không gian, khôi phục lại kinh đô và đất nước. Đó còn là nghệ thuật tạo sự chuyển hoá giữa chiến tranh bảo vệ và chiến tranh giải phóng. Với ý chí kháng chiến kiên cường và trí thông minh, quân dân kinh thành đã sáng tạo ra cách đánh bám trụ tại chỗ, đánh liên tục dài ngày, đánh đau, đánh hiểm theo cách đánh của Yết Kiêu, Dã Tượng vào các mục tiêu quan trọng ở Thăng Long, tiêu hao sinh lực địch, triệt đường vận chuyển lương thảo từ hậu phương của chúng, đánh bại các cuộc hành quân cướp bóc lương thực trong dân, uy hiếp thường xuyên tinh thần của chúng, tạo nên thế địch – ta xen kẽ, kìm hãm những lực lượng quan trọng của địch tại các địa phương. Cách đánh đó thực hiện được nhờ “thế trận làng nước”, thế trận xen kẽ cài răng lược địch – ta đã được tạo nên, làm cho đại quân của địch bị sa lầy, mất sức chiến đấu và thất bại. Chính cách đánh đó, cùng với việc bảo toàn và củng cố khối đại quân chủ lực của triều đình đã góp phần to lớn vào việc tạo thời cơ và nắm thời cơ thực hành phản công chiến lược giải phóng Thăng Long. Trần Hưng Đạo đã tổng kết: “Địch cậy trường trận, ta cậy đoản binh. Lấy đoản chống trường là điều thường trong binh pháp”. Chính nhờ thế trận chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự “ lấy đoản binh chế thường trận” đó mà sức mạnh quân dân ta khắp các địa phương có thể phát huy tốt để đánh thắng quân địch. Đế quốc Nguyên – Mông là kẻ thù xâm lược lớn nhất và tàn bạo nhất trong lịch sử nước ta cho đến lúc đó. Chúng kiên quyết đánh chiếm kinh đô Thăng Long, hy vọng đó là bước quyết định để đánh chiếm Đại Việt, lấy đó làm bàn đạp phát triển xâm lược các nước ở phương Nam. Nhưng quân dân Thăng Long và cả nước quyết không sợ kẻ địch mạnh, đã đứng lên kiên cường kháng chiến, cuối cùng đã đánh bại được ý chí xâm lược của chúng. Trong thế trận chiến tranh toàn dân, trăm họ là lính, cả nước đánh giặc, sức mạnh của địch không thi thố được mà chúng lại bị vô hiệu hoá dẫn đến tổn thất. Như vậy, qua thực tiễn đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam, đến đời Trần, nghệ thuật quân sự đã được tổng kết trên những nét cơ bản, được phát triển một bước và ở Thăng Long một lý luận quân sự Việt Nam đã xuất hiện rõ nét. Mục lục
Lịch sửSửa đổiNguồn gốcSửa đổiTổ tiên nhà Trần vốn làm nghề chài lưới, có gốc là người đất Mân ở tỉnh Phúc Kiến di cư đến đất Đại Việt đầu tiên ở xã Yên Sinh, huyện Đông Triều (Quảng Ninh) sau dời đến Tức Mặc, Nam Định. Những hậu duệ của nhà Trần là con cháu lai giữa dòng dõi nhà Trần và dòng dõi nhà Lý trừ trường hợp của Trần Lý, Trần Thừa, và con của Trần Thừa là Trần Cảnh vị vua đầu tiên của nhà Trần. Căn cứ vào gia phả họ Trần ở Lạc Dương do thống tôn đời 27 Trần Đình Nhân (con cháu Trần Ích Tắc) còn lưu giữ được thì gốc tích xa xưa thời chiến quốc, họ Trần thuộc nhóm tộc người Bách Việt sống ở đất Mân (tỉnh Phúc Kiến - Trung Quốc ngày nay)[1] Người họ Trần đầu tiên đến Đại Việt là Trần Kinh (陳京), đến định cư tại làng Tức Mặc (nay là phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định) sống bằng nghề ngư sinh vào đầu thế kỷ XII. Cụ Trần Kinh sinh ra cụ Trần Hấp, cụ Trần Hấp sau sinh ra cụ Trần Lý. Gia đình cụ Trần Hấp có gia sản lớn, kẻ ở người làm đông đến vài trăm, anh em Trần Lý cũng bỏ hẳn nghề chài lưới để chuyển sang quản lý điền trang, tuyển mộ người ở. Gia tộc họ Trần dần có địa vị, trở thành tầng lớp trên của xã hội bấy giờ. Sau ba đời con cháu sống ở Đại Việt, họ Trần trở nên giàu có và hùng mạnh dưới đời cụ Trần Lý. Cụ Trần Lý đến tuổi trưởng thành lấy bà Tô Thị Hiền (bà này có người em ruột là Tô Trung Từ, giữ chức Thái úy Phụ chính, tước Thuận Lưu bá, dưới triều Lý Huệ Tông). Họ sinh được bốn người con: Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung, Trần Thị Tam Nương. Trần Thừa lấy bà họ Lê (con gái ông Lê Điện, quan Thái phó triều Lý), sau này sinh ra 3 con trai là Trần Liễu, Trần Cảnh, Trần Nhật Hiệu và 2 con gái. Trần Cảnh là con thứ của Thừa, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, tức Kiến Gia năm thứ 8 triều Lý (9/7/1218).[2] Như vậy Trần Cảnh (vua đầu tiên của nhà Trần) là cháu 4 đời của Trần Kinh (tổ họ Trần). Các nhà lãnh đạo thuộc những thế hệ đầu tiên thường mang tên các loài cá, do nguồn gốc xuất thân chài lưới của họ Trần. Tổ họ Trần vốn tên là Chép, được dịch sang tiếng Hán là 鯉, phiên âm là "Lý", nghĩa là cá chép. Con ông là Trần Thừa vốn có tên là Dưa (cá dưa). Hai con trai Trần Thừa vốn có tên là Leo (cá leo), được phiên theo chữ Hán là Liễu (cha của Trần Quốc Tuấn), người con thứ hai có tên là Lành Canh (cá lành canh), phiên sang chữ Cảnh. Trần Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ), khi làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi gọi là Dung. Về sau dân địa phương lập đền thờ bà vẫn gọi là "Bà chúa Ngừ". Từ thế hệ thứ hai, nhà Trần nắm quyền cai trị nên mới đặt theo các tên đời sau thường biết tới. Thay ngôi nhà LýSửa đổiVốn sống bằng nghề đánh cá, họ Trần thường sinh sống làm ăn ở những vùng cửa sông ven biển, đến đời Trần Lý (ông nội của vua Trần Thái Tông) đã trở thành một cự tộc có thế lực vùng Hải Ấp. Năm 1209, khi trong triều có biến loạn, vua Lý Cao Tông phải chạy lên Quy Hóa, Thái tử Lý Sảm (sau là vua Lý Huệ Tông) chạy về Hải Ấp đã được gia đình Trần Lý giúp đỡ. Hoàng tử Sảm đã kết duyên cùng Trần Thị Dung - con gái của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý dẹp loạn, diệt trừ Quách Bốc, đưa vua Lý trở lại kinh đô. Cậu ruột Trần Thị Dung là Tô Trung Từ được làm Điện tiền chỉ huy sứ. Trung Từ lại đang tâm muốn nắm quyền riêng, lạnh nhạt với người đứng đầu chỉ huy họ Trần lúc bấy giờ là Trần Tự Khánh. Năm 1211, Thái tử Lý Sảm lên ngôi, sử gọi là Lý Huệ Tông. Ông cho đón vợ là Trần Thị Dung về cung lập làm Nguyên phi (元妃). Lúc này, Tô Trung Từ được phong Thái úy phụ chính, còn Tự Khánh được phong Chương Thành hầu (章成侯). Huệ Tông là người yếu đuối, lại bị Đàm thái hậu (譚太后) điều khiển chính sự, nên mọi việc đều phó thác cho Đàm Dĩ Mông (譚以蒙), người chức cao, quyền lớn nhưng không có học thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát. Lợi dụng tình hình đó, Đoàn Thượng (段尚) làm phản, tụ tập bè đảng ở Hồng Châu thả sức cướp bóc, khiến triều đình không chế ngự nổi. Năm 1216, trước tình thế bức bách của Đàm thái hậu, Lý Huệ Tông đã bí mật rời bỏ hoàng cung, cùng với Trần Thị Dung trốn đến nơi đóng quân của Trần Tự Khánh. Từ đó, vua Lý hoàn toàn phụ thuộc vào thế lực anh em họ Trần. Tháng 12 năm Bính Tý 1216, Lý Huệ Tông phong Trần Thị Dung làm Hoàng hậu, Trần Tự Khánh làm Thái úy Phụ chính, anh cả của Hoàng hậu là Trần Thừa làm Nội thị Phán thủ. Hoàng hậu Trần Thị Dung sinh được hai công chúa: Thuận Thiên và Chiêu Thánh. Thuận Thiên sau là Lý Thuận Thánh, lấy Trần Liễu; Chiêu Thánh sau là Lý Chiêu Hoàng, lấy Trần Cảnh. Vậy là hai chị em công chúa con vua Lý Huệ Tông đều lấy hai anh em ruột con của Trần Thừa (tức là anh em họ con cô con bác lấy nhau). Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, mọi việc đều uỷ quyền cho Trần Thủ Độ, em họ của Trần Thừa (陳承) và Tự Khánh, khi ấy là Chỉ huy sứ, quản lĩnh cấm quân. Vua Lý Huệ Tông phong Trần Thừa làm Phụ quốc Thái úy, khi vào chầu miễn cần xưng tên. Là người cơ mưu, quyết đoán, Trần Thủ Độ đã sắp xếp để ép vua Huệ Tông nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh, rồi cắt tóc đi tu ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Liền sau đó, Trần Thủ Độ lại thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng lên 7 tuổi lấy con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh (陳煚) lên 8 tuổi. Một năm sau, vào tháng 12 âm lịch năm 1225, Trần Thủ Độ ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Trần bắt đầu nắm quyền cai trị. Khi lên ngôi, Trần Cảnh còn nhỏ, mọi việc triều chính đều trong tay Thái sư Trần Thủ Độ và cha là Thái thượng hoàng Trần Thừa (Trần Thái Tổ). Dẹp nội loạnSửa đổiTừ năm 1211, trong nước Đại Việt đã hình thành ba thế lực lớn là:
Triều đình nhà Lý chỉ kiểm soát vùng xung quanh Thăng Long. Trong thời gian nắm quyền bính trong triều cho tới khi thay ngôi nhà Lý, nhà Trần tiếp tục phải đối phó với các lực lượng cát cứ từ thời Lý. Do thế lực chưa đủ mạnh để trấn áp tất cả các lực lượng nổi dậy, họ Trần phải dùng chiến thuật khi đánh khi hoà, thậm chí cả biện pháp hôn nhân; và tận dụng sự xung đột của chính các thế lực này tự làm yếu nhau. Sau khi nhà Trần thành lập, Nguyễn Nộn đánh bại giết chết Đoàn Thượng năm 1228. Nhưng không lâu sau, cuối năm 1229, Nguyễn Nộn ốm chết, lực lượng của Nộn tự tan rã. Nhà Trần chấm dứt được cục diện chia cắt, tập trung củng cố nội chính sau nhiều năm nghiêng ngả dưới thời Lý. Thời kỳ thống trịSửa đổiThái TôngSửa đổiTrần Cảnh khi lên ngôi vua chỉ mới 8 tuổi. Thái sư Trần Thủ Độ và Thái thượng hoàng Trần Thừa nhiếp chính và thực sự nắm quyền hành. Trần Thủ Độ tuy bị đánh giá là người không có lễ giáo, thất học nhưng mưu lược hơn người, trị việc trong nước đều cẩn thận và chu toàn. Về mọi mặt, thời Thái Tông củng cố các vấn đề chính nhất là:
Mỗi khi có dịp hạn hán, triều đình thường ban hành luật miễn thuế khóa, mở lương thóc rồi đại xá. Cho nên quốc lực mau chóng khôi phục, Đại Việt lại trở nên phồn thịnh như thời nhà Lý. Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi chép:..Bấy giờ quốc gia vô sự, nhân dân yên vui, người làm quan giữ mãi một chức, người ở quán, cách 10 năm mới được xuất thân, người ở sảnh, cục 15 năm mới được xuất thân, chức tể tướng thì chọn người hiền năng trong tôn thất, có đạo đức, tài nghệ, thông hiểu thi thư thì cho làm. Năm 1252, Thái Tông đổi niên hiệu là Nguyên Phong (元豐). Sau đó ông lập tức dẫn binh đi đánh Chiêm Thành. Trước đó khi nhà Lý suy, Chiêm Thành thường hay xua binh công phá ở vùng Nghệ An, dân chết vô số, nay vua lên ngôi mà không sang thông hiếu nên rất giận, dẫn quân đi đánh và bắt được nhiều thần thiếp, cướp được nhiều của cải. Uy danh Đại Việt đối với Chiêm Thành lại được thiết lập. Giai đoạn này gọi là Nguyên Phong chi trị (元豐之治). Năm 1258, sau khi đánh bại đại quân của Ngột Lương Hợp Thai của người Mông Cổ, Thái Tông truyền ngôi cho Hoàng thái tử Trần Hoảng (陳晃), tự xưng là Thái thượng hoàng. Từ đấy, nhà Trần theo lệ truyền ngôi sớm cho thái tử, Thượng hoàng tuy nhường ngôi nhưng vẫn quán xuyến mọi việc, giúp vị vua trẻ quen dần chính sự. Trần Hoảng lên ngôi, sử gọi là Trần Thánh Tông. Thánh Tông – Nhân TôngSửa đổiDưới thời của Thánh Tông hoàng đế, mọi việc chính sự vẫn đều chu toàn, nhà Trần tiếp tục thịnh trị. Ông xưng là Nhân Hoàng (仁皇), niên hiệu cải thành Thiệu Long (紹隆). Năm 1264, Thái sư Trần Thủ Độ qua đời, thọ 71 tuổi. Thái sư công chính nghiêm minh, nhà Trần có được ngôi báu và sự thịnh trị đời Thái Tông phần nhiều là công sức của ông. Đến đây, truy phong làm Thượng phụ Thái sư Trung Vũ đại vương (上父太師忠武大王). Nhân sự cũng được thay đổi trong thời Thánh Tông. Bấy giờ Đặng Kế (鄧薊) làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá (杜國佐) làm Trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học. Theo chế độ cũ, không phải là nội nhân (hoạn quan) thì không được làm hành khiển, chưa bao giờ dùng nho sĩ văn học. Bắt đầu từ đây, nho sĩ văn học mới giữ được quyền bính, cũng là dấu hiệu của Nho giáo đang bắt đầu có ảnh hưởng mạnh trong bộ máy nhà nước. Đối với anh em trong hoàng tộc, nhà vua luôn coi là thân thiết. Ông xuống chiếu cho các vương hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình. Vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau. Còn như trong các lễ lớn như triều hạ, tiếp tân, yến tiệc thì phân biệt rõ ngôi thứ, cấp bậc cao thấp. Vì thế, các vương hầu thời ấy không ai là không hòa thuận, kính sợ và cũng không phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng. Năm 1277, Thượng hoàng Thái Tông băng hà, hưởng thọ 60 tuổi, làm Thượng hoàng được 19 năm. Cùng năm đó, Thánh Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Khâm (陳欽), sử gọi là Trần Nhân Tông. Nhân Tông xưng làm Hiếu Hoàng (孝皇), đổi niên hiệu thành Thiệu Bảo (紹寶). Khi Nhân Tông lên ngôi, họa giặc giã từ quân Nguyên ở phía Bắc đang kéo đến. Năm đó, quân Nguyên đánh diệt nhà Tống, Tả thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu cõng Tống đế nhảy xuống biển chết. Hậu cung và các quan chết theo rất nhiều. Qua 7 ngày có đến hơn 10 vạn xác chết nổi lên mặt biển. Xác Tống đế cũng ở trong số đó. Để chuẩn bị cho chiến tranh chống quân xâm lược, nhà Trần cho tiến hành xét duyệt sổ đinh, chuẩn bị lương thảo lực lượng. Phong cho Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn (興道王陳國峻) làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc, sai chọn các quân hiệu có tài chỉ huy, chia đi nắm giữ các đơn vị. Cuối cùng, quân đội nhà Trần toàn thắng vào năm 1285 và năm 1288. Đến đây, nhà Trần bắt đầu bước vào thời thịnh trị lâu dài tiếp theo. Năm 1290, Thượng hoàng Thánh Tông băng hà, hưởng dương 50 tuổi. Trị vì được 21 năm, thượng