Hoạt động ngân hàng được quản lý như thế nào

Căn cứ theo quy định tại quy định về an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành, có hiệu lực từ 01/01/2019, quản lý dịch vụ giao dịch trực tuyến được quy định như sau:

1. Yêu cầu đối với hệ thống thông tin của tổ chức thực hiện cung cấp dịch vụ giao dịch trực tuyến cho khách hàng:

  1. Bảo đảm tính toàn vẹn của dữ liệu trao đổi với khách hàng trong giao dịch trực tuyến;
  1. Dữ liệu trên đường truyền phải bảo đảm tính bí mật và phải được truyền đầy đủ, đúng địa chỉ và có biện pháp bảo vệ để tránh bị sửa đổi hoặc nhân bản trái phép;
  1. Đánh giá mức độ rủi ro trong giao dịch trực tuyến theo đối tượng khách hàng, loại giao dịch, hạn mức giao dịch để cung cấp giải pháp xác thực giao dịch phù hợp theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
  1. Trang thông tin điện tử giao dịch trực tuyến phải được áp dụng các biện pháp chứng thực chống giả mạo và ngăn chặn, chống sửa đổi trái phép.

2. Xác thực giao dịch của khách hàng phải được thực hiện trực tiếp tại hệ thống thông tin của tổ chức. Trường hợp tổ chức sử dụng dịch vụ xác thực của bên thứ ba thì tổ chức phải quản lý tối thiểu một yếu tố xác thực.

3. Hệ thống dịch vụ giao dịch trực tuyến phải được áp dụng các biện pháp để giám sát chặt chẽ và phát hiện, cảnh báo về:

  1. Giao dịch đáng ngờ dựa vào các tiêu chí tối thiểu gồm: thời gian giao dịch, địa điểm giao dịch (vị trí địa lý, địa chỉ IP mạng), tần suất giao dịch, số tiền giao dịch, số lần xác thực sai quy định;
  1. Hoạt động bất thường của hệ thống;
  1. Các cuộc tấn công từ chối dịch vụ (DoS - Denial of Service attack), tấn công từ chối dịch vụ phân tán (DDoS - Distributed Denial of Service attack).

4. Tổ chức hướng dẫn các biện pháp bảo đảm an toàn thông tin và cảnh báo rủi ro cho khách hàng trước khi tham gia sử dụng dịch vụ giao dịch trực tuyến và theo định kỳ.

5. Khi cung cấp phần mềm ứng dụng giao dịch trực tuyến trên Internet phải áp dụng các biện pháp bảo đảm tính toàn vẹn của phần mềm.

Trên đây là nội dung tư vấn về Quản lý dịch vụ giao dịch trực tuyến trong hoạt động ngân hàng . Để hiểu rõ và chi tiết hơn vui lòng tìm hiểu thêm tại Thông tư 18/2018/TT-NHNN. Mong là những thông tin chia sẻ trên đây sẽ giúp ích cho bạn.

(LSVN) - Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác nhằm mục tiêu lợi nhuận. Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Để các NHTMCP có thể tồn tại, phát triển và cung ứng nguồn vốn tốt cho nền kinh tế thì một trong những vấn đề cần quan tâm lớn nhất, đó là hoạt động quản trị. Hoạt động quản trị của NHTMCP được chú trọng và thực hiện hiệu quả sẽ góp phần giúp cho ngân hàng tránh được các rủi ro tiển ẩn trong quá trình hoạt động, giảm thiểu tình trạng mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán, không gây phương hại cho hoạt động tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung. Hoạt động quản trị trong NHTMCP là hết sức quan trọng. Vì vậy, việc nghiên cứu quy định pháp luật về quản trị tại NHTMCP ở Việt Nam là cần thiết.

Hoạt động ngân hàng được quản lý như thế nào

Ảnh minh họa.

Thực trạng pháp luật về quản trị tại NHTMCP ở Việt Nam

Theo quy định pháp luật hiện hành thì NHTMCP vừa đáp ứng các tiêu chuẩn chung về quản trị công ty được quy định trong Luật Doanh nghiệp, vừa thể hiện những nét riêng của quản trị công ty trong lĩnh vực ngân hàng được xem là lĩnh vực kinh doanh đặc biệt.

Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động của NHTMCP được điều chỉnh bởi Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 ( sau đây gọi là Luật Các tổ chức tín dụng) và văn bản dưới luật [1]. Bên cạnh đó, do NHTMCP cũng là công ty cổ phần nên quản trị trong NHTMCP cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật doanh nghiệp dưới phương diện là văn bản pháp luật chung về quản trị doanh nghiệp [2]. Đồng thời, các NHTMCP còn là công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán nên hoạt động quản trị của NHTMCP còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật chứng khoán [3].

Nhìn chung các quy định pháp luật hiện hành về quản trị NHTMCP ở Việt Nam là tương đối đầy đủ, cụ thể: Pháp luật đã lựa chọn mô hình tổ chức, quản lý, điều hành khá phù hợp; Có những quy định về bảo vệ lợi ích của cổ đông; Có những quy định cụ thể về tính công khai, minh bạch, hoạt động kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ… Tuy nhiên, khi nghiên cứu các quy định pháp luật về quản trị tại các NHTMCP cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập được thể hiện sau đây:

Thứ nhất, các quy định về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông chưa đầy đủ

Theo Luật Các tổ chức tín dụng, các quy định pháp luật về bảo vệ quyền và các lợi ích hợp pháp của cổ đông được thể hiện thông qua các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội đồng cổ đông. Theo đó, Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của NHTMCP. Đại hội đồng cổ đông có các nhiệm vụ, quyền hạn như thông qua định hướng phát triển, sửa đổi bổ sung điều lệ, quy định tổ chức hoạt động của Hội đồng quản trị, quyết định hoạt động kinh doanh trong NHTMCP. Người quản lý, điều hành NHTMCP trong hoạt động của mình phải thực hiện nhiệm vụ trung thực, cẩn trọng, công khai thông tin vì lợi ích của NHTMCP, cổ đông. Tuy nhiên, việc tổ chức, quản trị, điều hành trong NHTMCP vẫn còn thiếu các quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông như: Trong quá trình thực hiện chức năng người quản lý, điều hành của NHTMCP nhiều lúc còn “gian dối”, “bưng bít” thông tin, từ đó gây phương hại tới lợi ích của các cổ đông; Trình độ nhận thức của cổ đông chưa cao trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Đặc biệt, chưa có quy định pháp luật nào về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông dài hạn trong NHTMCP.

Thứ hai, các quy định về cách thức tổ chức quản trị nội bộ vẫn còn nhiều bất cập

Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Các tổ chức tín dụng thì NHTMCP có cơ cấu tổ chức quản lý bao gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc).

- Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của NHTMCP. Đại hội đồng cổ đông họp thường niên trong thời hạn 04 tháng, kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Đại hội đồng cổ đông họp bất thường theo quyết định triệu tập họp của Hội đồng quản trị trong các trường hợp cần thiết. Trường hợp xảy ra sự kiện ảnh hưởng đến an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng cổ phần, Ngân hàng Nhà nước có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị của tổ chức tín dụng cổ phần triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất thường và quyết định về nội dung Ngân hàng Nhà nước yêu cầu [4].

- Hội đồng quản trị của NHTMCP phải có không ít hơn 05 thành viên và không quá 11 thành viên, trong đó có ít nhất 01 thành viên độc lập. Hội đồng quản trị phải có ít nhất một phần hai tổng số thành viên là thành viên độc lập và thành viên không phải là người điều hành tổ chức tín dụng [5]. Cá nhân và người có liên quan của cá nhân đó hoặc những người đại diện vốn góp của một cổ đông là tổ chức và người có liên quan của những người này được tham gia Hội đồng quản trị, nhưng không được vượt quá một phần ba tổng số thành viên Hội đồng quản trị của một tổ chức tín dụng là công ty cổ phần, trừ trường hợp là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước [6]. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quản trị, quyền và nghĩa vụ của chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị được quy định tại Điều 63, 64, 65 Luật Các tổ chức tín dụng.

