SKKN tiếng việt: Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học Nga Liên 1Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.94 KB, 20 trang ) Show
MỤC LỤC I. Lý do chọn đề tài: Tiếng Việt là bộ môn quan trọng trong chương trình Tiểu học. Môn Tiếng Việt góp phần đắc lực thực hiện mục tiêu đào tạo toàn diện thế hệ trẻ. Việc dạy học Tiếng Việt trong nhà trường tiểu học nhằm tạo cho học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt văn hoá hiện đại, để suy nghĩ, giao tiếp và học tập, giáo dục cho 1 các em những tư tưởng, tình cảm trong sáng, lành mạnh. Trong môn Tiếng Việt muốn “ Phát huy tính tích cực học tập của học sinh”, người thầy cần biết tổ chức cho học sinh được “Tự bộc lộ” năng lực nhận thức và hành động qua các kỹ năng nghe, đọc, nói, viết cùng với sự hợp tác trong học tập của bạn bè. Trong 4 kỹ năng trên, nói là một hoạt động giao tiếp cần thiết của mỗi con người. Trong cuộc sống hàng ngày, ở tất cả mọi người, mọi ngành nghề đều cần đến các hoạt động giao tiếp. Giao tiếp là quá trình người nói diễn đạt thông tin đến các đối tượng cần giao tiếp, nhằm đạt đến kết quả cuối cùng của hoạt động giao tiếp. Chính vì vậy mà ngay từ khi bước vào lớp 1 SGK đã rất chú trọng đến việc dạy 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh tiểu học. Nói là một trong 4 kỹ năng cơ bản ( nghe, nói, đọc, viết) cần rèn luyện và phải đạt được khi hoàn thành chương trình Tiếng Việt lớp 1. Rèn kỹ năng nói là giúp học sinh phát triển ngôn ngữ nói. Luyện nói tốt tức là cơ sở nền móng cho việc phát triển ngôn ngữ nói, viết trong suốt bậc học và cả sau này. Ngoài ra, luyện nói cho học sinh, sẽ giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Các em biết sử dụng từ ngữ trong giao tiếp một cách chính xác, phong phú, phát huy trí tưởng tượng về ngôn ngữ theo 1 chủ đề, một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Việc rèn kỹ năng nói là giúp cho trẻ có khả năng giao tiếp, biết ứng xử và nhận xét sự vật, sự việc trên những nhận thức riêng, bằng sự cảm nhận ngây thơ của con mắt trẻ thơ. Vì thế, để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả, giáo viên cần phải có cách tổ chức dạy để khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình và diễn đạt suy nghĩ ấy bằng ngôn ngữ nói của mình, nhằm giúp trẻ sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở và tự tin hơn trong quá trình giao tiếp. Ngày nay trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, ngôn ngữ nói được thay bằng ngôn ngữ viết qua máy tính (gửiE.mall, chát, nhắn tin… trên mạng). Như vậy, việc rèn luyện bồi dưỡng kĩ năng nói cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng chưa được chú trọng, chưa quan tâm đúng mức. Trong thực tế cho thấy, một số người có trình độ cao khi viết một văn bản nào đó đọc nghe rất có tính thuyết phục nhưng khi trình bày ý kiến trước đám đông lại gặp rất nhiều khó khăn. Cho nên với học sinh lớp 1, các em là một thế hệ trẻ chập chững mới bước vào đời lại không có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng giao tiếp còn hạn chế. Các em còn nhút nhát, chưa tự tin trong lúc nói, tìm tiếng, tìm từ còn chậm trong khi nói, nói không thành câu. Nói không rõ lời, chưa phát âm chuẩn, nhiều học sinh nói còn kéo dài, chưa trôi chảy, chưa lưu loát, chưa biểu cảm. 2 Với lý do trên, tôi xin đã mạnh dạn nghiên cứu “ Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học Nga Liên 1 ” II. Mục đích nghiên cứu: - Giúp cho học sinh có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp, rèn cho học sinh nói đủ câu, lưu loát, suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt rõ ràng, trong sáng, có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của mình. - Giúp cho học sinh biết ứng xử các tình huống khi giao tiếp một cách nhạy bén, lễ phép, thông minh hơn. - Đưa ra những biện pháp bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh lớp 1. - Tạo cơ hội cho các em mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp, khám phá diễn đạt ý tưởng trước đám đông, thành công trong công việc. Đồng thời góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, giúp các em có được kỹ năng sống tốt để trở thành người có ích cho xã hội. III. Đối tượng nghiên cứu: - Nghiên cứu các giải pháp rèn kỹ năng luyện nói cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học Nga Liên 1. IV. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh tôi đã kết hợp các phương pháp sau: - Phương pháp trực quan, phương pháp quan sát, giảng giải để giải quyết vấn đề. - Phân tích những nguyên nhân nhân dẫn đến yếu kém trong việc rèn kĩ năng nói của học sinh. - Thực hành, luyện tập. B- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm: Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người. Ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng: nói và viết. Cùng diễn đạt một nội dung nào đó bằng phương tiện ngôn ngữ có thể sử dụng dạng nói hoặc dạng viết tuỳ theo yêu cầu, mục đích, đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp. Việc rèn luyện kỹ năng nói rất có ích đối với sự phát triển và trưởng thành của học sinh, đồng thời giúp học sinh phát triển sự nhận thức về thế giới xung 3 quanh. Cha, mẹ, thầy cô giáo nhiệm vụ giúp đỡ trẻ rèn luyện kĩ năng nói tự tin và hiệu quả. Họ cần dạy học sinh nói rõ ràng, thuyết phục và tự tin. Việc rèn luyện kĩ năng nói giúp học sinh trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống cũng như trong nhiều nghề nghiệp trong tương lai. Trẻ em và quá trình hình thành, phát triển tiếng nói: Đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu sự thụ đắc ngôn ngữ của trẻ, với nhiều trường phái khác nhau. Tiêu biểu trong số đó là 4 trường phái: hành vi luận, bẩm sinh luận, vận động luận và tri nhận luận. Tâm lý học tri nhận và ngôn ngữ học tri nhận có quan điểm tương đối toàn diện về khả năng lĩnh hội ngôn ngữ của trẻ em. Theo quan điểm này, khi trẻ em bắt đầu thụ đắc ngôn ngữ (ngay từ những tháng đầu đời), chúng trước hết xây dựng những phạm trù đó được phân biệt. Những hình dung có tính khái niệm mà trẻ tạo dựng trong năm đầu tiên đối với các sự vật, quan hệ, đặc tính và các sự kiện cung cấp một nền tảng tri nhận rộng lớn, để trên nền tảng đó, chúng có thể tìm ra các từ ngữ từ trong chuỗi lời nói hướng đến trẻ. Theo tiến sĩ Pamela Snow, đại học, những trẻ em không nhận được sự trợ giúp đầy đủ để phát triển các kỹ năng giao tiếp bằng lời trong những năm đầu tiên của cuộc đời thường khó khăn trong giao tiếp xã hội và phát triển cảm xúc khi chúng lớn lên. Theo các nhà nghiên cứu tâm sinh lí trẻ em, từ 7 tuổi trở đi, trẻ em trở nên khó học ngôn ngữ hơn. Quá trình tư duy của trẻ thay đổi kéo theo việc học ngôn ngữ cũng thay đổi. Lúc này, trường tiểu học trở thành môi trường giáo dục tốt nhất hướng dẫn trẻ phát triển vốn từ, học các cấu trúc chính xác của tiếng mẹ đẻ, mở mang hiểu biết, hoàn thiện nhân cách. Những điều nêu trên cho thấy, việc học tiếng nói chung và việc rèn kĩ năng nói nói riêng ở tiểu học cần dựa trên nền tảng vốn sống, kinh nghiệm sử dụng ngôn ngữ của trẻ để tiếp tục phát huy năng lực ngôn ngữ, năng lực tư duy bằng ngôn ngữ của các em. Việc tìm ra những biện pháp phù hợp để phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho học sinh tiểu học là trọng trách của các nhà nghiên cứu giáo dục. Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học: Định hướng đổi mới phương pháp dạy học của bộ môn Tiếng Việt là phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, tạo cơ hội để có thể tăng cường rèn luyện cho học sinh cả 4 kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Điểm mấu chốt để giúp học sinh phát huy tính tích cực chủ động trong giờ học tiếng Việt là người giáo viên cần có những biện pháp huy động vốn kiến thức, kĩ năng học sinh đã tích luỹ, rèn tập được có liên quan đến nội dung bài học sao cho học sinh tự thấy có nhu cầu bộc lộ, để tạo thế chủ động cho học sinh trong việc tiếp thu bài mới. Muốn vậy, giáo viên phải tổ chức các 4 hoạt động học tập cho học sinh như: quan sát và thực hành theo mẫu, thực hành giao tiếp, thảo luận, tranh luận, thuyết trình, đưa ra kết luận, v.v... để khám phá kiến thức mới, thông qua đó mà rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Quan điểm dạy học theo xu thế hiện nay là dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Ứng với quan điểm này sẽ có một hệ thống các phương pháp dạy học cụ thể, có thể gọi là các phương pháp dạy học tích cực. Mỗi phương pháp dạy học tích cực lại có một hệ thống biện pháp, thao tác đặc trưng (có thể gọi là hệ thống kĩ thuật) để thực hiện. Quy trình của một tiết dạy học (các bước lên lớp) phản ánh ý tưởng của phương pháp dạy học đã được lựa chọn. Lựa chọn PPDH nào, phối hợp các PPDH nào đối với mỗi bài học cần dựa vào đặc điểm, yêu cầu của mỗi kiểu bài học, năng lực HS trong lớp và điều kiện, phương tiện dạy học cụ thể của từng trường, từng địa phương. II. Thực trạng về rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học Nga Liên 1 trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 1.1. Thực trạng của giáo viên: - Một số giáo viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp, chỉ chú trọng đến kĩ năng đọc, viết nên trong giờ học tiếng Việt thời lượng dành cho hoạt động nói của học sinh quá ít. Chính vì thời lượng ít nên số lượng học sinh tham gia nói về nội dung bài không được nhiều mà chỉ qua loa một vài em mà thôi. - Giáo viên chưa tập trung tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lý, môi trường sống của học sinh, chưa thật sự thông cảm với những khó khăn mà học sinh gặp phải nên khi tiến hành hỏi đáp chỉ yêu cầu những học sinh nói hay hoặc hay nói trả lời. Không mấy quan tâm đến những học sinh ít nói, nghèo nàn về ngôn ngữ, vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời gian. Vấn đề này vô tình giáo viên đã làm cho những học sinh rụt rè ngày càng trở nên nhút nhát hơn. - Nêu câu hỏi chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, câu hỏi dễ lại dành cho học sinh khá, câu hỏi khó đôi khi muốn học sinh yếu trả lời,… - Có sửa sai nhưng chưa kiên trì, uốn nắn trong mọi tình huống, mọi hoạt động của bài cũng như ở những giờ học khác. - Đa số các đồng chí trong thao giảng hoặc các tiết dự giờ rất ngại dạy các tiết 2 của bài Tiếng Việt. Bởi vì tiết 2 có hoạt động luyện nói cho học sinh. - Kỹ năng rèn nói cho học sinh chưa tốt: Chủ yếu là giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh trả lời chứ chưa biết bằng các câu hỏi gợi mở để giúp học sinh khá, giỏi có thể nói được những câu có hình ảnh hơn. 5 - Trong phần luyện nói giáo viên chủ yếu sử dụng các hình ảnh có sẵn trong SGK chứ chưa sưu tầm thêm các loại tranh ảnh khác phục vụ cho bài luyện nói đạt kết quả cao hơn. - Giáo viên nghiên cứu nội dung của chủ đề luyện nói, và tranh phục vụ cho bài luyện nói chưa kỹ. - Giáo viên chưa thực sự nhận thức hết vai trò của hoạt động luyện nói cho học sinh trong quá trình dạy học nên dễ dẫn đến sa vào việc dạy luyện nói thành tiết dạy học đạo đức. - GV cũng chưa có biện pháp khuyến khích HS luyện nói hiệu quả. GV chưa có biện pháp kiểm soát kết quả HS luyện nói theo nhóm khiến việc tổ chức cho HS hoạt động nhóm chỉ mang tính hình thức, chưa hiệu quả. 1.2. Thực trạng học của học sinh: - Các em chủ yếu là con em vùng nông thôn nên các em còn hạn chế về vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp dẫn đến việc các em không biết nói gì với các chủ đề luyện nói theo yêu cầu bài học. - Trong giờ học chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực khi khi giáo viên nêu yêu cầu đến lúc trình bày thường câu trả lời không đúng mục đích hoặc chưa hết ý. Một số trường hợp chỉ trả lời một tiếng là “có” hoặc “không” chứ chưa giải thích được theo ý mình là vì sao có, vì sao không? - Nhiều em còn ỷ lại hoặc nói theo các bạn chứ chưa chịu khó tự tìm ra câu trả lời hay cho chính mình. - Trong quá trình giao tiếp đó các em thường nói không đủ câu, không đủ ý và không được ai giúp đỡ chỉnh sửa cách giao tiếp cho phù hợp. Khi đến lớp các em thường nhút nhát, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói. Trước những thực trạng mà thực tế dạy học của khối lớp 1 trong các năm trước gặp phải, sau 2 tháng dạy học tôi khảo sát kỹ năng nói của học sinh lớp 1B đầu năm học 2015- 2016 kết quả thu được như sau: Sĩ số 28 HS Sồ học sinh nói tốt Sồ học sinh nói đạt yêu cầu Số HS nói chưa đạt yêu cầu (Nói thành câu, thành đoạn) (Nói đủ câu, lưu loát, đúng chủ đề) (Nói chưa đủ câu, nói chưa lưu loát, chưa đúng chủ đề) số lượng Tỉ lệ số lượng Tỉ lệ số lượng tỉ lệ 6 Tháng 10/ 2015 3 10,7% 12 42,8% 13 46,5% III. Các giải pháp đã sử dụng để rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học Nga Liên 1: 1. Nghiên cứu toàn bộ nội dung phân môn học vần - tập đọc của chương trình lớp 1. Để giúp HS luyện nói một cách có hiệu quả trước hết người giáo viên cần nghiên cứu toàn bộ nội dung chương trình phân môn học vần - tập đọc lớp 1. Hệ thống lại toàn bộ các chủ đề luyện nói, nghiên cứu kỹ nội dung của từng chủ đề, xác định rõ mục tiêu chính của các chủ đề luyện nói. Nghiên cứu tranh, đồ dùng, phương tiện dạy học nhằm phục vụ tốt cho bài luỵên nói, cách sử dụng tranh cho bài luyện nói như thế nào tránh sử dụng tranh như dùng trong dạy học các bài đạo đức. Kỹ năng nói trong môn Tiếng Việt lớp 1 được xác định như sau: - Nói trong hội thoại: Nói đủ to, rõ ràng, thành câu; Biết đặt và trả lời câu hỏi lựa chọn về đối tượng; Biết chào hỏi, chia tay trong gia đình, trường học. - Nói thành bài: Kể lại một câu chuyện đơn giản đã được nghe. Phần 1. Phần học Vần: Chương trình Học vần ở lớp 1 được học trong 24 tuần, bao gồm 103 bài ứng với 206 tiết dạy, được phân bố trong hai tập sách : 83 bài thuộc tập 1, 20 bài thuộc tập 2. Có thể chia nội dung dạy học Học vần làm 3 phần : phần thứ nhất (6 bài đầu) có nội dung làm quen với chữ cái e, b , các dấu thanh; phần thứ hai gồm 25 bài tiếp theo dành cho các chữ cái và âm (cấu trúc âm tiết có vần là 1 nguyên âm); phần thứ ba gồm 72 bài giới thiệu vần phức tạp và các tiếng có vần phức tạp dần. Nếu lấy mục đích của bài học làm tiêu chí phân loại, có thể chia các bài Học vần thành 3 dạng : Dạng bài làm quen với âm và chữ (và dấu thanh), dạng bài dạy học Âm- vần mới và dạng bài Ôn tập. * Dạng bài thứ nhất: làm quen với âm và chữ Ở giai đoạn này, phần luyện nói theo tranh tương đối tự do, theo chủ đề của tranh, không gò bó trong các âm thanh vừa học. giáo viên gợi ý theo định hướng, bằng các câu hỏi hướng dẫn học sinh nói qua những câu trả lời đơn giản, nội dung gần gũi với trẻ em. Mục tiêu của phần luyện nói trong giai đoạn này là giúp học sinh làm quen với không khí học tập mới, không rụt rè, nhút nhát, dám mạnh dạn nói cho các bạn nghe và nghe các bạn nói theo hướng dẫn của giáo viên trong môi trường giao tiếp mới- giao tiếp văn hóa, giao tiếp học đường. Ví dụ: Phần luyện nói bài 1. e - Giáo viên nêu nhưng câu hỏi : + Quan sát tranh, các em thấy những gì? Các bạn nhỏ trong bức tranh đang học gi? + Các bức tranh đầu chó điểm chung là gì?... 7 Kết thúc phần luyện nói giáo viên hỏi: Học là cần thiết nhưng rất vui. Ai ai cũng phải đi học và học hành chăm chỉ. Vậy lớp ta có tích đi học đều và học tập chăm chỉ không? Phần luyện nói bài 3. bé - Giáo viên có thể đưa ra câu hỏi gợi ý: + Quan sát tranh em thấy những gì? + Các bức tranh này có gì giống và có gì khác nhau + Em thích bức tranh nào nhất? Vì sao? - GV phát triển chủ đề luyện nói: + Ngoài các hoạt động kể trên, em và các bạn còn những hoạt động nào khác? + Ngoài giờ học tập, em thích làm gì nhất?... * Dạng bài thứ hai: Dạy - học âm vần mới. Giáo viên dựa vào chủ đề gợi ý trong tranh tiến hành linh hoạt tùy theo trình độ học sinh, nhằm đạt được yêu cầu: nói về chủ đề trong sách giáo khoa, chú ý đến các từ ngữ có âm vần mới học, từ đó mở rộng cả những từ ngữ có âm vần chưa học. Chú ý nói theo định hướng, bằng câu hỏi của giáo viên, học sinh có thể nói được những câu đơn giản, có nội dung gần gũi với cuộc sống xung quanh các em. Ví dụ: Dạy phần luyện nói Bài 29. ia Chủ đề luyện nói: Chia quà Tôi đã đưa ra các câu hỏi gợi ý theo tranh để học sinh có điểm tựa luyện nói: - Trong tranh vẽ gì? - Ai đang chia quà cho các em nhỏ trong tranh? - Bà chia những gì? - Các em nhỏ trong tranh vui hay buồn? các em có tranh nhau không? - Bà vui hay buồn? - ở nhà em, ai hay chia quà cho em? - Khi em được chia quà, em tự lấy phần ít hơn hay nhiều hơn?... * Dạng bài thứ ba: Ôn tập âm, vần Ở dạng bài này không có phần luyện nói như ở 2 dạng bài trên mà luyện nói thông qua kể chuyện theo tranh. Nhưng GV kể cho học sinh nghe là chủ yếu. Sau phần kể