hoàng được 11 năm. Ông là người thiên tư, nhân ái, kế nghiệp Thái Tông khiến quốc gia hưng thịnh, lại giúp Nhân Tông chống giặc ngoại xâm, thực là công lao to lớn. Miếu hiệu Thánh Tông hoàng đế cũng là rất tôn xứng. Trong nước sau thời kỳ chiến tranh, mất mùa thất bát. Ngay năm Thánh Tông băng hà, trong triều lục đục chuẩn bị tang lễ thì nhân dân ngoài kinh thành lại đói to, 3 thăng gạo giá một quan tiền, dân nhiều người bán ruộng đất, và bán con trai con gái làm nô tỳ cho người, mỗi người giá một quan tiền. Ngay lập tức, xuống chiếu phát thóc công chẩn cấp dân nghèo và miễn thuế nhân đinh. Năm sau, tiếp tục chết đói, 2 năm này liên tiếp nạn đói hoành hành, Nhân Tông ban chiếu cho nô dịch, nô lệ có thể mua chuộc lại ruộng đất để tăng cường cải thiện tình hình lương thực. Tình hình dần dần cải thiện. Năm 1293, Nhân Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Thuyên (陳烇), sử gọi là Trần Anh Tông. Anh Tông tự xưng làm Anh Hoàng (英皇). Anh Tông – Minh TôngSửa đổiAnh Tông hoàng đế là một vị Hoàng đế có tính trưởng thành cao trong các vị hoàng đế nhà Trần. Khi mới lên nối ngôi, Anh Tông hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có lần bị đồ vô lại ném trúng đầu. Một hôm uống rượu say đến nỗi Thượng hoàng Nhân Tông ở Thiên Trường về kinh đô, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hội nghị định truất ngôi Anh Tông. Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh đô, sợ hãi quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn Nhữ Hài (段汝諧), mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Thượng hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho Anh Tông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm ngự sử trung tán, và từ đấy không uống rượu nữa. Anh Tông từ sau việc ấy siêng năng hơn, tối hôm tấu duyệt sớ của chính sự. Và từ sau vụ ấy, vua cũng đâm ra ghét người nghiện rượu và không dùng những người ấy vào việc quan. Ông cũng là người rất ghét nạn đánh bạc, đã sai đánh chết Thượng phẩm Nguyễn Hưng vì tội ấy. Dưới thời Anh Tông luật pháp rất nghiêm, vì thế trong nước có trật tự, quốc gia đi lên nhanh chóng. Dưới thời ông, Ai Lao và các động biên giới thường xuyên quấy nhiễu, dù Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn đều đã qua đời nhưng các tướng Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Tảng đều là các danh tướng nên biên giới được an lành. Đối với văn hóa, thời Anh Tông xuất hiện các danh nhân như Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn (阮忠彥), Trần Thì Kiến (陳時見), Bùi Mộc Đạc (裴木鐸). Về lễ phục quan lại, Anh Tông quy định áo mũ, kiệu ngồi cũng rất chặt chẽ, rõ ràng. Năm 1300, quy định quan văn thì đội mũ Đinh tự màu đen, tụng quan thì đội mũ Toàn hoa màu xanh vẫn như quy chế cũ. Ống tay áo của các quan văn võ rộng 9 tấc đến một thước 2 tấc, không cho dùng từ 8 tấc trở xuống. Các quan văn võ không được mặc xiêm, tụng quan không được mặc thường (mũ toàn hoa xanh có hai vòng vàng đính vào hai bên). Nhưng đến năm sau, đổi lại thành các quan văn võ đều đội mũ Đinh tự, thêm miếng lụa bọc tóc màu tía xen màu biếc. Các kiểu mũ của vương hầu: người tóc dài đội mũ Triều thiên, người tóc ngắn đội mũ Bao. Một sự kiện đánh dấu sự mở rộng cương vực Đại Việt là việc Anh Tông gả em gái là Huyền Trân công chúa (玄珍公主) cho Chế Mân (Jaya Sinhavarman III), để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay). Nhưng cuộc hôn nhân chỉ được một năm thì Chế Mân băng hà, Anh Tông lo sợ Huyền Trân ở đấy không hay nên cử Trần Khắc Chung (陳克終) cướp công chúa về, từ đấy người Chiêm Thành oán hận Đại Việt. Năm 1311, chúa Chiêm là Chế Chí (Jaya Sinhavarman IV) đánh trả nhưng bị đại bại. Năm 1318, Chế Năng tiếp tục đem quân đánh phá nhưng vẫn không kết quả. Năm 1314, Anh Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Mạnh, sử gọi là Trần Minh Tông. Minh Tông tự xưng làm Ninh Hoàng (宁皇). Thượng hoàng Anh Tông vẫn giúp đỡ ông trông coi chính sự. Triều đại nhà Trần dưới thời Minh Tông tiếp tục duy trì sự thịnh vượng của các đời Anh Tông đã tạo nên. Sự thịnh thế này gọi là Anh Minh thịnh thế (英明晟世), kéo dài hơn 60 năm hưng thịnh. Dưới thời Minh Tông, trong huyết thống hoàng gia đã bắt đầu có ngoại thích xen vào. Đó là việc ông sủng ái Anh Tư phu nhân (英思夫人), con gái một quan viên họ Lê, và em phu nhân là Sung viên Lê thị (充媛黎氏). Cả hai bà đều sinh ra các Hoàng tử đều là những người sẽ kế thừa ngôi vị Hoàng đế Đại Việt tương lai. Anh Tư phu nhân sinh ra Hoàng trưởng tử Trần Vượng (陳旺), Trần Phủ (陳暊) còn Lê sung viên sinh ra hoàng tử út Trần Kính (陳曔). Minh Tông do sủng ái Anh Tư phu nhân nên muốn lập con của phu nhân là Trần Vượng làm Thái tử, nhưng gặp phải sự phản đối từ cha của Lệ Thánh hoàng hậu (麗聖皇后) là Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn (陳國瑱), một đại thần trụ cột đương thời, con trai của Nhân Tông hoàng đế, người mà Minh Tông phải gọi bằng chú. Khi Anh Tông hấp hối, ông đã giao Quốc Chẩn chăm nom Minh Tông nên có thể nói địa vị của Quốc Chẩn rất cao. Khi Quốc Chẩn phản đối việc ông lập Trần Vượng làm Thái tử, Minh Tông bèn thôi nhưng rất bực mình. Sau đó, dưới sự xúi giục của Trần Khắc Chung (陳克終), Văn Hiến hầu (文獻侯) là con trai của Trần Nhật Duật, cùng sự ngấm ngầm của Anh Tư phu nhân, Minh Tông đã bắt giam Quốc Chẩn vào một ngôi chùa và khiến Quốc Chẩn thiệt mạng. Minh Tông sau đó truyền ngôi cho Thái tử Trần Vượng, gọi là Trần Hiến Tông. Hiến Tông chết khi còn trẻ, Minh Tông lập con của Lệ Thánh hoàng hậu là Trần Hạo (陳暭), tức Trần Dụ Tông. Năm 1358, Thượng hoàng Minh Tông băng hà, hưởng dương 59 tuổi. Dụ Tông tự mình điều hành chính sự, thời kỳ suy vong của nhà Trần bắt đầu. Thời kỳ suy tànSửa đổiDụ Tông suy trịSửa đổiTrần Dụ Tông tuy được đánh giá thông minh, hiểu rộng, sách vở đều thông nhưng đến khi Thượng hoàng Minh Tông băng hà, ông trở nên bỏ bê chính sự. Ông ham mê tửu sắc, ra lệnh cho xây cung điện, tạo sưu cao, thuế nặng làm cho nhân dân vô cùng khổ sở và ca thán. Trong nước, giặc giã nổi lên khắp nơi. Trong khi đó tại triều đình, các bọn gian thần kéo bè kết đảng và trở nên lộng hành vô cùng. Chu Văn An (朱文安), một vị quan thanh liêm, trung thần tại triều đình, đã dâng Thất trảm sớ (七斬疏) đề nghị trị tội những tên tham quan ô lại. Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo nên Chu Văn An đã từ quan về nhà dạy học. Dụ Tông ham chơi bời, mê đàn hát, thường sai các vương hầu và công chúa bày tiệc đóng trò hát tuồng cho vui, ai diễn hay thì được thưởng. Mặc dù phép tắc nhà Trần rất nghiêm khắc với tội đánh bạc nhưng Trần Dụ Tông lại thích trò này, chiêu tập các nhà giàu vào cung đánh bạc cùng vua. Có người đã xàm tấu với ông rằng Thái úy Cung Tĩnh Đại vương Trần Nguyên Trác (陳元卓) đã yểm bùa hại ông. Dụ Tông chút nữa là sát hại Nguyên Trác, nhưng Hiến Từ hoàng thái hậu đã can ngăn. Ông sai phu xây cất nhiều cung điện, đào hồ ở vườn trong hậu cung, trong hồ xây đá làm núi, trồng nhiều cây cỏ lạ và nuôi chim thú quý; sau đó ông lại sai làm hồ con, lệnh cho dân ra biển chở nước mặn đổ vào hồ và thả cá biển, đồi mồi vào nuôi. Vua thích chơi bời, các quý tộc cũng hưởng ứng theo vua khiến triều đình rối nát. Bên ngoài xảy ra mất mùa trong nhiều năm. Trần Dụ Tông chỉ có các biện pháp khắc phục tạm thời như sai các nhà hào phú bỏ thóc lúa chu cấp cho người nghèo để chống đói và thưởng chức tước cho họ để trả công; ông không chú trọng việc đắp đê và làm thủy lợi để phát triển nông nghiệp lâu dài. Loạn Dương Nhật LễSửa đổiNăm 1369, Trần Dụ Tông băng hà, hưởng dương 34 tuổi, cai trị được 28 năm. Trần Nhật Lễ, con của Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Dục (陳元育) được chọn làm người kế thừa đại thống. Nhật Lễ không phải là con của Nguyên Dục mà mẹ Nhật Lễ vốn là cô đào, vợ của kép hát Dương Khương (楊姜). Bà múa vở Vương mẫu hiến bàn đào, thân người rất đẹp nên Nguyên Dục si mê, buộc bà phải bỏ Dương Khương mà về làm vợ mình, nhưng lúc đó bà đã mang thai Lễ. Sau khi Nhật Lễ sinh ra, Nguyên Dục tự nhận làm con mình. Đến khi Dụ Tông bệnh nặng, truyền ngôi cho Nhật Lễ để kế thừa. Thật ra, lúc đó triều thần không muốn thế mà muốn lập Cung Định vương Trần Phủ lên thay, nhưng Hiến Từ hoàng thái hậu lại nghĩ đó là cháu mình, khăng khăng lập Nhật Lễ nên quần thần đều nghe theo. Nhật Lễ lên ngôi, tôn Thái hậu làm Thái hoàng thái hậu, Trần Nguyên Trác làm Thượng tướng quốc thái tể. Sau này, Thái hoàng thái hậu biết chuyện của Nhật Lễ, hết sức thất vọng mà muốn phế truất Lễ nên Lễ ra tay trước, cho người ngầm bỏ độc giết chết Thái hậu. Nhật Lễ ở ngôi bỏ bễ chính sự, ham tửu sắc, hằng ngày chỉ rong chơi, thích các trò hát xướng, muốn đổi lại họ là Dương, việc này làm bất bình trong giới hoàng tộc nhà Trần trong đó có Thái tể Trần Nguyên Trác. Ông ngầm lập mưu bắt Lễ trong cung, cùng con trai là Trần Nguyên Tiết với 2 cháu trai là con của Thiên Ninh công chúa (天寧公主) xâm nhập vào cung nhưng kế hoạch thất bại, Nguyên Trác cùng đồng đảng đều bị Nhật Lễ giết hết. Mùa đông, tháng 10 năm 1370, Cung Định vương Trần Phủ vì có con gái làm hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình nên tránh ra trấn Đà Giang (Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Cung Tuyên Vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán (陳元旦) cùng với Thiên Ninh công chúa hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy quân. Lật đổ được Nhật Lễ, giáng xuống làm Hôn Đức công (昏德公). Cùng năm ấy, Cung Định vương Trần Phủ lên ngôi, tức là Trần Nghệ Tông. Hồ Quý Ly chiếm ngôiSửa đổiNghệ Hoàng giữ ngai vị được 2 năm, lên làm Thái thượng hoàng và nhường ngôi cho em là Trần Kính lên thay, tức là Trần Duệ Tông. Năm 1377, Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, Nghệ Hoàng lập con Duệ Tông là Trần Hiện (陳晛) lên thay, sử gọi là Trần Phế Đế. Thượng hoàng Nghệ Tông nắm quyền bính trong tay quyết định mọi việc nhưng lại quá tin dùng một mình Hồ Quý Ly (黎季犛), là cháu của Minh Từ thái phi, mẹ của Nghệ Hoàng. Hồ Quý Ly muốn nắm đại quyền, nên xúi giục Nghệ Hoàng giết hại các trung thần, các hoàng tử, các thân vương và ngay cả Phế Đế cũng bị sự gièm pha của Quý Ly mà bị Nghệ Tông phế bỏ. Con út của Nghệ Hoàng là Trần Ngung (陳顒), tức Trần Thuận Tông được lập lên ngôi nhưng cũng không có thực quyền. Con gái lớn của Quý Ly là Khâm Thánh hoàng hậu của Thuận Tông, nên mọi việc của Thuận Tông càng bị Quý Ly siết chặt hơn bởi lẽ Hồ Quý Ly rất gian xảo. Do sự suy yếu chính quyền, các cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Cụ thể là khởi nghĩa của:
Vì có mưu đồ soán đoạt ngôi vị mà lại được sự tin dùng của Nghệ Tông nên Hồ Quý Ly đã tạo được khá nhiều phe cánh và bè đảng ở triều đình và khắp mọi nơi. Rồi từ đó Quý Ly càng ngày càng lộng quyền không coi ai ra gì. Năm 1394, Nghệ Hoàng băng hà, hưởng thọ 74 tuổi. Hồ Quý Ly nắm lấy cả quyền hành rồi sai người vào đất Thanh Hoá xây thành Tây Đô. Sau khi công việc xong xuôi, Quý Ly bắt Trần Thuận Tông dời kinh về Tây Đô rồi lập mưu ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là Trần An, khi đó mới có 3 tuổi lên ngôi, tức Trần Thiếu Đế. Quý Ly lên làm phụ chính sai người giết Thuận Tông, tự xưng làm Quốc Tổ Chương Hoàng (國祖章皇). Nhìn thấy âm mưu của Hồ Quý Ly, nhiều tướng lĩnh nhà Trần như Đại tướng quân Trần Khát Chân (陳渴真) cùng các tông thất lập hội với mưu đồ tiễu trừ Quý Ly, nhưng cơ mưu bị bại lộ, tất cả đều bị bắt và bị giết vào khoảng hơn 370 người. Năm 1400, Quý Ly phế truất Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, chiếm lấy ngôi nhà Trần, đổi sang họ Hồ (胡), lập ra triều đại nhà Hồ. Nhà Trần chấm dứt, kéo dài 175 năm với 13 đời hoàng đế. Nhà Hậu Trần chống quân MinhSửa đổiHồ Quý Ly làm vua được 7 năm thì mất nước vào tay quân Minh. Tôn thất nhà Trần khởi nghĩa chống quân Minh, nhà Trần được tái lập bởi Giản Định đế - Trần Ngỗi vào tháng 10 âm lịch năm 1407 tại Ninh Bình. Bị quân Minh truy sát, Giản Định đế chạy vào Nghệ An, viên Đại tri châu châu Hóa là Đặng Tất giết quan nhà Minh, dẫn quân từ Hóa châu ra theo phò, nhà Hậu Trần làm chủ từ Nghệ An vào Thanh Hóa. Năm 1408, quân Hậu Trần tiến quân ra Bắc, đánh bại quân Minh do Chinh Di tướng quân Mộc Thạnh chỉ huy ở trận Bô Cô, bao vây các thành, cơ hội khôi phục nhà Trần, giành lại đất nước trở nên rõ ràng. Nhưng năm 1409, Giản Định đế nghe lời gièm pha, giết 2 tướng trụ cột là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, khiến cho 2 người con của họ là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị kéo quân trở về Nghệ An lập Trần Quý Khoáng lên làm vua, hiệu là Trùng Quang đế. Trùng Quang đế bắt Giản Định đế và tôn làm Thượng hoàng, cả hai cùng nhau đánh quân Minh. Hoàng đế Vĩnh Lạc nhà Minh sai Trương Phụ đem quân tiếp viện cho Mộc Thạnh. Giản Định đế thua trận bị xử tử. Trùng Quang đế núng thế, lui dần về phía Nam và thất bại hoàn toàn trong trận đánh đẫm máu ở Thuận Hóa năm 1414. Trùng Quang đế tự sát. Như vậy nhà Hậu Trần gồm 2 vua, kéo dài được 7 