Latency arbitrage là gì trong kinh doanh ngoại hối năm 2024

Một nghiệp vụ ứng dụng của nghiệp vụ giao ngay là kinh doanh chênh lệch giá giao ngay. Nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá là nghiệp vụ thực hiện việc mua một đồng tiền ở nơi giá thấp và bán lại ở nơi giá cao hơn (hoặc ngược lại) tại cùng một thời điểm để thu lợi nhuận từ chênh lệch giá hoặc ngược lại.

Mức giá giữa các thị trường giao ngay chênh lệch tạo ra cơ hội kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường giao ngay. Vì vậy có thể xem nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá là một ứng dụng của nghiệp vụ hối đoái giao ngay. Về mặt lý thuyết thì kinh doanh chênh lệch tỷ giá không hề chịu rủi ro tỷ giá và không phải bỏ vốn. Lưu ý rằng, nghiệp vụ Arbitrage không tạo ra trạng thái trường hay đoản và rủi ro trong kinh doanh không hề phát sinh.

Ngày nay, với sự hỗ trợ đắc lực của kỹ thuật truyền thông và phương tiện điện tử, một ngân hàng có thể kiểm soát hầu hết tất cả tỷ giá giữa USD và với các đồng tiền mạnh ở tất cả các trung tâm giao dịch quốc tế như New York, London, Frankfurt, Paris, Tokyo,… Mọi diễn biến của thị trường đều được cập nhật và các thị trường hoạt động ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau và trở nên rất hiệu quả. Do vậy, chênh lệch tỷ giá giữa các nơi hầu như không còn hoặc nếu có thì cũng rất ít và cũng chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, sau đó cũng lập được sự cân bằng bằng sự điều chỉnh cung cầu của thị trường.

Các loại nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá (Arbitrage)

Có 3 hình thức Arbitrage khác nhau:

- Arbitrage địa phương (Locational arbitrage) có thể xảy ra nếu có những thông báo niêm yết tỷ giá khác nhau trong cùng địa phương.

Hoạt động Arbitrage địa phương có thể được thực hiện nếu 2 ngân hàng khác nhau trong cùng địa phương yết tỷ giá có sự chênh lệch: tỷ giá mua của ngân hàng thứ nhất lớn hơn tỷ giá bán của ngân hàng thứ 2. Ngay lúc đó, các nhà kinh doanh có thể tận dụng cơ hội này để kinh doanh chênh lệch tỷ giá (mua ở ngân hàng này và bán lại ở ngân hàng kia). Khi các ngân hàng đã nhận thấy tình hình yết tỷ giá không thống nhất thì ngay lập tức một hoặc cả hai ngân hàng sẽ điều chỉnh tỷ giá mua bán của mình. Tỷ giá sẽ được điều chỉnh lại ở các ngân hàng và khi đó Arbitrage không còn khả thi nữa. Hoạt động này làm cho bất kỳ tỷ giá nào cũng sẽ giống nhau giữa các ngân hàng. Lưu ý rằng nghiệp vụ Arbitrage không tạo ra trạng thái ngoại hối trường hay đoản và không phát sinh rủi ro trong kinh doanh.

Ví dụ

Giả sử tại ngân hàng A, và B trong cùng địa phương niêm yết tỷ giá giữa đồng bảng Anh và đôla Mỹ như sau:

Ngân hàng A: GBP/USD = 1,6123/25

Ngân hàng B: GBP/USD = 1,6126/28

Tỷ giá mua vào của ngân hàng B là 1,6126 lớn hơn tỷ giá bán ra của ngân hàng A là 1,6125. Cơ hội kinh doanh Arbitrage địa phương xuất hiện và được thực hiện theo các bước như sau:

° Mua đồng bảng Anh ở ngân hàng A theo tỷ giá ASK GBP/USD = 1,6125.

° Bán đồng bảng Anh ở ngân hàng B theo tỷ giá BID GBP/USD = 1,6126

\=> Lợi nhuận thu được trên 1 GBP từ nghiệp vụ Arbitrage:

1,6126 - 1,6125 = 0,001 USD

- Arbitrage ba bên (Triangular arbitrage) có thể xảy ra nếu có sự khác biệt trong tỷ giá chéo.

Hoạt động Arbitrage bai bên có liên hệ với tỷ giá chéo. Nếu tỷ giá chéo thực giữa hai đồng tiền này khác với tỷ giá chéo thích hợp thì xuất hiện Arbitrage ba bên. Hoạt động của Arbitrage ba bên sẽ làm cho tỷ giá chéo điều chỉnh lại và khi đó Arbitrage ba bên sẽ không còn khả thi nữa. Cũng giống như Arbitrage địa phương, Arbitrage ba bên không cột chặt vốn và cũng không rủi ro vì giá cả đã được xác định chắc chắn tại lúc mua hoặc bán tiền. Arbitrage ba bên thường không phải là một chiến lược mà hầu hết chúng ta có thể kiếm lời, chỉ những nhà mua bán tiền tệ chuyên nghiệp với những kỹ thuật công nghệ mới có thể phát hiện những sai lệch trong tỷ giá chéo. Mấu chốt của vấn đề là do tỷ giá chéo luôn luôn được điều chỉnh một cách chính xác. Nếu không đúng như thế, Arbitrage ba bên sẽ xảy ra cho đến khi tỷ giá được điều chỉnh một cách chính xác. Mục đích của hoạt động này là tìm lợi nhuận thông qua loại tiền thứ hai và thứ ba, khi tỷ giá trực tiếp giữa hai loại tiền này không tương xứng với tỷ giá chéo. Hoạt động này làm cho tỷ giá chéo niêm yết được định giá một cách thích hợp.

