Show
Trong bệnh đái tháo đường týp 1 (trước đây được gọi là khởi phát ở tuổi vị thành niên hoặc insulin phụ thuộc), sản xuất insulin không có do sự phá hủy tế bào beta tuyến tụy tự miễn có thể được kích hoạt do tiếp xúc với môi trường ở những người nhạy cảm về mặt di truyền. Phá hủy tiến triển dưới lâm sàng trong nhiều tháng, nhiều năm tới khi khối lượng tế bào beta giảm tới điểm mà nồng độ insulin không đủ để kiểm soát nồng độ glucose huyết tương. Đái tháo đường típ 1 thường phát triển ở trẻ em và thiếu niên và gần đây dạng phổ biến được chẩn đoán trước 30 tuổi; tuy nhiên cũng có thể phát triển ở người lớn (đái tháo đường tự miễn khởi phát muộn ở người lớn, bệnh thường xuất hiện như đái tháo đường típ 2). Một số trường hợp đái tháo đường típ 1, đặc biệt trong quần thể người không da trắng, không xuất hiện yếu tố tự miên trong tự nhiên và thường được cho là vô căn. Típ 1 chiếm khoảng < 10% bệnh nhân đái tháo đường.
Bệnh học của sự phá hủy tế bào beta tự miễn được hiểu biết không hoàn toàn, liên quan giữa gen nhạy cảm, tự kháng nguyên, và yếu tố môi trường.
Gen nhay cảm gồm gen trong phức hợp hòa hợp mô chính (MHC) - đặc biệtHLA-DR3,DQB1*0201 and HLA-DR4,DQB1*0302, chúng xuất hiện trong > 90% bệnh nhân đái tháo đường típ 1 và những gen ngoài MHC, điều hòa sản xuất và chế biến và vận chuyển insulin, nguy cơ đái tháo đường với gen MHC. Gen nhạy cảm thường phổ biến hơn ở 1 vài quần thể hơn quần thể khác và giải thích cho tỉ lệ đái tháo đường típ 1 cao hơn ở 1 số chủng tộc (Scandinavi, Sardinia).
Tự kháng thể gồm glutamic acid decarboxylase, insulin, proinsulin, protein liên quan u tiết insulin, Vận chuyển kẽm ZnT8, và protein khác trong tế bào beta. Người ta cho rằng các protein này đã bộc lộ hoặc phóng thích trong quá trình tái tạo tế bào beta hoặc tổn thương tế bào beta (vd, nhiễm trùng), kích hoạt đáp ứng miễn dịch trung gian qua tế bào T dẫn tới phá hủy tế bào beta. Tế bào alpha tiết glucagon duy trì không bị tổn thương. Kháng thể của tự kháng nguyên có thể phát hiện trong huyết thanh, dường như là phản ứng (không phải nguyên nhân) cho sự phá hủy tế bào beta.
Nhiều virus (gồm coxsackievirus, rubella virus, cytomegalovirus, Epstein-Barr virus,và retroviruses) có mối liên kết với khởi phát đái tháo đường típ 1. Các virus có thể trực tiếp nhiễm trùng và phá hủy tế bào beta hoặc có thể gây phá hủy tế bào beta gián tiếp qua tiếp xúc tự kháng nguyên, kích thích phả ứng tự động của lympho bào, giống hệt phân tử tự kháng nguyên, dẫn đến kích thích đáp ứng miễn dịch, (phân tử giống hệt) hoặc cơ chế khác.
Chế độ ăn có thể là 1 yếu tố. Phơi nhiễm của trẻ sơ sinh với sản phẩm hàng ngày (cụ thể sữa bò và sữa protein beta casein), nitrate cao trong nước uống, và vitamin D thấp có liên quan tới đái tháo đường típ 1. Tiếp xúc sớm (< 4 tháng) hoặc muộn (> 7 tháng) với gluten và ngũ cốc tăng sản xuất tự kháng thể đảo tụy. Cơ chế cho những liên quan này chưa rõ ràng.