- Theo Điều 60 Luật Các tổ chức tín dụng, Tổng Giám đốc/Giám đốc NHTMCP do Hội đồng quản trị bổ nhiệm một trong số các thành viên của mình làm Tổng Giám đốc (Giám đốc) hoặc thuê Tổng Giám đốc (Giám đốc). Tổng Giám đốc (Giám đốc) là người điều hành cao nhất của tổ chức tín dụng, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Tổng Giám đốc (Giám đốc) phải có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện như: Không thuộc đối tượng không được đảm nhiệm chức vụ; Có đạo đức nghề nghiệp; Có bằng đại học trở lên về một trong các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, luật; Có ít nhất 05 năm làm người điều hành của tổ chức tín dụng hoặc có ít nhất 05 năm làm Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (phó Giám đốc) doanh nghiệp...

- Ban kiểm soát thực hiện kiểm toán nội bộ, kiểm soát, đánh giá việc chấp hành quy định của pháp luật, quy định nội bộ, điều lệ và nghị quyết, quyết định của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị. Ban kiểm soát của tổ chức tín dụng có ít nhất 03 thành viên, số lượng cụ thể do điều lệ của tổ chức tín dụng quy định, trong đó phải có ít nhất một phần hai tổng số thành viên là thành viên chuyên trách, không đồng thời đảm nhiệm chức vụ, công việc khác tại tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp khác. Ban kiểm soát có bộ phận giúp việc, bộ phận kiểm toán nội bộ, được sử dụng các nguồn lực của tổ chức tín dụng, được thuê chuyên gia và tổ chức bên ngoài để thực hiện nhiệm vụ của mình. Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 45 Luật Các tổ chức tín dụng.

Như vậy, các quy định về cách thức tổ chức quản trị nội bộ tại các NHTMCP khá đầy đủ, phân định được nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bộ phận hợp thành trong tổ chức quản trị nội bộ. Tuy nhiên, các quy định về cách thức tổ chức quản trị nội bộ trong các NHTMCP vẫn còn một số vấn đề cần được xem xét, cụ thể:

Một là, trong tổ chức và hoạt động của Hội đồng quản trị,pháp luật mới chỉ quy định tối thiểu 01 thành viên Hội đồng quản trị độc lập trong cơ cấu thành viên Hội đồng quản trị của ngân hàng thương mại. Con số này là khiêm tốn khi so sánh với pháp luật các quốc gia khác [7]. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng chưa có cơ chế kiểm tra tính độc lập của các thành viên Hội đồng quản trị độc lập sau khi họ được bổ nhiệm.

Hai là, về nhiệm vụ quyền hạn của Ban kiểm soát trong NHTMCP. Ban kiểm soát có nhiệm vụ chính là kiểm toán nội bộ, kiểm soát, đánh giá việc chấp hành quy định pháp luật của ngân hàng. Tuy nhiên, các thành viên trong Ban kiểm soát của NHTMCP không được tham gia điều hành hoạt động trong ngân hàng, nên thực tế hoạt động kiểm soát chỉ mang tính hình thức, không đánh giá đúng bản chất hoạt động giám sát khi tiến hành việc kiểm soát. Các thành viên Ban kiểm soát nhiều lúc bị tác động bởi Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc của ngân hàng nên các quyết định mà Ban kiểm soát đưa ra không thể hiện sự khách quan.

Ba là, chuẩn mực văn hóa doanh nghiệp và đạo đức kinh doanh của người quản lý, người điều hành trong NHTMCP chưa được xác định cụ thể. Mặc dù pháp luật hiện hành có quy định tiêu chuẩn, điều kiện đối với người quản lý, người điều hành trong NHTMCP phải có “đạo đức nghề nghiệp” [8]. Tuy nhiên, thế nào là “đạo đức nghề nghiệp” thì các quy định pháp luật hiện hành chưa xác định cụ thể. Điều này đã tạo kẽ hở cho việc lựa chọn người không đủ phẩm chất vào vị trí người lãnh đạo, điều hành NHTMCP, dẫn đến các vụ việc như của ACB, OceanBank, VNCB, GPBank, Sacombank, Đông Á Bank [9]…

Thứ ba, quy định pháp luật về kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ chưa thực sự đầy đủ