chuyện, nếu còn thời gian, GV đặt câu hỏi đơn giản về nội dung câu chuyện cho học sinh trả lời. Phần thứ 2: Phần luyện tập tổng hợp: Gồm 13 tuần, tiếp tục phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh thông qua các loại bài: Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện được cấu trúc theo cách xen kẽ các chủ điểm: Nhà trường, gia đình, thiên nhiên – Đất nước. Mỗi chủ điểm học trong 1 tuần. Sau 3 tuần sẽ kết thúc 1 vòng 3 chủ điểm. Tiếp đó, các chủ điểm được nhắc lại nhưng có sự phát triển, mở rộng hoặc đổi mới. Tuần cuối cùng( tuần 35) dành cho ôn tậpkiểm tra. 2. Hệ thống các chủ đề luyện nói, xác định rõ mục tiêu, nội dung của chủ đề cần luyện nói có trong môn học vần - tập đọc: 8 Yêu cầu luyện nói là một điểm mới của sách giáo khoa mới, có mục đích giúp phát triển ngôn ngữ của trẻ, rèn cho các em sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở, tự tin. Điều quan trọng là giáo viên phải biết cách khơi gợi, kích thích học sinh nói năng, có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình. Ví dụ: Khi dạy bài “ Ngôi nhà”, phần luyện nói, Giáo viên phải khéo léo khơi gợi để mỗi em học sinh đều muốn bộc lộ mơ ước của mìnhvề một ngôi nhà tương lai. Hay dạy bài Vì mẹ bây giờ mới về, phải biết cách làm cho học sinh hiểu yêu cầu hỏi nhau dựa theo nội dung bài tập đọc. Ví dụ: Bạn có hay làm nũng cha mẹ không? Bạn có cho làm nũng cha mẹ là một tính xấu không? Hãy kể về một lần bạn làm nũng cha, mẹ… Môn học vần - tập đọc lớp 1 mỗi một bài học vần, tập đọc đều có 1chủ đề riêng. Tuy nhiên các chủ đề đó đều tập trung ở các chủ điểm như: gia đình, nhà trường, thiên nhiên, tự nhiên, con vật, cây cối…. Phần học vần có 80 chủ đề, tập đọc có 32 nội dung. Thời gian dành cho luyện nói thông thường 8-10 phút. Chương trình yêu cầu của luyện nói nâng dần theo mức độ từ dễ đến khó, ngắn đến dài. Tất cả các chủ đề luyện nói đó đều xoay quanh cuộc sống của các em và nó cũng rất gần gũi, gắn liền với đời sống của các em. Bên cạnh đó cũng có một số chủ đề luyện nói cũng còn xa thực tế mà các em khó có thể hiểu và nắm bắt được như: thung lũng, suối, đèo, biển cả, Ba Vì….Các chủ đề luyện nói, luôn gắn liền với mỗi bài học âm, vần và tập đọc trong suốt cả năm học. Khi dạy học hoạt động luyện nói, giáo viên chú ý hướng dẫn các em nói đủ 2 nội dung: nhận biết về chủ đề và cảm xúc của các em trước chủ đề đó. 3. Khảo sát phân loại đối tưọng học sinh trong lớp để lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học cho phù hợp. Ngay khi bắt đầu năm học được 1tháng tôi tiến hành khảo sát phân loại đối tượng học sinh trong lớp thành 3 nhóm: - Nhóm 1: Nhóm các em nói, diễn đạt trôi chảy, đủ ý, thành câu, nói, diễn đạt trôi chảy, đủ ý, thành câu. - Nhóm 2: Nhóm các em nói, diễn đạt chưa trôi chảy, chưa thành câu, thành đoạn. - Nhóm 3: Nhóm các em chưa biết diễn đạt câu. Sau khi khảo sát xong, trong các tiết học, đặc biệt là các tiết 2 của tiết học vần, tập đọc có hoạt động luyện nói. Tôi tiến hành lựa chọn các hình thức, phương pháp, đồ dùng dạy học cho phù hợp, dạy học theo các biện pháp mình lựa chọn cho phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp. Hướng dẫn học 9 sinh dần dần, hình thành cho học sinh kỹ năng, thói quen giao tiếp tự nhiên, lưu loát…. * Đối với nhóm thứ nhất: Ngoài việc yêu cầu các em thực hiện nói đủ yêu cầu theo chuẩn kiến thức, kỹ năng thì tôi còn gợi ý để các em có thể phát triển bài nói rộng ra và biểu lộ được cảm xúc trong cách nói của các em. * Đối với các em ở nhóm 2: Tôi tập trung rèn để các em nói thành câu, thành đoạn theo các câu hỏi gợi ý của giáo viên. * Đối với các em ở nhóm thứ 3: Đây là nhóm các em học sinh yếu nên tôi dành thời gian để hướng dẫn các em cụ thể hơn và chỉ yêu cầu các em nói được 1-2 câu theo gọi ý của giáo viên. Căn cứ vào trình độ học sinh trong lớp để lựa chọn cách hướng dẫn HS có thể luyện nói một cách có hiệu quả. 4. Rèn cho học sinh kỹ năng nói đủ câu, đủ ý: Đối với học sinh lớp 1 phần đa các em con vùng nông thôn nên một số học sinh chưa qua mẫu giáo, việc nói năng của các em còn mang tính chất tự phát. Trên thực tế học sinh lớp 1, khi trả lời giáo viên hoặc trả lời các câu hỏi bài tập mà giáo viên đưa ra các em thường nói câu cụt lủn, nói trống không, không đầy đủ câu. Mặt khác qua nhiều lần dự giờ thao giảng của đồng nghiệp, tôi nhận thấy khi học sinh trả lời như vậy rất ít giáo viên ý thức sửa câu trả lời cho học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài 4 về dấu hỏi. Giáo viên đưa tranh con hổ hỏi: Tranh vẽ gì? Thay vì phải trả lời: “Thưa cô, tranh vẽ con hổ ạ”. Thì học sinh thường chỉ trả lời: “con hổ”. Hay: Trong tiếng “hổ” có dấu gì ? học sinh thường trả lời: “dấu hỏi”, chứ không phải là: “Thưa cô, trong tiếng hổ có dấu hỏi”. Bởi lẽ do thói quen hàng ngày giao tiếp, do vốn từ và khả năng nhớ nội dung câu hỏi của học sinh còn hạn chế. Chính vì vậy ngay từ khi bắt đầu bước chân vào lớp 1, với 6 bài học đầu tiên về âm và dấu thanh. Đồng thời áp dụng với tất cả các tiết học khác như: toán, tự nhiên xã hội, đạo đức…Tôi bắt đầu tập trung rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói cho đủ câu, đủ ý, biết cách trả lời câu hỏi của giáo viên đưa ra. Ví dụ: Khi dạy bài 7: Giáo viên đưa tranh cho học sinh quan sát và hỏi: Tranh vẽ con gì ? (cho học sinh trả lời) - Nếu học sinh trả lời “Con bê” hoặc không biết cách trả lời thì giáo viên hướng dẫn học sinh cách trả lời như: Nhắc lại một phần câu hỏi, khi trả lời phải kèm theo lời thưa cô (thầy). M: Thưa cô, tranh vẽ con bê. Sau đó cho học sinh nhắc lại. 10 - Lúc đầu có thể giáo viên phải làm mẫu một vài lần, cho học sinh nhắc lại câu trả lời với hình thức cá nhân, nối tiếp và đôi khi cho học sinh đọc câu trả lời đồng thanh (cô đọc trước học sinh đọc lại sau). Với cách làm như vậy dần dần hình thành thói quen cho học sinh nói đủ câu, đủ ý và trả lời câu hỏi rõ ràng đầy đủ câu. Quan tâm uốn nắn sửa sai kịp thời cho các em ở mọi lúc, trong bất kỳ môn học nào, sau vài lần sửa các em đã ý thức được việc nói phải đầy đủ câu. Mặt khác học sinh lớp 1 các em còn rất ngây thơ, trong tâm trí các em cô giáo luôn là hình mẫu chuẩn, lí tưởng. Chính vì vậy mà mỗi lời nói, cử chỉ của cô giáo luôn là tấm gương để học sinh bắt chước. 5. Rèn cho học sinh kỹ năng nói thành câu, thành đoạn: Đối với học sinh lớp 1, đặc biệt là con em vùng nông thôn thì vốn từ của các em rất hạn chế, nghèo nàn. Chính vì vậy khi diễn đạt một vấn đề nào đó mà các em nhìn thấy thường rất khô khan và cụt ý. Ví dụ: Sau mỗi chủ đề luyện nói thì mục tiêu cuối cùng là học sinh phải nói được 2 - 3 câu về chủ đề đó. Chẳng hạn như mục tiêu cuối cùng của bài luyện nói : “giúp đỡ cha mẹ” - Bài 88- TV 1- Tập 2 là học sinh phải nói được: “Trong tranh vẽ cảnh hai bạn đang giúp đỡ cha mẹ. Bạn nam đang quét sân, bạn nữ đang cho gà ăn..”. - Nâng cao hơn đối với học sinh nói tốt thì học sinh phải nói được: “Trong tranh vẽ cảnh hai bạn đang giúp đỡ cha mẹ. Bạn nam đang quét sân, bạn nữ đang cho gà ăn. Sân đã được bạn quét sạch sẽ, đàn gà đã được ăn no. Sau khi làm được những việc để giúp đỡ cha mẹ em cảm thấy rất vui.”