Trong đái tháo đường típ 2 (trước gọi là khởi phát người lớn hoặc không phụ thuộcinsulin), insulin tiết không đủ vì bệnh nhân có tình trạng kháng với insulin. Gan khánginsulin dẫn tới không có khả năng ức chế gan sản xuất glucose, và kháng insulin ngoại vi làm giảm nhập glucose ở ngoại vi. Phối hợp này làm tăng đường máu lúc đói và sau ăn. Thường nồng độ insulin rất cao, đặc biệt giai đoạn sớm của bệnh. Giai đoạn muộn của đái tháo đường, sản xuất insulin có thể giảm,thêm nữa tăng đường máu trầm trọng hơn.
Bệnh thường khởi phát ở người lớn và trở nên phổ biến hơn cùng với sự già hóa; gần 1/3 người lớn > 65 tuổi có rối loạn dung nạp glucose. Ở người già, nồng độ glucose huyết tương cao sau khi ăn hơn ở người trẻ, đặc biệt sau bữa ăn có nhiều lượng carbonhydrate. Nồng độ glucose cũng có thể trở lại bình thường kéo dài hơn, một phần vì tăng tích lũy mỡ tạng và bụng và giảm khối lượng cơ.
Đái tháo đường típ 2 đang ngày càng phổ biến ở trẻ em vì béo phì ở trẻ em đang trở thành bệnh dịch. Hơn 90% người lớn có đái tháo đường là đái tháo đường típ 2. Có những yếu tố quyết định di truyền, đã được chứng minh bởi tỉ lệ đái tháo đường cao trong nhóm chủng tộc (đặc biệt Mĩ bản địa, Người Tây Ban Nha, và châu Á) và người thân của người mắc bệnh. Dù nhiêu gen đa hình đã được phát hiện qua nhiều năm trước, không có đơn gen nào chịu trách nhiệm cho hầu hết các dạng phổ biến của đái tháo đường típ 2 đã xác định.
Bệnh học phức tạp và chưa được hiểu biết hoàn toàn. Tăng đường máu phát triển khi tiết insulin không đáp ứng đủ so với kháng insulin. Dù kháng insulin là đặc điểm trong bệnh nhân đái tháo đường típ 2 và những người có nguy cơ, bằng chứng cũng cho thấy rối loạn chức năng tế bào beta và suy giảm tiếtinsulin, gồm suy giảm tiết insulin pha sớm đáp ứng với truyền glucose tĩnh mạch, mất nhịp tiết insulin bình thường, tăng tiết proinsulin báo hiệu suy giảm chế biến insulin và tích lũy polypeptide amyloid đảo tụy (một protein thường tiết với insulin). Bản thân tăng đường máu có thể suy giảm tiết insulin, vì nồng độ glucose máu cao làm giảm nhạy của tế bào beta, gây rối loạn chức năng tế bào beta (ngộ độc glucose), hoặc cả hai. Những thay đổi này mất nhiều năm phát triển với sự hiện diện của kháng insulin.
Béo phì và tăng cân có vai trò quan trọng của kháng insulin ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2. Chúng có yếu tố di truyền xác định nhưng cũng phản ánh chế độ ăn, luyện tập và lối sống. Không có khả năng ức chế ly giải tổ chức mỡ làm tăng axit béo tự do huyết thanh, làm giảm kích thích vận chuyển glucose của insulin và hoạt động tổng hợp glucogen ở cơ. Mô mỡ cũng có chức năng như một cơ quan nội tiết, giải phóng nhiều yếu tố (adipocytokines)có lợi (adiponectin) và bất lợi (yếu tố hoại tử u-alpha, IL-6, leptin, resistin) ảnh hưởng chuyển hóa glucose. Hạn chế phát triển trong tử cung và cân nặng sơ sinh thấp cũng liên quan tới kháng insulin sau này và có thể phản ảnh những bất lợi trước khi sinh đến môi trường trong chuyển hóa glucose.