Để bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro các NTTMCP phải xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ [10]. Bên cạnh đó, NHTMCP còn phải thành lập kiểm toán nội bộ nhằm thực hiện rà soát, đánh giá độc lập, khách quan đối với hệ thống kiểm soát nội bộ, tuân thủ chính sách nội bộ…[11]. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều NHTMCP thực hiện chưa tốt quy định này dẫn đến xảy ra nhiều sai phạm gây thất thoát tài sản của ngân hàng [12]. Nguyên nhân dẫn đến bất cập này là do chúng ta chưa thiết lập được cơ chế kiểm soát từ phía Ngân hàng Nhà nước để bảo đảm cho các NHTMCP tuân thủ đầy đủ quy định pháp luật về hoạt động kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ, từ đó giảm thiểu rủi ro hoạt động cho ngân hàng.

Thứ tư, mức độ trung thực trong việc công bố thông tin và minh bạch hóa hoạt động của các NHTMCP chưa cao

Nhìn chung quy định pháp luật tương đối đầy đủ các thông tin mà NHTMCP bắt buộc phải công bố, báo cáo như về quản lý, hoạt động, tài chính... Tuy nhiên, trong số các thông tin này chưa có cơ chế bảo đảm tính trung thực của thông tin công bố nên các nhà đầu tư rất khó xác minh chính xác để đầu tư. Mặc dù có quy định Ngân hàng Nhà nước có chức năng giám sát các báo cáo, các thông tin được công bố bởi NHTMCP [13].

Thứ năm, quy định về giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động quản trị NHTMCP không còn phù hợp

Đối với hoạt động quản trị NHTMCP, việc giám sát đối với người quản lý, điều hành là rất cần thiết vì thông qua hoạt động giám sát, cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng có thể phát hiện được những sai sót trong quá trình thực thi các nghiệp vụ; phòng ngừa, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật để áp dụng biện pháp xử lý, phòng ngừa hiệu quả. Do đó, nâng cao năng lực cho cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng là một trong những điều kiện góp phần thiết lập và duy trì có hiệu quả khuôn khổ quản trị NHTM hiện đại, chuyên nghiệp và tăng cường tính minh bạch trong thực tiễn thực hiện trách nhiệm của người quản lý điều hành NHTMCP. Tuy nhiên, hiện nay cơ quan thanh tra giám sát thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lại áp dụng phương pháp “giám sát tuân thủ” với các nội dung giám sát theo các quyết định vẫn đang có hiệu lực đã tỏ ra kém hiệu quả và không theo kịp với sự phát triển của hệ thống ngân hàng cũng như không phù hợp với thông lệ quốc tế [14].

Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị NHTMCP ở Việt Nam

Trên cơ sở các hạn chế, bất cập nêu trên, để bảo đảm nâng cao chất lượng về quản trị tại các NHTMCP cần:

(1) Liên quan đến quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông cần bổ sung các quy định sau:

- Bổ sung quyền phản đối, yêu cầu hủy bỏ những quyết định làm thay đổi lớn đến cấu trúc của NHTMCP trong nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội đồng cổ đông. Theo đó, các cổ đông với tổng số cổ phần nhất định (05% tổng số cổ phần) có quyền yêu cầu tòa án xem xét hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông có ảnh hưởng nghiêm trọng đến cấu trúc của ngân hàng.

- Bổ sung quyền yêu cầu và trực tiếp tiếp cận, điều tra sổ sách của NHTMCP. Theo đó, nhóm cổ đông có tổng số cổ phần nhất định (10% tổng số cổ phần) có quyền yêu cầu ngân hàng cho phép trực tiếp điều tra sổ sách khi thấy có dấu hiệu vi phạm.

- Bổ sung quyền cho các cổ đông cam kết nắm giữ cổ phiếu ngân hàng trên 05 năm sẽ được hưởng các ưu đãi hơn so với các cổ đông khác.

(2) Liên quan đến quản trị nội bộ của NHTMCP cần sửa đổi, bổ sung các quy định sau:

- Hội đồng quản trị của NHTMCP phải nâng số lượng thành viên độc lập từ 01 người lên 02 người. Đồng thời, Hội đồng quản trị phải có nghĩa vụ xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của thành viên Hội đồng quản trị, những người lãnh đạo, điều hành trong NHTMCP.