. Sau khi rèn cho học sinh kỹ năng nói đủ câu, đủ ý, biết cách trả lời câu hỏi ngay từ khi bắt đầu vào lớp 1. Khi học sinh đã quen và đây cũng là lúc mà các em bước vào các bài học âm vần, tập đọc bắt đầu có các chủ đề luyện nói tương ứng với mỗi bài học. Giáo viên bắt đầu tiếp tục rèn cho học sinh cách trình bày các chủ đề luyện nói thành câu, thành đoạn, đúng chủ đề luyện nói. Ví dụ: Bài 39 chủ đề luyện nói là: Bà cháu. Phần đa học sinh chỉ có thể nói: “Tranh vẽ bà và cháu. Bà đang kể chuyện cho các cháu nghe”. - Để giúp học sinh có thể nói thành một đoạn về chủ đề trên, trước hết giáo viên phải hướng dẫn học sinh quan sát tranh, trả lời các câu hỏi gợi ý giáo viên đưa ra: Tranh vẽ gì ? Bà đang làm gì? Ánh mắt bà nhìn các cháu như thế nào? Các cháu đang làm gì? Thái độ ra sao? ở gia đình em ai là người thường kể chuyện cổ tích cho em nghe?... Kết hợp với các câu hỏi làm điểm tựa để các em trả lời, khi hướng dẫn học sinh luyện nói giáo viên phải thường xuyên chú ý cách trình bày, sửa cho 11 các em câu, từ, cách dùng từ ngữ để diễn đạt. Có như vậy mới hình thành cho học sinh nền nếp, thói quen trình bày một vấn đề nào đó phải có sự lô gíc. Đây cũng là tiền đề để học sinh có khả năng viết văn ở các lớp học tiếp theo. 6. Hướng dẫn học sinh luyện nói đúng chủ đề: Mỗi chủ đề luyện nói luôn gắn liền với cuộc sống, môi trường quen thuộc, gần gũi với sự hiểu biết của các em. Đặc biệt ở mỗi bài học vần, tập đọc sẽ có chủ đề nói tương ứng. Chính vì vậy mà giáo viên cần xác định rõ, đúng mục tiêu của chủ đề luyện nói để hướng dẫn học sinh luyện nói đúng chủ đề. Chẳng hạn như: Chủ đề “Nói lời cảm ơn”, “Nói lời xin lỗi” ,”Vâng lời cha mẹ”….. Nếu đi quá sâu vào chủ đề sẽ dễ lẫn sang dạy đạo đức. Vì thế, để khắc phục điều này, tôi chỉ định hướng cho các em câu hỏi gợi ý xoay quanh vấn đề trọng tâm cần luyện nói: - Em chỉ kể cho cô và các bạn trong nhóm nghe về những lần mình đã cảm ơn ai đó về điều gì? - Hoặc em đã nói lời xin lỗi ai vì điều gi ? - Kể những việc đã làm thể hiện em vâng lời cha mẹ ….. Hoặc những chủ đề về “Biển cả”,”Thung lũng, suối, đèo”,”Hươu, Nai, Gấu, Voi, Cọp” “Sẻ, ri, bói cá, le le” Gió, mây, mưa, bão, lũ”…dễ lẫn sang dạy tự nhiên xã hội. Do đó, tôi cũng cố gắng giúp học sinh hiểu rõ nội dung chủ đề luyện nói bằng cách gợi ý những câu hỏi thật sát với chủ đề, không sa vào tìm hiểu về đời sống của các động vật, sự vật, hiện tượng,…. Chẳng hạn những chủ đề về các sự vật, hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên như: gió, mây, mưa, bão, lũ…. Cho học sinh xem 1 số tranh ảnh liên quan đến các hiện tượng đó, học sinh sẽ nêu được tên của các sự vật trên. Sau đó, giáo viên chỉ cần nêu câu hỏi gợi ý để các em cùng thảo luận với nhau về các hiện tượng thiên nhiên và tác hại của chúng. Những chủ đề nói về động vật : GV có thể cho các em sắm vai tên của các con vật trong chủ đề cần luyện nói. Nêu lên nhận xét riêng của em về chúng (Em thích, không thích con vật nào đó? Nói lên cảm nhận của mình: tại sao em lại thích, không thích con vật đó?) Điều đáng nói ở đây, trong chương trình phần gợi ý SGK qua hình vẽ hay gợi ý ở SGV rất ít có khi chỉ có 1 - 2 câu gợi ý, hình ảnh không diễn tả hết nội dung chủ đề, bởi vậy nếu người giáo viên chỉ làm theo SGK, SGV không mở rộng thêm thì học sinh khó có thể nói được. Giáo viên chuẩn bị và đưa ra hệ 12 thống câu hỏi ngoài những gợi ý ở SGK để giúp các em tập trung những hiểu biết vốn có trong cuộc sống đề nói về chủ đề thông qua việc trả lời các câu hỏi của giáo viên. Vì vậy giáo viên phải đầu tư trong bài soạn, chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi gợi mở, có thể chẻ nhỏ các gợi ý đối với các đối tượng học sinh yếu ... thì mới có thể phát huy vốn sống, kiến thức thực tế của trẻ trong tiết học. Ví dụ : Với chủ đề " Giúp đỡ cha mẹ" - bài 88 ( SGV chỉ có 2 câu hỏi gợi ý: HS quan sát tranh và giới thiệu các bạn trong tranh đang làm gì? HS thảo luận nhóm, giới thiệu với các bạn trong nhóm mình đã làm gì để giúp đỡ cha mẹ?). Giáo viên có thể đưa thêm một số câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời: Trong tranh vẽ cảnh gì? Bạn nam đang làm gì? Bạn nữ làm gì? Em hãy kể những việc em đã làm để giúp đỡ cha, mẹ? Sau khi làm được những việc giúp đỡ cha mẹ em cảm thấy như thế nào? Tùy theo đối tượng học sinh, giáo viên có thể cho học sinh nói theo khả năng của mình : 1 đoạn, 2 câu hay 1 câu. 7. Lựa chọn hình thức, phương pháp và ĐDDH giúp học sinh luyện nói theo khả năng: Mỗi bài học, mỗi chủ đề giáo viên lựa chọn các cách hướng dẫn, giới thiệu khác nhau tạo cho giờ học sinh động, gây hứng thú cho HS. Trong khi dạy luyện nói cho học sinh lớp 1, giáo viên cần sử dụng phối hợp nhiều hình thức, phương pháp, đồ dùng dạy học hỗ trợ, giúp học sinh tiếp thu bài nhanh chóng và hiệu quả hơn. Các em sẽ thấy hứng thú hơn khi thực hành luyện nói. Bởi đây là giai đoạn tâm lí lứa tuổi của các em thích mới lạ nhưng cũng rất nhanh chán. Nếu rập khuôn một cách máy móc một hình thức hướng dẫn học sinh luyện nói dễ làm cho học sinh nhàm chán, không hứng thú với hoạt động luyện nói. Đặc biệt trong một lớp sẽ có nhiều đối tượng học sinh. Chính vì vậy mà giáo viên cũng cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng nhóm đối tượng, tuỳ nội dung từng bài. Chẳng hạn như: với các chủ đề nói về : cây cối, hoa trái …( giáo viên có thể đưa những vật thật hoặc tranh ảnh để học quan sát lấy điểm tựa để luyện nói….) Ở những bài chỉ có 1- 2 câu gợi ý SGV, giáo viên có thể ứng dụng CNTT trong một phần nội dung của tiết học (ở phần luyện nói theo chủ đề ) để giúp học sinh có cơ hội được xem, được thấy những gì có liên quan đến chủ đề mình đang học qua đó có thể hiểu và nói tốt hơn. Ví dụ: - Bài 17, chủ đề luyện nói: Thủ đô Giáo viên cho học sinh quan sát tranh trong sách giáo khoa hoặc tranh trong bộ Đ DDH và nêu một số câu hỏi gợi ý: 13 - Trong tranh, vẽ những gì? - Các em có biết cô giáo đưa học sinh đi thăm cảnh gì?( Chùa Một Cột) - Chùa Một Cột ở đâu?( Hà Nội) - Hà nội còn được gọi là gì?( Thủ đô) - Mỗi nước có mấy thủ đô? ( GV có thể giới thiệu Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam). - Em nào đã được đến Thủ đô? Em hãy kể một số cảnh đẹp về thủ đo mà em biết?... Giáo viên trình chiếu một số địa điểm, cảnh đẹp ở Thủ đô Hà Nội cho học sinh biết. Cảnh Hồ Gươm Bưu điện Hà Nội Cảnh Hồ Gươm Lăng Bác Bài 33. Chủ đề luyện nói: “Lễ hội” - Giáo viên có thể sưu tầm các hình ảnh có các hoạt động lễ hội để giới thiệu thêm cho các em hiểu rõ. 14 15 Một số hình ảnh về lễ hội - Với những chủ đề gần gũi với học sinh như: Chủ đề: Ba má; Quà quê; Nhà trẻ; Bé và bạn bè; Người bạn tốt; Điểm 10; Bữa cơm… Giáo viên gợi mở cho học sinh nói qua vốn hiểu biết thực tế của các em, chọn lựa những hình thức trò chơi học tập, v.v…Chẳng hạn như: - Chủ đề nói về gia đình:”Ba má” “Bà cháu”… có thể cho học sinh sắm vai nhân vật thể hiện tình cảm của ông bà, ba mẹ đã yêu thương, quan tâm, chăm sóc em. Hoặc những tình cảm, việc làm của em thể hiện sự hiếu thảo của một người cháu, người con đối với ông bà, cha mẹ của mình. Chẳng hạn như chủ đề: Nặn đồ chơi; Áo choàng, áo len, áo sơ mi; Ghế đẩu, ghế xoay, ghế tựa; Phim hoạt hình; Đọc truyện tranh… Học sinh sẽ được tham gia chơi nặn hình bằng đất, tô màu, vẽ tranh, hay chọn các loại áo thích hợp với thời tiết… - Với những chủ đề lạ, xa với cuộc sống của các em: chủ đề: Rừng, Suối, đèo, thung lũng; Lễ hội; Đất nước ta tuyệt đẹp; …giáo viên có thể dùng tranh ảnh hỗ trợ giúp học sinh có thể cảm nhận, hiều được nội dung chủ đề luyện nói. - Trong khi hướng dẫn HS luyện nói giáo viên cũng cần chú trọng đến việc phân hóa đối tượng học sinh trong lớp. Tùy từng đối tượng học sinh mà có cách sử dụng câu hỏi gợi ý. Đối với học sinh yếu, nói năng còn rụt rè, khi nói diễn đạt câu không hết ý hay không diễn đạt được chủ đề luyện nói thì giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi để gợi ý, hướng dẫn học sinh trả lời theo các gợi ý một cách đầy đủ, có hệ thống 16 theo chủ đề. Trong tiết dạy, tôi thường chú ý đến HS ít nói, thụ động, đặt những câu hỏi dễ động viên các em cùng tham gia nói. Ví dụ: Khi học những chủ đề quen thuộc như: chủ đề " Xanh, đỏ, tím, vàng" - bài 64, chủ đề " Trong cặp sách của em" - bài 85, …giáo viên có thể khuyến khích học sinh sưu tầm hình ảnh, vật thật mang đến lớp để quan sát , thảo luận cùng nhau qua đó có thể cùng nhau luyện nói. Chính đồ vật các em chuẩn bị có khi là sở thích của các em, các em hiểu rõ về chúng hơn. Bởi vậy sẽ tạo cho trẻ niềm vui, hứng thú khi các em được nói, kể về chúng với bạn bè của mình. Điều đó cũng góp phần giúp nội dung luyện nói của giáo viên đạt hiệu quả. Trọng tâm khi dạy luyện nói cho HS, tôi thường chú ý rèn kỹ năng nói to, rõ tiếng; nói thành câu, thành đoạn hoàn chỉnh, hay, giàu cảm xúc. Với một ngữ điệu tự nhiên, chân thành. IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: Qua nhiều năm áp dụng và thực hiện kinh nghiệm trong việc hình thành và rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh khối lớp 1, tôi đã mang lại hiệu quả cao cho việc dạy - học môn Tiếng Việt cũng như kĩ năng giao tiếp của các em ngày được hoàn thiện hơn. Lớp tôi chủ nhiệm cũng được nhà trường, bạn bè đồng nghiệp, phụ huynh đánh giá cao về ý thức, thái độ, kĩ năng nói của các em. Trong năm học vừa qua lớp tôi chủ nhiệm có các em Nguyễn Quang Mạnh, Hoàng Thị Kim Liên, Nguyễn Bảo Nam, Trần Thảo My, Phạm Ngọc Thư, Nguyễn Thị Trang vào đầu năm học các em này có thái độ sợ sệt, nhút nhát, nói trống không, thiếu chủ ngữ, diễn đạt không rành mạch, ngại tiếp xúc với các bạn nhưng sau quá trình được hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói các em đã có sự tiến bộ rõ rệt, đã tự tin hơn khi giao tiếp, hăng hái phát biểu xây dựng bài, đã mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình trước lớp, kết quả học tập của các em có sự tiến bộ rõ rệt. Kết quả qua các lần khảo sát ở cuối học kì I và Cuối học kỳ II đã đạt được như sau: Sồ học sinh nói tốt (Nói thành câu, thành đoạn Sồ học sinh nói đạt yêu cầu Số HS nói chưa đạt yêu cầu (Nói đủ câu, lưu loát, đúng chủ đề) (Nói chưa đủ câu, nói chưa lưu loát, chưa 17 đúng chủ đề Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Cuối học kỳ 1 7 25% 12 42,8% 9 32,2% Cuối học kỳ 2 12 42,8% 16 57,2% 0 0 Nhìn vào bảng kết quả cho ta thấy việc áp dụng các biện pháp rèn kỹ năng luyện nói cho học sinh lớp 1 như trên đã đem lại hiệu quả cao. Giúp học sinh có kỹ năng nói, giao tiếp tốt, tự tin và đó là tiền đề để hình thành nhân cách cho trẻ. C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ I. Kết luận: Qua việc nghiên cứu và áp dụng những biện pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1, bản thân tôi thấy để đạt được hiệu quả cao trong rèn kỹ năng nói cho học sinh thì bản thân mỗi giáo viên cần: - Nắm bắt và hiểu nội dung, mục tiêu của chương trình, ý đồ của từng chủ đề luyện nói. - Hình thức tổ chức hoạt động học tập phải linh hoạt. Tận dụng tối đa phương tiện trực quan, phát huy năng lực quan sát của học sinh. Hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi ý phải rõ ràng, ngắn gọn xoay quanh chủ đề luyện nói, phù hợp với mọi trình độ của học sinh trong lớp. - Khi học sinh tham gia vào nhóm hoạt động, giáo viên cần theo dõi và không bỏ sót học sinh nào khi yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi, chứ không chỉ chú ý đến những em hay giơ tay. Giáo viên cần đảm bảo tạo cơ hội cho tất cả các học sinh lần lượt được nói trước lớp. Chính vì vậy, việc phân nhóm nhỏ để cho các em được tập nói là rất cần thiết. - Phối hợp nhịp nhàng các hoạt động ngoại khóa khác để phát triển kỹ năng nói. - Thường xuyên động viên, khuyến khích học sinh tham gia giao tiếp. - Xây dựng lớp học trong không khí học tập thoải mái, vui tươi, thân thiện giữa thầy và trò, giữa học sinh với học sinh. Động viên, khuyến khích, uốn nắn học sinh kịp thời ở tất cả các môn học, gần gũi trò chuyện cùng học sinh, nhất là học sinh nhút nhát. Xây dựng tốt nề nếp lớp học, phối hợp nhịp nhàng các hình thức tổ chức dạy học. II. Kiến nghị: Đối với các đ/c giáo viên dạy lớp 1: Cần quan tâm hơn tới việc luyện nói cho các em học sinh trong tiết dạy Tiếng Việt. Giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ chủ đề dạy luyện nói, xây dựng hệ thống các câu hỏi gợi ý phù hợp để các 18 em học sinh có thể nói đúng chủ đề và nói một cách sáng tạo. Chứ không nên hướng dẫn học sinh trả lời theo câu hỏi của giáo viên. Có thể sưu tầm một số các tranh ảnh liên quan đến chủ đề luyện nói để các em có vốn hiểu biết phong phú và nói tốt hơn. Nói tốt cũng chính là tiền đề để các em có thể viết bài tập làm văn tốt hơn ở các lớp trên. - Đối với nhà trường: Cần tạo điều kiện bổ sung cho các lớp 1 bộ tranh dạy luyện nói. Tổ chức chuyên đề dạy phân môn Tiếng Việt lớp 1 trong đó có phần luyện nói cho tất cả các đ/c giáo viên dự để rút kinh nghiệm dạy phần luyện nói cho học sinh lớp 1 tốt hơn. Trên đây là kinh nghiệm nghiên cứu của bản thân về rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 thực tế đã áp dụng có hiệu quả. Rất mong được sự trao đổi, góp ý, bổ sung của Hội đồng khoa học nhà trường, ngành Giáo dục và Đào tạo để cho đề tài được hoàn thiện hơn. Tạo điều kiện để đề tài đươc nhân rộng cho bạn bè đồng nghiệp tham khảo, góp ý cùng thực hiện để làm sao luyện nói là một phần quan trọng đươc giáo viên và học sinh chú trọng. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Nga Sơn, ngày 20 tháng 5 năm 2016 Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Hoàng Thị Tuyến TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Mai Ngọc Chữ - Vũ Đức Nguyên - Hoàng Trọng Phiến: Cơ sở ngôn ngữ học và Tiếng Việt.- Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp. 2. Phan Thiều:Rèn luyện ngôn ngữ (tập 1, tập 2) Nhà xuất bản Giáo dục. 3. Tạp chí dạy và học ngày nay số 4/2007. 4. Sách Tiếng Việt 1 (tập 1, tập 2)- NXB Giáo dục 5. Sách giáo viên Tiếng Việt 1 ( Tập 1,tập 2) của NXB Giáo dục 5. Một số thông tin khác trên internet. 19 20 Skkn rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.59 KB, 13 trang ) 2.Các biện pháp tiến hành. B . NỘI DUNG I. Mục tiêu. 3-4 II. Mô tả các giải pháp của đê tài: 1 .Thuyết minh tính mới 2. Khả năng áp dụng 3. Lợi ích kinh tế – xã hội Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết 4 5 5 1 Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 C. KẾT LUẬN 6 1. Kết luận : 6 2. Đề xuất ,kiến nghi PHẦN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỘNG KHOA HỌC CÁC CẤP TÀI LIỆU THAM KHẢO 7 8 A. MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đê : Không biết từ bao giờ, trải qua hàng ngàn năm tiến hoá của loài người, ngôn ngữ tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hoá, tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng: “Học ăn, học nói, học gói, học mở” “Lời nói không mất tiền mua, Lựa lì mà nói cho vừa lòng nhau”. Để đánh giá một con người, chúng ta cũng phải có sự thử thách qua giao tiếp hàng ngày với họ: “ Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”. Mặt khác việc giao tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh vực; “ Khéo bán, khéo mua cũng thua người khéo nói”. Với trẻ em lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ, chúng ta cũng đã rất chú trọng: “ Trẻ lên ba, cả nhà học nói”. Ngành Giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục tiểu hco nói riêng đã được xã hội giao cho trọng trách đáng tự hào là giáo dục trẻ em ngay từ những ngày đầu bước chân đến trường. Từ bao đời nay, việc giáo dục ở nhà trường đã áp dụng phương châm: Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết 2 Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 “ Tiên học lễ, hậu học văn”. Dạy Tiếng việt không có nghĩa là chỉ dạy các em kỹ năng nghe, đọc, viết, mà còn dạy các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng quan trọng. Ta thử tưởng tượng một người đọc thông, viết thạo tất cả các văn bản, song khi giao tiếp lại không gây được mối thiện cảm đối với mọi người thì người đó có khả năng sống vui và làm việc đạt hiệu quả không? Trong giao tiếp cần chọn lọc, sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt sao cho giúp người khác nghe và hiểu được ý của mình, những thông tin cần giao tiếp nhằm đạt đến thành công trong công việc. Đặc biệt, trong lĩnh vực giáo dục cũng đòi hỏi giáo viên hướng dẫn giảng dạy sao cho học sinh của mình có được kĩ năng giao tiếp thật tốt. Chính vì lí do đó, đối với học sinh (bất cứ bậc học nào) cũng đều rèn luyện 4 kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết để đáp ứng nhu cầu giao tiếp. Để thực hiện được yêu cầu nêu trên ở chương trình mới môn Tiếng Việt, việc rèn kĩ năng nói là một yêu cầu không kém phần quan trọng trong mục tiêu kiến thức cần đạt . Yêu cầu này được thực hiện ở hoạt động luyện nói trong tiết học vần lớp 1. Việc rèn kĩ năng nói đã giúp cho học sinh có khả năng giao tiếp, có khả năng nhìn nhận và nhận xét sự vật, sự việc . Vì thế, để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả giáo viên cần có cách tổ chức dạy học để khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình nhằm phát huy kĩ năng nói và tính cởi mở, tự tin hơn trong giao tiếp. Trên đây là một trong những điểm mới của chương trình, sách giáo khoa Tiếng Việt 1 và tôi cũng muốn cộng tác để giúp các em rèn kĩ năng nói một cách có hiệu quả. Đó cũng chính là lí do để tôi chọn đề tài “Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1”. 1. Thực trạng của vấn đê : a. Thuận lợi : - Các em được tiếp thu kiến thức bằng phương pháp dạy học mới lấy học sinh làm trung tâm cho nên việc rèn kĩ năng đọc và rèn kĩ năng nói thông qua hình thức thực hành, luyện tập là cơ sở để các em luyện đọc và luyện nói tốt . Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết 3 Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 - Với vi trí là một trường đạt chuẩn quốc gia, đảm bảo đạt tiêu chuẩn về cơ sở vật chất và thiết bi dạy học. Đội ngũ giáo viên đều có trình độ đạt chuẩn trở lên có năng lực và lòng nhiệt tình trong giảng dạy . - Với hoạt động học tập, vui chơi hằng ngày trên lớp học sinh có điều kiên rèn kĩ năng đọc và rèn kĩ năng nói dưới sự kiểm soát của giáo viên và bạn bè. - Học sinh lớp 1 có khả năng trả lời được những câu hỏi đơn giản của giáo viên và của bạn bè trong lớp . - Học sinh có khả năng tự nêu câu hỏi và diễn đạt câu hỏi của mình với người khác, yêu cầu người khác trả lời. - Đa số các chủ đề luyện nói gần gũi với cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của học sinh. b. Khó khăn : Song song với những thuận lợi trên thì vẫn còn có một số trăn trở trong việc rèn kĩ năng nói cho học sinh. - Khả năng giao tiếp của học sinh lớp 1 còn hạn chế. Các em nhút nhát, rụt rè , ít phát biểu, chưa tự tin trong phần luyện nói . - Thiếu tranh ảnh trực quan phục vụ cho chủ đề luyện nói. - Một số chủ đề lạ chưa thực sự gần gũi với cuộc sống của các em, nên các em chưa phát huy được khả năng nói phù hợp với nội dung của chủ đề . - Môi trường học tập ở cấp tiểu học khác biệt với cách học ở lớp mẫu giáo. - Thời lượng dành cho phần luyện nói còn ít nên học sinh chưa tham gia được nhiều . 2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới: Ý nghĩa và tác dụng của đề tài này là tìm ra những phương pháp dạy học thích hợp nhằm phát triển kĩ năng nói cho học sinh giúp học sinh có kĩ năng giao tiếp tốt hơn. 3. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này được tiến hành với đối tượng là học sinh lớp 1 do tôi chủ nhiệm trong năm học 2012 – 2013 và năm học 2013 – 2014. II. Phương pháp nghiên cứu: Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết 4 Sáng kiến kinh nghiệm 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn : Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 a. Cơ sở lí luận : - Đảm bảo cho học sinh có kĩ năng giao tiếp - Đảm bảo mục tiêu hình thành và phát triển cho học sinh 4 kĩ năng cơ bản : Nghe - Nói - Đọc - Viết b. Cơ sở thực tiễn : Hệ thống chủ điểm của các bài luyện nói vừa mang tính khái quát vừa mang tính trừu tượng góp phần cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, con người. Qua các bài chủ đề về luyện nói, học sinh được cung cấp thêm về vốn từ ngữ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về các chủ đề luyện nói đơn giản. Từ đó nâng cao trình độ văn hóa nói chung và trình độ Tiếng Việt nói riêng. Giảng dạy và giáo dục học sinh trở thành con người mới là nhiệm vụ cần thiết của người giáo viên tiểu học. 2. Các biện pháp tiến hành: Trong quá trình nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp : - Điều tra - So sánh - Quan sát - Phân tích tổng hợp B . NỘI DUNG I. Mục tiêu: Hiện nay trong trường tiểu học, dưới sự giáo dục của nhà trường với sự giảng dạy tận tình của thầy cô giáo, phần lớn học sinh ngoan ngoãn, biết vâng lời và kết quả học tập cao khả năng giao tiếp, diễn đạt ý nghĩ, cảm xúc của mình với người khác rất tốt. Tuy nhiên, bên cạnh đó vần còn một số học sinh khả năng giao tiếp còn kém, chưa vâng lời thầy cô giáo dẫn đến kết quả học tập chưa tốt. Vì thế, là giáo viên trực tiếp giảng dạy tất cả các môn học trong nhà trường, tôi cần nghiên cứu và tìm ra phương pháp cụ thể, phù Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết 5 Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 hợp với từng đối tượng học sinh để giúp các em tiến bộ, nắm vững kiến thức trong chương trình tạo nền móng vững chắc cho các em học tốt ở lớp trên và có kĩ năng giao tiếp với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh. Việc rèn kĩ năng nói đã giúp cho học sinh có khả năng giao tiếp, có khả năng nhìn nhận và nhận xét sự vật, sự việc. Vậy để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả giáo viên cần có cách tổ chức dạy học khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình nhằm phát huy kĩ năng nói và tính cởi mở, tự tin hơn trong giao tiếp. II. Mô tả các giải pháp của đê tài : 1. Thuyết minh tính mới: a. Xác đinh và nắm rõ mục tiêu chính của chủ đề luyện nói để tất cả các học sinh đều được tham gia luyện nói, không đi quá xa chủ đề tránh nhầm lẫn sang môn học khác. Chẳng hạn như : Chủ đề “Nói lời cảm ơn”;“Giúp đỡ cha mẹ”;“Con ngoan trò giỏi”; “Những người bạn tốt”;…. Nếu đi quá sâu sẽ dễ lẫn sang dạy Đạo Đức. Chủ đề “Sẻ, Ri, Bói cá, Le le” ; “Hươu, Nai, Gấu, Cọp, Voi” ; “Gió, mây, mưa, bão, lũ” ; “Biển cả”; “Thung lũng, suối, đèo”…. Nếu đi quá sâu sẽ dễ lẫn sang dạy Tự nhiên & xã hội. b. Nắm vững khả năng nói của từng em để đưa ra phương pháp, hình thức dạy luyện nói phù hợp với từng đối tượng. Thường xuyên chuẩn bi hệ thống câu hỏi cho từng chủ đề, từng đối tượng học sinh khi thực hiện dạy luyện nói. c. Phân các chủ đề ra thành nhiều nhóm khác nhau để chọn lựa phương pháp và hình thức khác thay đổi cho phù hợp với cá nhân, nhóm, đối thoại, độc thoại. Đối với những chủ đề gần gũi với học sinh như: “Ba má”;“Bà cháu”;“Bé và bạn bè”; “Những người bạn tốt”;…. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh nói theo vốn hiểu biết của bản thân thông qua các trò chơi hay tiểu phẩm. Đối với những chủ đề không gần gũi với học sinh như : “Vó , bè ”;“Ba Vì ”;“Ruộng bậc thang ”; “Đất nước ta tuyệt đẹp”;…. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh quan sát tranh cụ thể và giới thiệu trực tiếp để học sinh hiểu đúng . Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết 6 Sáng kiến kinh nghiệm d. Phương tiện dạy học: Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 - Hình ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu . - Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế làm phương tiện giảng dạy . e. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy : Do tình hình học sinh đa số các em còn nhút nhát, rất thụ động, ít phát biểu.Nếu phát biểu thì chỉ ở mức độ trả lời câu hỏi chưa có khả năng nói đủ câu hay diễn đạt rõ ý muốn nói…Do đó , để giúp các em làm quen và phát triển khả năng nói, tôi đã: * Gợi ý bằng hệ thống câu hỏi qua phương pháp đàm thoại. - Bước đầu chỉ dừng lại ở việc: Thầy hỏi – Trò trả lời Thầy chỉnh sửa hoàn thiện câu trả lời đầy đủ ý, rõ ràng nội dung. - Tiếp tục khuyến khích học sinh nêu câu hỏi theo chủ đề : Trò hỏi - Trò trả lời Trò chỉnh sửa để hoàn thiện câu hỏi, câu trả lời của bạn. * Sử dụng tranh ảnh đồ dùng trực quan. Học sinh quan sát tranh và diễn đạt nội dung những gì thấy được ở bức tranh dựa trên câu hỏi gợi ý sau đó nâng dần lên về cảm nhận của mình và tự trình bày ra cảm nhận đó. * Tổ chức các hoạt động trò chơi tạo hứng thú, giúp các em mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia trong quá trình luyện nói. * Tổ chức luyện nói theo hình thức cá nhân, nhóm đôi, nhóm 4 . Học sinh tự nói cho nhau nghe và cùng trao đổi những nhận biết, những cảm xúc của mình về nội dung chủ đề. * Thường xuyên quan sát, giúp đỡ, động viên kip thời. Với phương pháp này đặc biệt vô cùng quan trọng. Bởi có quan sát chính xác, kip thời thì mới phát hiện được khả năng luyện nói của từng em. Từ đó mới có biện pháp phát huy điểm mạnh của học sinh và giúp đỡ, sửa chữa kip thời những vướng mắc, sai sót của học sinh. - Cần chú ý đặt câu hỏi phù hợp cho từng đối tượng học sinh. Chẳng hạn với những học sinh trung bình, yếu cần đưa ra những câu hỏi cụ thể, dễ trả lời để động viên các em tham gia luyện nói. Đối với học sinh khá, giỏi cần đưa ra những câu hỏi khái quát hơn để các em tự suy nghĩ và tự tìm ra cách trình bày, diễn đạt ý kiến của mình. Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết 7 Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 - Tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở, động viên, khen ngợi kip thời nhằm kích thích sự hứng thú, ham học hỏi của các em . - Cần chú ý rèn kĩ năng phát âm đúng, nói to, rõ tiếng, nói thành câu hoàn chỉnh, giọng điệu tự nhiên, chân thành, phù hợp với từng câu nói . 