Thể đái tháo đường khác chiếm tỉ lệ nhỏ gồm bất thường gen ảnh hưởng chức năng tế bào beta,hoạt động của insulin, và ADN ti thể (vd, đái tháo đường khởi phát người trẻ tuổi) ; bệnh tụy (vd, xơ nang, viêm tụy, nhiễm sắt, phẫu thuật cắt tụy); bệnh nội tiết (vd, Hội chứng cushing, to đầu chi); ngộ độc (vd, rodenticide pyriminyl [Vacor]); và thuốc liên quan tới đái tháo đường, hầu hết là glucocorticoid, chẹn beta, ức chế protease, và liệu pháp niacin. Mang thai gây kháng insulin ở tất cả phụ nữ nhưng chỉ một số phát triển đái tháo đường thai kì Đái tháo đường trong thai kỳ .
Hiện nay, tỷ lệ bị tiểu đường ở nước ta đang có xu hướng trẻ hóa. Bệnh ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe, cuộc sống sinh hoạt thường ngày và đặc biệt gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng. Vậy tiểu đường là bệnh gì, có đáng sợ không? Bài viết dưới đây sẽ chia sẻ đến bạn tất tần tật mọi thông tin liên quan. Hãy cùng tham khảo nhé! 1. Bệnh tiểu đường là gì?Sau khi ăn uống, lượng carbohydrates từ bữa ăn sẽ được chuyển hóa thành một loại đường glucose. Loại đường này được hấp thu tại ruột và hòa tan vào máu. Trong lúc này, tuyến tụy sẽ tiết ra một loại hoocmon có tên gọi là insulin, có tác dụng đưa glucose vào các tế bào để cung cấp năng lượng cho cơ thể. Nếu khả năng hoạt động của insulin gặp vấn đề hoặc lượng đường glucose trong cơ thể tăng lên quá mức vượt làm việc, khiến insulin không thể nào đáp ứng được. Khi đó, một lượng đường sẽ không chuyển hóa thành nguồn năng lượng cho cơ thể và bị dư thừa trong máu. Tình trạng lượng đường vượt quá tỷ lệ cho phép trong máu thì được gọi là Bệnh tiểu đường. Tiểu đường hay còn được gọi là đái tháo đường, là một bệnh rối loạn chuyển hóa carbohydrate. Bệnh chủ yếu do tuyến tụy sản xuất thiếu hoocmon insulin hoặc hoocmon này bị giảm khả năng tác động trong cơ thể, dẫn đến lượng đường trong máu luôn ở mức cao. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến các bệnh hiểm nghèo khác như: suy thận, mù mắt, tai biến mạch máu não, tim mạch vành,… Đái tháo đường xảy ra khi tình trạng lượng đường trong máu vượt quá tỷ lệ cho phép 2. Bạn đang bị tiểu đường loại nào?Thông thường, bệnh tiểu đường gồm 2 thể bệnh chính: Tiểu đường tuýp 1Tiểu đường tuýp 1 là bệnh do sự bất thường của tế bào β đảo Langerhans làm giảm tiết hormon insulin hoặc không tiết ra insulin gây nguy hiểm đến tính mạng. Phần lớn bệnh xảy ra ở trẻ em và người trẻ tuổi (dưới 20 tuổi) chiếm khoảng 5 - 10% tổng số người bị Đái tháo đường. Ở thể bệnh này, các triệu chứng thường xảy ra đột ngột và tiến triển nhanh, vì vậy có thể nhận biết được bệnh. Nguyên nhân: nguyên nhân của bệnh đái tháo đường loại 1 chưa được xác định rõ. Các bác sĩ cho rằng, nguyên nhân gây bệnh là chủ yếu do di truyền kết hợp với tác nhân môi trường. Bạn có nguy cơ bị bệnh cao nếu mẹ hoặc anh, chị, em của bạn bị đái tháo đường loại một. Bệnh tiểu đường tuýp 2Đây là thể bệnh phổ biến nhất, thường gặp ở những người trên 40 tuổi và đang có xu hướng trẻ hóa. Số ca bệnh ở thể này chiếm khoảng 90 - 95 % tổng số bệnh nhân bị đái tháo đường. Bệnh không biểu hiện triệu chứng cơ năng nên khó phát hiện. Ngoài hai thể bệnh chính trên, thì còn một thể bệnh chỉ xảy ra ở phụ nữ mang thai. Bệnh tiểu đường thai kỳĐây là tình trạng bất thường trong quá trình trao đổi carbohydrate. Tiểu đường thai kỳ sẽ hết ngay sau khi sinh con. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh có thể gây ra các tác động xấu, ảnh hưởng đến mẹ và bé. Nguyên nhân: Ở phụ nữ mang thai, nhau thai tạo ra các kích tố để giúp duy trì thai kỳ. Những kích tố này làm cho các tế bào có khả năng kháng insulin tốt hơn. Khi tuyến tụy không thể sản xuất đủ insulin để vượt qua sức đề kháng này, thì lượng đường tích tụ trong máu tăng lên dẫn đến tiểu đường trong thai kỳ. Tiểu đường khi mang thai có thể gặp phải các biến chứng ảnh hưởng đến mẹ và bé 3. Triệu chứng nhận biết bệnhDưới đây là một số triệu chứng điển hình của bệnh:
Ngoài ra, người bệnh còn có những biểu hiện như: khô miệng, buồn nôn, mờ mắt, chậm lành vết loét,… Để biết chắc chắn mình có bị bệnh hay không, bạn nên gặp bác sĩ và thực hiện các xét nghiệm. Bạn nên thực hiện các xét nghiệm để biết chắc chắn mình có bị đái tháo đường hay không 4. Biến chứng có thể xảy raNgười mắc bệnh tiểu đường càng lâu thì càng khó kiểm soát lượng đường có trong máu. Lúc này nguy cơ xảy ra các biến chứng tăng lên, chúng phát triển dần dần, nếu nặng có thể đe dọa đến tính mạng. Một số biến chứng có thể xảy ra đối với người bệnh đó là:
Các biến chứng có thể gặp khi bị bệnh tiểu đường Các biến chứng có thể gặp khi mang thai:
5. Điều trị bệnh tiểu đườngKhi phát hiện mình bị đái tháo đường, bạn cần đến bác sĩ để được thăm khám và có biện pháp điều trị kịp thời, tránh các biến chứng nguy hiểm. Nếu bạn bị tiểu đường tuýp 1, cơ thể không tự sản xuất insulin vì vậy bạn cần dùng chúng trong suốt quãng đời còn lại. Nếu bị tiểu đường tuýp 2, bạn cần đặc biệt chú ý đến chế độ ăn uống và luyện tập thể dục thường xuyên. Đồng thời, bạn cũng có thể sử dụng thuốc uống hoặc tiêm insulin, metformin để kiểm soát lượng đường trong máu. Để bệnh không tiến triển nặng hơn, người bệnh nên ăn nhiều những thực phẩm có hàm lượng đường thấp, ăn nhiều rau xanh, chia nhỏ bữa ăn. tập thể dục thường xuyên. Người bệnh nên ăn nhiều rau xanh và uống nhiều nước ép trái cây Khi bị bệnh tiểu đường, bạn nên hạn chế ăn những thực phẩm:
Bệnh tiểu đường có thể để lại nhiều biến chứng nguy hiểm. Vì vậy, nếu bạn nghi ngờ mình mắc phải chứng bệnh này thì nên tìm đến bác sĩ để thăm khám và có biện pháp chữa trị kịp thời. Ngoài ra, một chế độ ăn uống hợp lý, khoa học, tập luyện thể dục thường xuyên sẽ giúp bạn có một sức khỏe tốt, giúp phòng ngừa bệnh tốt hơn. |