năm (1407-1414). Do Trùng Quang đế và Giản Định đế đều là thành viên hoàng tộc nhà Trần, có công lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm nên dù thất bại trong việc khôi phục nhà Trần và nước Đại Việt, họ vẫn được người dân coi là 2 vị vua chính thống của nhà Trần và nước Đại Việt. Do vậy các đền thờ nhà Trần thường có tượng thờ và bài vị 14 vị vua (gồm 12 vua nhà Trần và 2 vua nhà Hậu Trần). Nhận địnhSửa đổiVề chiến thắng Mông - NguyênSửa đổiTheo đánh giá của các sử gia, việc nhà Trần lên thay nhà Lý vào đầu thế kỷ 13 là cần thiết và kịp thời cho sự phục hưng nước Đại Việt bị suy yếu nghiêm trọng cuối thời nhà Lý. Nếu không có sự xuất hiện của nhà Trần, nước Đại Việt sẽ khó tồn tại trong cảnh cát cứ (Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng) bên trong và họa Mông - Nguyên bên ngoài như các nước Đại Lý, Nam Tống láng giềng. Nguyên nhân cơ bản nhất cho những thành công của nhà Trần là chính sách đoàn kết nội bộ của những người lãnh đạo. Dù trong hoàng tộc nhà Trần có những người phản bội theo nhà Nguyên nhưng nước Đại Việt không bị mất, nhờ sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.[4] Còn một nguyên nhân nữa phải kể tới trong thành công của nhà Trần là đội ngũ tướng lĩnh xuất sắc, nòng cốt lại chính là các tướng trong hoàng tộc nhà Trần. Dù xuất thân quyền quý nhưng các hoàng tử, thân tộc nhà Trần, ngoài lòng yêu nước - và bảo vệ quyền lợi dòng tộc - số lớn là những người có thực tài cả văn lẫn võ. Thật hiếm dòng họ cai trị nào có nhiều nhân tài nổi bật và nhiều chiến công như nhà Trần, đặc biệt là thế hệ thứ hai: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam. Đó là chưa kể tới Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản...[5] Mông - Nguyên đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mông bại trận lúc đó như Ai Cập quá xa xôi, Nhật Bản và Indonesia đều có biển cả ngăn cách và quân Mông cũng không có sở trường đánh thủy quân nên mới bị thua trận. Thế nhưng nước Đại Việt lúc đó nằm liền kề trên đại lục Trung Hoa, chung đường biên giới cả ngàn dặm với người Mông mà người Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc đã nằm trùm cả đại lục Á-Âu mà không lấy nổi một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Có so sánh tương quan lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với những quốc gia làm được điều tương tự mới thấy được sự vĩ đại của chiến công 3 lần đánh đuổi Mông - Nguyên của nhà Trần. Về hậu kỳ nhà TrầnSửa đổiNhìn chung, triều Trần có thể chia ba thời kỳ: thời thứ nhất từ Thái Tông đến Nhân Tông là thời xây dựng và chống Mông-Nguyên, thời thứ hai từ Anh Tông đến Hiến Tông (có thượng hoàng Minh Tông) là thời kế tục, thời thứ ba từ Dụ Tông (sau khi thượng hoàng Minh Tông mất) tới khi kết thúc là thời suy tàn. Để tránh "họa ngoại thích", nhà Trần chủ trương chính sách "hôn nhân nội tộc". Chính sự nhà Trần bắt đầu suy từ đời vua Trần Dụ Tông thích xa hoa hưởng lạc, xa lánh lương thần, tin dùng gian thần. Nhưng đó đơn giản chỉ là sự hưởng thụ như Lý Cao Tông trước đây mà thôi. Tới các đời sau, đặc biệt là Trần Nghệ Tông và Trần Phế Đế (Đế Hiện), có hàng loạt biểu hiện của sự mê muội, u tối của người cầm quyền. Trần Nghệ Tông tin dùng một mình Hồ Quý Ly, nghe lời Quý Ly sát hại hàng loạt con cháu, người thân tộc họ Trần. Nhiều hành động của Nghệ Tông như thể để "dọn đường" cho Quý Ly cướp ngôi nhà Trần sau này. Thời kỳ Nghệ Tông trở về sau, vấn đề chống Chiêm Thành là lớn nhất, vậy mà một Quý Ly luôn chạy dài trước những đợt tấn công của địch, không hề lập được công bao giờ, lại vẫn được tin dùng đến như vậy. Còn Nghệ Tông đối với Đỗ Tử Bình, gian thần xảo trá gây ra cái chết của Trần Duệ Tông, không những không trừng trị đích đáng mà còn nhiều lần thăng lên làm đại thần cấp cao hơn trước, khi chết (1382) còn được truy tặng gia phong. Những hành động tối tăm, mê muội đó phải chăng là sản phẩm của sự "thoái hóa giống nòi" do "hôn nhân nội tộc" nhiều đời gây ra? Những lần tiếm quyền, thoán ngôi khác trong lịch sử Việt Nam như Dương (Tam Kha) đoạt Ngô, Tiền Lê đoạt Đinh, Trần đoạt Lý, Mạc cướp Lê, Trịnh át Lê đều là "cường thần hiếp chúa". Quan hệ giữa Quý Ly với Nghệ Tông, Tử Bình với Đế Hiện không thể như Trần Thủ Độ với Lý Huệ Tông, Mạc Đăng Dung với Lê Cung Hoàng... Việc dung túng cho cấp dưới, những kẻ trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của dòng tộc mình mà vẫn "không hay biết" như các vua Trần quả là hiếm có.[6] Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không biết chiêu mộ nhân tài; lực lượng quan lại đều kém tài. Nếu thế hệ trước thắng Mông-Nguyên khổng lồ một cách oai hùng bao nhiêu thì đời con cháu lại thất bại và phải chạy trốn một Chiêm Thành nhỏ bé, từng núp bóng mình trong chiến tranh chống Nguyên Mông xưa kia. Tới lúc bị Chiêm Thành xâm lấn, không hề có một gương mặt nào của dòng họ Trần đứng ra chống được giặc mà phải dựa vào một tướng ngoài hoàng tộc (Trần Khát Chân vốn mang họ Lê). Nếu trong tông thất nhà Trần thời kỳ sau có những nhân tài như giai đoạn đầu thì dù Quý Ly có manh tâm cũng không thể tính chuyện cướp ngôi. Nhà Trần trượt dốc từ Trần Dụ Tông, sau sự kiện Dương Nhật Lễ và cái chết của Duệ Tông đã không gượng dậy được nữa. Đó chính là thời cơ cho Hồ Quý Ly làm việc chuyên quyền và chiếm lấy ngôi nhà Trần.[7] Dù sao, nhà Trần vẫn là một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Trang sử về nhà Trần trong sử sách nằm trong số những trang sáng nhất và để lại nhiều bài học cho đời sau. Ý nghĩa thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 8 năm 2021 Đại tá, PGS, TS Hà Trọng Thà Phó Trưởng Phòng Chính trị, T04 Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước nhảy vọt về chất của cách mạng Việt Nam. Đó là một trong những trang vàng chói lọi trong lịch sử của dân tộc ta, một dấu mốc lớn trên con đường phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Thời gian đã lùi xa, đến nay đã là 76 năm (19/8/1945-19/8/2021), nhưng tầm vóc ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị và ngày càng tỏa sáng. Nhân dịp kỷ niệm 76 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945-19/8/2021) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2021), Trang Thông tin điện tử trân trọng giới thiệu bài viết của Đại tá, PGS. TS Hà Trọng Thà, P. Trưởng phòng Chính trị cùng bạn đọc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là trang sử vàng chói lọi trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chống quân xâm lược. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám có ý nghĩa to lớn đối với dân tộc Việt Nam và nhân loại. 1. Ý nghĩa thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Một là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã làm nên một sự kiện “long trời, lở đất”, chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cách mạng Tháng Tám đã mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Đánh giá về ý nghĩa lớn lao này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta” [5]. Tiếp tục nhấn mạnh ý nghĩa to lớn đó, trong Bài phát biểu tại khóa họp Xô viết Tối cao Liên Xô nhân kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười, ngày 6/11/1957, Người tự hào khẳng định: “Năm 1945, nhân dân Việt Nam đã làm Cách mạng Tháng Tám, đánh đuổi bọn thực dân ra khỏi đất nước và xây dựng chính quyền nhân dân. Đó là một bước ngoặt trong lịch sử của dân tộc chúng tôi” [6]. Thắng lợi của Cách mạng Tháng tám mở kỷ nguyên độc lập với sự kiện lần đầu tiên tên nước Việt Nam có tên bản đồ thế giới. Cũng từ đó, dân tộc ta đã mở ra mối quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới với tư cách và vị thế của một quốc gia - dân tộc có độc lập, có chủ quyền. Hai là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một mặt, đã góp phần đánh bại tàn dư của chế độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít ở Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới. Về vấn đề này, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc nhân dịp Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, ngày 19/8/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mạng Tháng Tám đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân” [4]. Mặt khác, đối với công cuộc xây dựng một chế độ xã hội mới, kết quả mà Cách mạng Tháng Tám mang lại thể hiện sự khác hẳn về chất so với chế độ cũ (phong kiến, thực dân và đế quốc), như Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Cách mạng Tháng Tám đã xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hòa và thống nhất độc lập” [4]. Ba là, Cách mạng Tháng Tám khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, ngày 03/02/1930, Đảng ta đã đề ra đường lối đúng đắn với mục tiêu xuyên suốt của sự nghiệp cách mạng là giải phóng dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần tích cực vào phong trào cách mạng thế giới. Vì thế, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối. Chỉ trong vòng 15 năm (1930 - 1945), Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng: cao trào cách mạng 1930 - 1931, với đỉnh cao là phong trào Xôviết - Nghệ Tĩnh; cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945). Tháng 8/1945, với nghệ thuật lãnh đạo tài tình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chớp thời cơ thuận lợi nhất, lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành tổng khởi nghĩa, đánh đổ đế quốc phong kiến, thành lập nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã đưa Đảng ta từ chỗ phải hoạt động bí mật, không hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai. Trong bài viết Cách mạng tháng Mười Nga mở đường giải phóng cho các dân tộc trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thực tiễn ở Việt Nam đã chứng tỏ rằng nhờ có sự lãnh đạo của đảng Mác - Lênin mà cách mạng đã thu được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội” [7]. Bốn là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về chất trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do hướng tới chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã tạo bước ngoặt cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; là một chế độ xã hội mới mẻ hoàn toàn đối với dân tộc Việt Nam, hiện hữu đầy đủ bản chất dân chủ, nhân văn vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là động lực mạnh mẽ cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đưa nước ta phát triển để “có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [2]. Năm là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác - Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Thắng của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh tính cách mạng, khoa học của học thuyết Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; là sự tiếp nối và là thắng lợi tất yếu sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại năm 1917. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh sự đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa, đã chứng minh sự đúng đắn của con đường của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại đã vạch ra” [6]. Bên cạnh đó, Cách mạng Tháng Tám còn là minh chứng hùng hồn về sự thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh khi vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh rằng, cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng đó quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản ở “chính quốc”, nhưng không lệ thuộc vào cách mạng ở “chính quốc”. Trái lại, nó có thể giành được thắng lợi trước khi giai cấp công nhân “chính quốc” lên nắm chính quyền. Sáu là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Cách mạng Tháng Tám là tấm gương, là nguồn cổ vũ cho các quốc gia - dân tộc đang mất độc lập, tự do ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, nhất là các nước láng giềng noi theo. Khẳng định vị thế, giá trị thời đại của thắng lợi này, Chủ tich Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới. Cách mạng Tháng Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào. Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân hai nước Miên, Lào cùng nổi lên chống đế quốc và đòi độc lập” [5]. Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cùng với Liên Xô, các lực lượng tiến bộ trên thế giới và quân đồng minh đánh đổ chủ nghĩa thực phát xít, giữ vững hòa bình cho khu vực và trên thế giới. Do đó, chiến thắng của Cách mạng Tháng Tám cũng là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lại đánh giá của Báo Nhân dân Inđônêxia: “Chúng ta chỉ có thể bày tỏ sự kính trọng và lòng khâm phục cao nhất đối với nhân dân Việt Nam anh hùng... Với sự chiến đấu anh dũng của họ, nhân dân Việt Nam đã tự đặt mình lên vị trí vẻ vang nhất trên thế giới...” [8]. Khái quát đầy đủ ý nghĩa thắng lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc” [5]. Mít tinh Tổng Khởi nghĩa ở Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội, ngày 19/8/1945. Ảnh: Tư liệu - TTXVN 2. Bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, làm phong phú thêm hệ thống lý luận của cách mạng Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cách mạng nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: tuy hai nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước để chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc phát xít và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Hai là, thực hiện khởi nghĩa toàn dân trên nền tảng khối liên minh công - nông. Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết” [3], vì thế “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi” [3]. Thực tiễn đã chứng minh chân lý đó. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là kết quả cuộc đấu tranh của hơn 20 triệu người Việt Nam yêu nước là lực lượng cách mạng, trong đó động lực cách mạng là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Liên minh công - nông được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng, đến đỉnh cao là Tổng khởi nghĩa thì liên minh công - nông đã lớn mạnh vượt bậc. Dựa trên nền tảng của khối liên minh này, Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi. Mặt khác, trên cơ sở nhắm đúng mục tiêu chiến lược hàng đầu của cách mạng và khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc phát xít và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng. Nhờ vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu. Ba là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp. Nắm vững quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lênin: “bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới, bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị cứng đờ và chết” [1], Đảng ta đã kiên trì xây dựng lực lượng cách mạng, biết cách sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh phù hợp với từng hoàn cảnh, từng giai đoạn lịch sử, tập dượt đấu tranh từ thấp đến cao. Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó, vai trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Khi thời cơ đến, Đảng đã biết sử dụng tối đa sức mạnh cách mạng theo nguyên tắc “tập trung, thống nhất, kịp thời” đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân. Bốn là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, chọn đúng thời cơ. Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở nước ta để lãnh đạo, chỉ đạo Cách mạng Tháng Tám. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã vạch ra những điều kiện làm thời cơ cho tổng khởi nghĩa thắng lợi. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 03/1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi vào đêm 13/8/1945. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hơn hai triệu người đã bị chết đói...). Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Cách mạng Tháng Tám được một đảng tiên phong thật sự cách mạng lãnh đạo. Đảng ta là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, ngay từ đầu Đảng đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, không ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ trương của Đảng trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn bó với nhân dân. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đảng biết phát huy triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt trận để lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Đảng biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng đúng lúc; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng tiến lên giành và giữ chính quyền. Với những yếu tố như trên, nên tuy chỉ mới được tôi luyện qua 15 năm đấu tranh và mặc dù chỉ có 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và mang tầm vóc thời đại. Thực tiễn lãnh đạo của Đảng đã khẳng định rằng, một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ thì đảng có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên. Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn trong quá trình phát triển. Bên cạnh những thuận lợi, thì đất nước ta cũng đang gặp phải những khó khăn, trong đó có sự xuất hiện của dịch bệnh COVID - 19, đặc biệt là đợt bùng phát dịch bệnh lần thứ tư vẫn còn đang diễn biến hết sức phức tạp. Sự tác động của dịch bệnh đã làm đất nước ta phải chịu thiệt hại lớn. “Từ thành thị tới nông thôn, những con đường vắng người qua lại, những khu chợ sầm uất, sân bay, bến cảng, sân trường, nhà máy, xí nghiệp... náo nhiệt giờ lặng lẽ; trong khi đó bệnh viện, khu điều trị ở một số nơi có dịch lại trở nên đông đúc hơn bao giờ hết. Những chung cư, sân vận động, nhà thi đấu, ký túc xá, doanh trại quân đội bất đắc dĩ trở thành bệnh viện dã chiến, thành khu cách ly. Bao nhiêu cuộc hội ngộ, đoàn tụ vui buồn trở thành dang dở... Sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng tiêu cực, thu nhập, tích lũy của người dân giảm sút... Đám mây đen COVID - 19 đã phủ nghịch cảnh lên cuộc sống của chúng ta” [10]. Bên cạnh đó, thế giới đang bị khủng hoảng lớn về kinh tế và nhiều mặt khác, tình hình an ninh khu vực và thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo… Trước tình hình ấy, những bài học kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa tích cực đối với sự nghiệp đổi mới đất nước Việt Nam giai đoạn hiện nay, nhất là trong việc đối phó với dịch bệnh. Với phương châm “chống dịch như chống giặc”, chúng ta tin tưởng việc phát huy những bài học kinh nghiệm đã có được từ Cách mạng Tháng Tám sẽ góp phần giúp Việt Nam “đẩy lùi cho được đại dịch COVID - 19, “sớm đưa nước ta trở về “trạng thái bình thường mới”” [9] mà nhân dân cả nước đang mong đợi như đã từng mong đợi thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./. Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắtsau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Ảnh: TTXVN Tài liệu tham khảo: 1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.1, tr.25. 3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2. 4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5 5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7 6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.11 7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.13. 8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.14. 9. Phát biểu của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tại lễ công bố và trao quyết định của Chủ tịch nước bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ khóa XV, nhiệm kỳ 2021-2026. 10. Phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại lễ công bố và trao quyết định của Chủ tịch nước bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ khóa XV, nhiệm kỳ 2021-2026. Tin khácVận dụng Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị trong công tác giáo dục đào tạo tại Trường Đại học An ninh nhân dân(18/10/2020)Một số vấn đề đặt ra cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học của lực lượng Công an nhân dân theo tinh thần của Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về các chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 Thư viện ảnh