2. Khả năng áp dụng: a. Thời gian áp dụng hoặc thử nghiệm: Đề tài này được vận dụng và áp dụng thực tế ngay trong năm học 2012 – 2013 và năm học 2013 – 2014. b. Khả năng áp dụng: - Học sinh rất hứng thú khi học phân môn Tiếng Việt, nhất là trong hoạt động luyện nói. - Lớp học sinh động, học sinh hăng hái tham gia phát biểu. - Các em biết cách trả lời đủ câu, diễn đạt ý nghĩ, cảm xúc của mình một cách tự nhiên. - Biết ứng xử các tình huống trong giao tiếp một cách rõ ràng hơn, lễ phép hơn. Qua thực tế cho thấy trong quá trình học tập và rèn luyện kết quả đã tiến bộ rõ rệt . Thời điểm Năm học: 2012 – 2013 Đầu năm Giữa kì I Cuối kì I Giữa kì II Cuối năm Năm học 2013 – 2014. Đầu năm Giữa kì I Cuối kì I Giữa kì II Cuối năm Diễn đạt chưa lưu loát Diễn đạt lưu loát, rõ ràng 15 13 08 06 2 06 08 13 15 19 12 10 08 05 1 5 7 9 12 16 1. Lợi ích kinh tế – xã hội : Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết 8 Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 Qua kết quả thống kê cho thấy chất lượng diễn đạt và giao tiếp của học sinh tiến bộ rõ rệt, học sinh có hứng thú học tập và mạnh dạn phát biểu xây dựng bài. Đây chính là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy và học Tiếng Việt cho học sinh lớp 1. C. KẾT LUẬN 1. Kết luận : Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Yêu cầu luyện nói cũng nhằm mục đích phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Do vậy tôi đã bước đầu nghiên cứu và áp dụng mọi hình thức nhằm giúp cho việc giảng dạy đạt hiệu quả. Tôi thiết nghĩ mỗi người giáo viên nên biết cách khơi gợi, kích thích và tổ chức cho học sinh nói năng, hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình một cách hồn nhiên độc đáo là điều giáo viên cần làm. Theo tôi, đây chỉ là một số trăn trở của tôi trong quá trình giảng dạy phân môn Tiếng Việt ở phần luyện nói là làm sao giúp học sinh biết cách diễn đạt, trao đổi những cảm xúc, ý nghĩ của mình với cha mẹ, thầy cô và các bạn được lưu loát, rõ ràng hơn. Thực hiện tốt được mục tiêu này là chúng ta đã góp phần nho nhỏ, thực hiện thành công trong việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa theo yêu cầu của Bộ giáo dục và đào tạo. 2. Đê xuất, kiến nghị: Trên đây là một số biện pháp giáo dục, giúp đỡ, rèn luyện nói cho học sinh của lớp tôi, song vì thời gian cũng như vốn kiến thức và kinh nghiệm vẫn còn hạn chế cho nên đề tài này còn có những thiếu sót . Tôi mong được sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp để tôi thực hiện đề tài này có hiệu quả hơn. Vĩnh Thạnh, ngày 25 tháng 11 năm 2014 Người thực hiện Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết 9 Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 Đoàn Thi Tuyết Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết 10 Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 PHẦN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết 11 Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… TÀI LIỆU THAM KHẢO - Dạy Tiếng Việt ở tiểu học ( Nhà xuất bản giáo dục) - Trò chơi trong dạy học âm –vần Tiếng Việt ( Nhà xuất bản giáo dục) - Một số biện pháp hỗ trợ học sinh học tập môn Tiếng Việt ( Bộ giáo dục và đào tạo - Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn) Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết 12 Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết 13 Skkn-rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1
I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Theo các nhà nghiên cứu tâm sinh lí trẻ em cho biết nếu trẻ em không nhận được sự trợ giúp đầy đủ để phát triển các kĩ năng giao tiếp bằng lời trong những năm đầu tiên của cuộc đời thường khó khăn trong giao tiếp xã hội và phát triển cảm xúc khi các em lớn lên. Quá trình tư duy của trẻ thay đổi kéo theo việc học ngôn ngữ cũng thay đổi. Lúc này trường tiểu học trở thành môi trường giáo dục tốt nhất hướng dẫn trẻ phát triển vốn từ, học các cấu trúc chính xác của tiếng mẹ đẻ, mở mang hiểu biết, hoàn thiện nhân cách. Những điều nêu trên cho thấy, việc học tiếng nói chung và việc rèn kĩ năng nói nói riêng ở tiểu học cần dựa trên nền tảng vốn sống, kinh nghiệm sử dụng ngôn ngữ của trẻ để tiếp tục phát huy năng lực ngôn ngữ, năng lực tư duy bằng ngôn ngữ nói của trẻ em. Thông qua hoạt động nói các em sẽ phát huy được vốn ngôn ngữ tiếng Việt, nói đúng cấu trúc ngữ pháp, mở rộng thêm vốn từ, làm cơ sở cho việc tiếp thu tri thức sau này. Cũng nhằm hình thành thói quen, ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì ngoài việc cung cấp cho học sinh hệ thống câu từ, lời nói còn rèn luyện cho các em tính cẩn thận, sự tự tin trước đám đông, trách nhiệm với bản thân và tôn trọng người tham gia giao tiếp. Thế nhưng trong thực tế hiện nay ở những giờ luyện nói tình trạng học sinh nói không đủ ý, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn, chưa lô gic. Nhiều học sinh nhút nhát không muốn trình bày, chia sẻ với các bạn những điều mình nghĩ, mình biết hoặc có nói thì cũng nói trống không, không rõ nghĩa. Thậm chí có một số em đã học đến trung học cơ sở mà trước lớp học diễn đạt vẫn chưa trôi chảy. Đây là vấn đề nhiều giáo viên gặp khó khăn khi giảng dạy và chưa hài lòng về học sinh của mình. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. Giúp các em giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt qua ngôn ngữ nói. Thể hiện tình yêu đất nước, tinh thần đoàn kết các dân tộc anh em trong lớp học, trường học và trên lãnh thổ Việt Nam cũng như trên thế giới. Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh 3. Đối tượng nghiên cứu Tất cả các em học sinh khối 1 trong những năm học trước đây và học sinh lớp 1A nói riêng của trường tiểu học Hoàng Văn Thụ năm học 2013 – 2014. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Xuyên suốt trong quá trình dạy học học sinh khối 1 và học sinh lớp 1A của trường tiểu học Hoàng Văn Thụ năm học 2013 – 2014 và học kì 1 năm học 2014 - 2015. 1 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp trải nghiệm thực tế. - Phương pháp điều tra. - Phương pháp khảo nghiệm. - Phương pháp quan sát, thực hành theo mẫu. - Nghiên cứu tài liệu. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người. Ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng: nói và viết. Cũng diễn đạt một nội dung nào đó bằng phương tiện ngôn ngữ, có thể sử dụng dạng nói hoặc viết tùy theo yêu cầu, mục đích, đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp. Kĩ năng nói – một điều mà bất cứ người giáo viên nào khi đứng trên bục giảng cũng luôn mong muốn ở học sinh mình dạy luôn thực hiện tốt. Không chỉ giáo viên mà ngay cả khi nghe người khác nói đúng, nói đủ, nói trọng tâm sẽ giúp người nghe dễ hiểu nội dung câu chuyện. Có những người còn có giọng nói truyền cảm sẽ dễ đi vào lòng người hơn. Và trong giao tiếp ngôn ngữ nói là phương tiện giao tiếp thông dụng nhất, quan trọng nhất. Trong một tiết học, các hoạt động tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh đều thông qua ngôn ngữ nói sau đó mới thực hành viết. Như vậy góp phần khẳng định nói là kĩ năng rất quan trọng trong giao tiếp của con người. 2. Thực trạng - Do học sinh lớp 1 đa số rất hiếu động, dễ nhớ nhưng lại mau quên nên việc ghi nhớ lời thầy cô dạy là chưa bền vững. - Trường nằm ở vùng sâu, vùng xa, trong lớp còn có bốn loại học sinh dân tộc và có ba loại học sinh dân tộc thiểu số trong đó có cả học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ và học sinh còn nhiều thiếu thốn, điều kiện tiếp cận với báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng chưa nhiều. ít có điều kiện tiếp cận với môi trường mới lạ nên ngôn ngữ diễn đạt còn hạn chế nhiều. a. Thuận lợi – khó khăn + Thuận lợi: Sách giáo khoa môn Tiếng Việt hiện nay tạo ra nhiều cơ hội cho học sinh luyện nói. Ngay từ những bài học đầu tiên của lớp 1, học sinh đã được luyện nói theo chủ đề. Những chủ đề luyện nói cuối mỗi bài học vần nếu thực hiện tốt sẽ vừa giúp các em ôn các âm, vần vừa học, vừa tạo không khí học tập thoải mái, thân thiện, vừa góp phần rèn kĩ năng nói theo chủ đề cho học sinh. Sau phần ôn tập có giành thời lượng khoảng 10 -> 12 phút cho kể chuyện. Sang khoảng giữa kì 2 (hết phần học vần chuyển sang phân môn tập đọc – lớp 1 có tiết kể chuyện). Nội dung các bài của phân môn kể chuyện, tập làm văn, tập đọc, luyện từ và câu… ở các lớp 2; 3; 4; 5 đã từng bước rèn luyện và phát triển kĩ năng nói cho học sinh. 2 + Khó khăn: - Trong quá trình dạy vì đa số các em là học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ. Khi ở nhà các em giao tiếp với gia đình hầu hết là tiếng mẹ đẻ nên vào lớp 1 người giáo viên gặp rất nhiều khó