- Đối với Ban kiểm soát, Luật Các tổ chức tín dụng cần bổ sung thêm quyền của Ban kiểm soát trong việc quản lý nhân sự thuộc bộ phận kiểm toán nội bộ [15] nhằm tăng cường vai trò của Ban kiểm soát khi kiểm tra, giám sát các định hướng, chỉ đạo điều hành của Ngân hàng Nhà nước, Nghị quyết của Hội đồng quản trị… Bên cạnh đó, phải nâng cao tính khách quan, độc lập của Ban kiểm soát.

(3) Liên quan đến các quy định về kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ, cần bổ sung thêm các quy định xác định cụ thể hơn nữa trách nhiệm của NHTMCP trong kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ.

(4) Các NHTMCP bắt buộc phải công bố các thông tin tài chính, kinh doanh, chính sách rủi ro, mức độ chấp nhận rủi ro và chịu trách nhiệm các thông tin công bố trong hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư.

(5) Cần có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan giám sát tại các NHTMCP theo hướng nâng cao hơn nữa vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thanh tra giám sát hoạt động của các NHTMCP, bao gồm cả hoạt động quản trị. Cơ quan thanh tra giám sát cần thay đổi bộ tiêu chuẩn giám sát ở Việt Nam bằng việc đẩy mạnh thực hiện theo bộ 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng của Ủy ban Basel.

(6) Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quản trị tại các NHTMCP như: Ban hành luật quản trị công ty; Nâng cao nhận thức của cổ đông; Nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ thanh tra giám sát ngân hàng; Áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản trị ngân hàng.

Có thể thấy, quản trị tại các NHTMCP là một trong những hoạt động đóng vai trò quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của NHTMCP nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Do vậy, nếu những quy định trong hoạt động quản trị NHTMCP có những bất cập, hạn chế thì sẽ làm ảnh hưởng đến tính hiệu quả của công tác quản trị và hoạt động của chính NHTMCP. Vì vậy, việc đánh giá, xác định hạn chế, bất cập và đưa ra kiến nghị giải pháp nhằm góp phần bảo đảm các quy định pháp luật ngày càng hoàn thiện và góp phần tác động tích cực vào hoạt động của NHTMCP, để nó thực sự là kênh trung gian tài chính tốt, đáp ứng được nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.

\=====================

[1] Xem Thông tư 06/2010/TT-NHNNVN hướng dẫn về tổ chức, quản trị, điều hành, vốn điều lệ, chuyển nhượng cổ phần, bổ sung, sửa đổi giấy phép, điều lệ của ngân hàng thương mại.

[2] Xem Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[3] Xem Luật Chứng khoán 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2010 và Nghị định 71/2017/NĐ-CP hướng dẫn về quản trị công ty áp dụng với công ty đại chúng.

[4] Xem Điều 60 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.

[5] Xem khoản 1 Điều 62 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.

[6] Xem Khoản 2 Điều 62 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.

[7] Nguyễn Ngọc Cường, Pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Nam.

[8] Điểm b khoản 1 Điều 50 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.

[9] Kim Yến, Đạo đức nghề nghiệp và những cú “trượt chân” của chủ ngân hàng, đăng trên http://cafebiz.vn/nhan-vat/dao-duc-nghe-nghiep-va-nhung-cu-truot-chan-cua-chu-ngan-hang-

[10] Xem Điều 40 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.

[11] Xem Điều 41 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.

[12] Những vụ việc xảy ra gần đây ở rất nhiều NHTMCP hầu như đều xuất phát từ tính kém hiệu quả của hoạt động kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ như vụ việc lên quan đến sai phạm tại Ngân hàng Đông Á của ông Trần Phương Bình, các vụ việc liên quan đến Huỳnh Thị Huyền Như của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam…

[13] Xem Điều 55, Điều 58 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.

[14] Nguyễn Thị Huê, Hoàn thiện hoạt động giám sát và thanh tra của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với các ngân hàng thương mại.

[15] Theo khoản 2 Điều 45 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Ban kiểm soát có nhiệm vụ và quyền hạn: Ban hành quy định nội bộ của Ban kiểm soát; Định kỳ hằng năm xem xét lại quy định nội bộ của Ban kiểm soát, các chính sách quan trọng về kế toán và báo cáo.