Những hình ảnh Trường Đại học ANND (1989-1995), Phân hiệu Đại học ANND (1995-2001), Phân hiệu Học viện ANND (2001-2003)Trường Đại học ANND (1989-1995), Phân hiệu Đại học ANND (1995-2001), Phân hiệu Học viện ANND (2001-2003) Lịch sử truyền thống Trường Đại học An ninh nhân dân giai đoạn 1984-1989Giai đoạn 1984-1989: Trường Cao đẳng An ninh nhân dân II Lịch sử truyền thống Trường Đại học An ninh nhân dân giai đoạn 1976-1984Giai đoạn 1976-1984: Trường Bổ túc sỹ quan Công an nhân dân Lịch sử truyền thống Trường Đại học An ninh nhân dân giai đoạn 1963-1976Giai đoạn 1963-1976: Trường An ninh Trung ương cục miền Nam Trong sạch đội ngũ để giữ trọn lời thềThư viện Video
videocam Trường Đại học An ninh nhân dân - Nơi ươm mầm sĩ quan an ninh tương laivideocam Phim Tư liệu: 75 năm - Một bản hùng caPhim Tư liệu “75 năm - một bản hùng ca” góp phần ôn lại cũng như phát huy truyền thống anh hùng 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng An ninh nhân dân. videocam Học viên Trường Đại học An ninh nhân dân đảm bảo trực tết và phòng chống dịch Covid-19Học viên các Trường CAND tham gia lực lượng ứng trực đảm bảo trực tết và phòng chống Covid-19 videocam Hành trình gian nan đưa thi thể Đại úy Trương Văn Thắng về nơi an nghỉHy sinh trong lúc ứng cứu người dân bị nước lũ cuốn trôi từ đêm ngày 17/10, tại xã Hướng Việt, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, đến tối ngày 20/10 các đồng đội mới có thể đưa đồng chí Đại úy Trương Văn Thắng về nơi an nghỉ. videocam Xây dựng Đảng bộ Công an Trung ương trong sạch, vững mạnhNâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, xây dựng đảng bộ thực sự trong sạch vững mạnh, là đảng bộ kiểu mẫu, tiêu biểu về phẩm chất, năng lực lãnh đạo các mặt công tác công an. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nướcThắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam đã biến lời tiên đoán sáng suốt và điều mong ước thiết tha của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành sự thật: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn".
Đánh giá về thắng lợi này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) cho rằng: "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc"2. Trải qua 21 năm chiến đấu, Nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới có quy mô lớn, dài ngày nhất, ác liệt và dã man nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Âm mưu của đế quốc Mỹ biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và chia cắt lâu dài đất nước ta đã bị đập tan. Thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước kết thúc quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà, mở ra bước ngoặt vĩ đại thiết lập quyền làm chủ của nhân dân trên toàn bộ đất nước, đưa cả nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi này, Nhân dân Việt Nam chứng minh trước toàn thế giới sự phá sản không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới. Cũng như trước đây, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược năm 1954 đã chứng minh với thế giới sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa thực dân cũ. Quân ngụy Sài Gòn - đội quân tay sai mạnh nhất được Mỹ dồn sức lực, tiền của nuôi dưỡng và bảo vệ bị tiêu diệt đã làm cho các đồng minh Mỹ ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La tinh bắt đầu mất lòng tin vào khả năng của Mỹ. Niềm tin về “tính bất khả chiến bại” của đế quốc Mỹ đã bị lung lay. Thắng lợi của Nhân dân Việt Nam đã đẩy lùi và làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, làm lung lay vị trí chính trị của Mỹ trên trường quốc tế làm phá sản "thần tượng Mỹ” và tâm lý phục Mỹ, sợ Mỹ - tên đế quốc hùng mạnh nhất và tên sen đầm quốc tế hung ác nhất. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của ba dòng thác cách mạng của thời đại đem lại lòng tin và niềm phấn khởi của hàng triệu người dân trên thế giới đang đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ lịch sử 200 năm của Hoa Kỳ, đây là thất bại lớn nhất. Đế quốc Mỹ bị suy yếu nghiêm trọng về quân sự, chính trị, kinh tế và còn phải tiếp tục gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề và lâu dài. Vết thương nhức nhối mà đế quốc Mỹ gọi là "hội chứng Việt Nam" đã dằn vặt giai cấp thống trị và cả nhân dân Mỹ trong nhiều năm cho đến nay vẫn chưa lành. Chiến tranh Việt Nam làm cho nhân dân Mỹ hiểu thêm những bệnh hoạn và mâu thuẫn vốn có của xã hội tư bản. Thời kỳ sau Việt Nam, đế quốc Mỹ buộc phải điều chỉnh chiến lược toàn cầu, chuyển sang chiến lược "diễn biến hòa bình" gây đủ mọi sức ép nhằm phá hoại phong trào giải phóng dân tộc, phá hoại Liên Xô, Đông Âu, hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản quốc tế từ trong lòng các phong trào và các nước đó. Tất cả những điều đó nói lên tầm quan trọng quốc tế và tính thời đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược mà cả loài người tiến bộ, những ai có lương tri đều thừa nhận, dù Nhà Trắng và Lầu Năm Góc có tìm trăm phương nghìn kế để xóa bỏ cũng uổng công, dù năm tháng đã trôi qua nhưng sự thật lịch sử vẫn là sự thật. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã để lại những bài học quý giá trong lịch sử giữ nước: Một là, toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng nhằm mục tiêu chủ yếu là giải phóng miền Nam. Hai là, chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tạo ra sức mạnh tổng hợp của chiến tranh. Ba là, lựa chọn phương thức chiến tranh thích hợp. Bốn là, ba tầng mặt trận thống nhất chống Mỹ: ở trong nước, giữa ba nước Đông Dương và trên thế giới. Năm là, không ngừng nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh. 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, 2011, t.15. tr.618. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, t.37, tr.471. Theo Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 2018, tr. 330. |