Ví dụ

Giả sử trên thị trường hối đoái quốc tế có các tỷ giá như sau:

Thị trường

Tỷ giá

BID

ASK

New York

GBP/USD

1,7121

1,7179

Zurich

USD/CHF

6,2181

6,2242

London

GBP/CHF

11,64

11,68

Dựa vào tỷ giá niêm yết ở hai thị trường Zurich và London, ta có thể xác định được tỷ giá chéo GBP/USD:

GBP/USD = 1,8701/84

Như vậy, so với tỷ giá được niêm yết tại thị trường New York, ta có thể thấy xuất hiện cơ hội Arbitrage ba bên. Để khai thác cơ hội này, nhà kinh doanh thực hiện các giao dịch như sau:

° Dùng 1.000.000 USD đang có để mua GBP ở New York theo tỷ giá ASKGBP/USD = 1,7179, thu được:

1.000.000 : 1,7179 = 582.106,06 (GBP)

° Bán 582.106,06 GBP thu được để lấy về CHF ở London theo tỷ giá BIDGBP/CHF = 11,64, thu được:

582.106,06 x 11,64 = 6.775.714,54 (CHF)

° Bán 6.775.714,54 CHF vừa thu được để mua lại USD ở Zurich theo tỷ giá ASKUSD/CHF = 6,2242, thu được:

6.775.714,54 : 6,2242 = 1.088.608,10 (USD)

\=> Lợi nhuận thu được từ nghiệp vụ Arbitrage ba bên:

1.088.608,10 – 1.000.000 = 88.608,10 (USD)

\=> Quá trình điều chỉnh tỷ giá:

Giao dịch

Tác động

1. Những người tham gia sử dụng USD để mua GBP

Ngân hàng tăng giá chào bán GBP so với USD

2. Bán GBP thu được để mua CHF

Ngân hàng giảm giá hỏi mua GBP tính theo CHF, nghĩa là giảm số CHF để đổi lấy 1 GBP.

3. Bán CHF để mua USD

Ngân hàng giảm giá hỏi mua CHF tính theo USD

- Kinh doanh chênh lệch lãi suất có phòng ngừa (Covered interest arbitrage - CIA) có thể xảy ra do tỷ giá giao ngay hoặc tỷ giá kỳ hạn được đánh giá cao hơn hoặc thấp hơn giá trị của chúng.

Các phần trình bày trên cho thấy Arbitrage địa phương làm cho bất kỳ tỷ giá nào cũng sẽ giống nhau, Arbitrage ba bên làm cho tỷ giá chéo được niêm yết một cách thích hợp. Trong khi đó, kinh doanh chênh lệch lãi suất có phòng ngừa dựa trên mối quan hệ giữa phần bù tỷ giá kỳ hạn và chênh lệch lãi suất, có xu hướng tạo ra mối quan hệ giữa lãi suất của hai quốc gia và phần bù (hoặc chiết khấu) kỳ hạn (thể hiện thông qua điểm kỳ hạn). Quy mô của phần bù hoặc chiết khấu được biểu hiện bởi tỷ giá kỳ hạn của một đồng tiền phụ thuộc vào chênh lệch lãi suất của hai quốc gia có liên quan. Nói một cách tổng quát, tỷ giá kỳ hạn của đồng tiền nước ngoài sẽ chứa đựng một phần bù (hoặc chiết khấu) nếu lãi suất của nó cao hơn (hoặc thấp hơn) lãi suất đồng tiền của nước chủ nhà. Ngang giá lãi suất cho thấy mối quan hệ chính xác hơn giữa chênh lệch lãi suất và phần bù (hoặc chiết khấu) kỳ hạn. Nếu mối quan hệ thực sự giữa chênh lệch lãi suất và phần bù kỳ hạn khác biệt đáng kể, với quan hệ kỳ vọng được xác định bởi quan hệ ngang giá lãi suất (Interest rate parity) thì kinh doanh chênh lệch lãi suất có bảo đảm sẽ xảy ra. Loại Arbitrage thể hiện một đầu tư ngắn hạn bằng ngoại tệ được bảo đảm bởi hợp đồng kỳ hạn. Do đó, theo cách này, nhà đầu tư không chịu rủi ro tỷ giá. Kinh doanh chênh lệch lãi suất có phòng ngừa liên quan đến việc đầu tư ra nước ngoài và phòng ngừa để chống lại rủi ro tỷ giá.

Giống như những hình thức Arbitrage khác, kinh doanh chênh lệch lãi suất có phòng ngừa làm cho các lực lượng thị trường tạo ra một sự điều chỉnh mới. Ngay khi có sự chỉnh đốn này thì lợi nhuận thặng dư từ Arbitrage sẽ không còn nữa.