khăn khi giao tiếp với học sinh nói chung và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng. b. Thành công – hạn chế + Thành công: Hầu hết các em được học qua do tôi chủ nhiệm, các em đều nói tốt, kĩ năng nói phát triển như nói đúng trọng tâm câu hỏi, nói đủ ý câu, biết vươn lên trong học tập, có kĩ năng sống tốt hơn. + Hạn chế: * Đối với giáo viên: Còn có giáo viên - Chưa kiểm soát kết quả học sinh luyện nói theo nhóm, khiến việc tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm chỉ mang tính hình thức, chưa hiệu quả. - Chưa có biện pháp khuyến khích học sinh luyện nói có hiệu quả. - Chưa xác định trọng tâm của giờ học cũng như chưa linh hoạt trong việc tập trung vào những kĩ năng còn hạn chế của học sinh. * Đối với học sinh: - Các em còn lúng túng khi nói chính là các em còn hạn chế vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp dẫn đến việc các em không biết nói gì với các chủ đề luyện nói theo yêu cầu bài học hoặc trong quá trình học tập. c. Mặt mạnh, mặt yếu + Mặt mạnh: - Hầu hết các em phát huy được những ưu điểm khi tôi hướng dẫn luyện nói qua các giờ học thông qua hoạt động giao tiếp “đàm thoại” + Mặt yếu: - Những em chưa thông thạo Tiếng Việt việc hướng dẫn các em luyện nói có phần hạn chế. d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động: - Nhờ sự tạo điều kiện giúp đỡ về thời gian của lãnh đạo trường, sự phối hợp đồng bộ của giáo viên trong toàn khối và giáo viên bộ môn, kết hợp với sự quan tâm nhiệt tình của giáo viên chủ nhiệm đối với từng học sinh kể cả vật chất lẫn tinh thân nên việc đồng tình ủng hộ của cha mẹ học sinh kết quả đạt được có khả thi. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề và thực trạng mà đề tài đã đặt ra. Một tiết học tốt không có nghĩa là học sinh cứ khoanh tay, ngồi im lặng trong khi giáo viên vẫn cứ giảng bài say sưa, để rồi khi cô hỏi, học sinh chẳng biết gì để mà trả lời. Như vậy chúng ta lại quay lại phương pháp dạy học cũ: Là thầy nói – trò nghe. Mà muốn để có tiết học tốt thì ta phải nghĩ tới hướng tích cực, giúp các em tiếp thu bài một cách chủ động, độc lập trong suy nghĩ, phát huy tính sáng tạo của các em. Song khi các em đã suy nghĩ được điều mà mình biết, muốn nói nhưng lại ngại không giám nói vì không biết bắt đầu từ đâu. Do vậy việc nắm bắt sự hiểu bài của các em đối với giáo viên rất khó. Để có một tiết học sinh động, để giúp giáo viên đánh giá được tất cả học sinh của mình dạy hiểu bài ở mức độ nào thì việc đàm thoại trong mỗi tiết dạy đều rất quan trọng, thiết thực bắt đầu từ việc đàm thoại mà giáo viên chỉ là người thiết kế (đưa ra các câu hỏi), động viên học sinh tham gia trả lời, nhận xét lẫn nhau. 3 Có như thế đó mới là tiết học thực sự là lấy học sinh làm trung tâm. muốn vậy thì việc giúp học sinh nói tốt rất cần thiết trong tất cả các môn học cũng như bất kì một hoạt động giao tiếp nào. 3. Giải pháp, biện pháp: a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp. Đề tài đưa ra một số giải pháp, biện pháp nhằm giúp giáo viên hướng dẫn các em có khả năng nói và kĩ năng nói tốt nâng cao chất lượng học tập cho các em. Việc rèn nói cho các em nói tốt, nói thành thạo, nói đúng, nói đủ ý câu giúp các em tự tin khi giao tiếp và lĩnh hội được kiến thức bài giảng của giáo viên đầy đủ hơn, dễ hiểu hơn, hiểu sâu hơn. lôi kéo tất cả mọi đối tượng học sinh vào bài học tốt hơn, hiệu quả cho tiết dạy của giáo viên vẹn toàn như mong muốn. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp. + Xây dựng kế hoạch bài dạy theo kì, theo bài. + Tìm hiểu đối tượng học sinh thông qua cha mẹ học sinh + Kết hợp các anh chị đội viên khi sinh hoạt sao. + Phối kết hợp với giáo viên dạy thay và dạy bộ môn. + Thông qua kế hoạch hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Rèn kĩ năng nói thông qua các môn học - Giáo viên cần xác định rõ nói là một trong bốn kĩ năng quan trọng ở tất cả các môn học. Vì vậy kĩ năng nói cần được quan tâm đúng mức. - Khi tổ chức đàm thoại ở lớp trước tiên là giáo viên nên yêu cầu một cách rõ ràng cho mọi đối tượng học sinh đều hiểu được vấn đề mà giáo viên đặt ra. Khi nêu câu hỏi thì phải chọn học sinh có trình độ phù hợp để trả lời ( dạy phân hóa theo các đối tượng học sinh), không chỉ tập trung vào những học sinh có năng khiếu nói tốt mà phải giành cho tất cả mọi đối tượng học sinh đều được tham gia nói. Cũng không nhất thiết cứ phải tới mục luyện nói của môn Tiếng Việt thì các em mới được tham gia nói mà ngay trong quá trình giảng dạy ở tất cả các môn, các em đều được tham gia nói. + Trong môn toán: (Ví dụ: Giáo viên hỏi: 2 + 3 = ? (hai cộng ba bằng mấy? ) – thường thì học sinh chỉ trả lời luôn kết quả: 5 hoặc bằng 5. Lúc này giáo viên giúp đỡ học sinh hiểu ngoài việc nói đúng ra cần phải nói đủ ý câu như: hai cộng ba bằng năm (2 + 3 = 5) và cho học sinh nhận xét câu trả lời của bạn. Khi học sinh tham gia nhận xét câu trả lời của bạn mình đó cũng là hình thức giúp các em luyện nói: Như ví dụ trên khi bạn trả lời, học sinh khác sẽ tham gia nhận xét bạn: Thưa cô bạn nói đúng nhưng chưa đủ ý câu: (5 hoặc bằng 5). Hoặc bạn nói đúng, đủ, nói to, rõ ràng ạ như vậy đã thể hiện hình thức tăng cường Tiêng Việt cho học sinh và giúp người nghe hiểu trọn vẹn nội dung đề yêu cầu. Ngoài ra trong quá trình hình thành các phép tính, giáo viên hướng dẫn cho các em nói thông qua các các hình vẽ (trực quan) hoặc đồ dùng có sẵn, từ các bài học nhận biết số cho đến các phép tính và sau là toán giải có lời văn. Giúp các em tự lĩnh hội được kĩ năng nói Tiếng Việt tốt hơn. 4 Ví dụ: Cho tóm tắt bài toán: Mai có: 10 kẹo Mai cho: 4 kẹo Mai còn:…kẹo? Từ tóm tắt bài toán, các em sẽ phải hiểu được nội dung trọn vẹn của đề và giáo viên thường yêu cầu nhìn tóm tắt, đọc đề toán, Ở đây đã triển khai từ thu hẹp góc độ đề sẽ mở rộng đề qua ngôn ngữ nói: Mai có 10 kẹo, Mai cho bạn 4 kẹo. Hỏi Mai còn lại mấy(bao nhiêu) kẹo? để từ đó giúp các em giải bài toán có lời giải đúng, đủ, rõ nghĩa. + Trong môn âm nhạc: Trong quá trình dạy môn âm nhạc (phần dạy lời bài hát), bao giờ giáo viên cũng cho các em được đọc lời bài hát. Đó cũng là một phần trong việc rèn nói (nói đúng lời bài hát), sau đó hướng dẫn các em hát và yêu cầu hát thuộc lời bài hát. Khi các em tập hát to, ngay cả khi chúng ở nhà một mình, trẻ sẽ vượt qua nỗi sợ diễn thuyết. hát thuộc lời bài hát đúng giai điệu bài hát đó được đánh giá là có năng khiếu hát, góp phần tham gia vào kĩ năng nói. + Trong môn Tiếng Việt: Cuối mỗi bài (phân môn học vần) đều có mục luyện nói song không phải cứ đến mục này thì các em mới được tham gia nói, mà trong quá trình đàm thoại như khi bắt đầu vào học vần mới là nhận diện vần, các em đã được tham gia nóí, giáo viên định hướng, uốn nắn cho học sinh nói từ nói đúng đến nói đủ, không nên trả lời trống không. Ví dụ khi dạy vần ôt - ơt (bài 70 ) Dạy vần ôt: Ghi và hướng dẫn học sinh nhận diện vần. - Vần gồm mấy âm? (Học sinh trả lời: Vần gồm hai âm: Âm ô đứng trước, âm t đứng sau). Đến đây giáo viên cũng cần uốn nắn ngay từ đầu để các em cần nói đúng, đủ, kể cả học sinh khác tham gia nhận xét cũng vậy. (ví dụ: Em thưa cô bạn trả lời đúng, đủ rồi ạ; hoặc bạn nói (trả lời) đúng (gần đúng) rồi ạ) . Không nên để học sinh trả lời cộc lốc như: đúng – sai qua ngôn ngữ nói Đến khi xây dựng tiếng: Đã có vần ôt, muốn có tiếng cột ta phải thêm âm gì và thanh gì? (Thường thì học sinh hay trả lời: âm c và thanh nặng), nhưng giáo viên cần uốn nắn cho các em nói đúng, đủ ý câu: (Đã có vần ôt, muốn có tiếng cột ta phải thêm âm c đứng trước vần ôt và thêm thanh nặng dưới âm ô). Khi xây dựng và rút ra từ khóa: cột cờ. Giáo viên cần giúp đỡ các em nói được: Từ cột cờ có hai tiếng, tiếng cột đứng trước, tiếng cờ sau. Khi dạy đến vần 2 (ơt), yêu cầu so sánh hai vần, giúp các em nói được: hai vần giống nhau đều có âm (t) đứng cuối vần; hai vần khác nhau hai âm đầu vần (âm ô khác âm ơ). Như vậy cứ sau một hoạt động, giáo viên đều cho các em tự nhận xét về câu trả lời của bạn, đó cũng chính là hình thức tăng cường Tiếng Việt (hay đó chính là động viên các em phát triển lời nói tự nhiên). Giáo viên cần quan sát và nếu còn có 5 học sinh luyện nói chưa tốt, giáo viên nên hướng dẫn cho các em thực hành nói theo mẫu. Phần luyện nói theo chủ đề là một nội dung nhằm phát triển ngôn ngữ tự nhiên của trẻ, do vậy sau mỗi bài học nào cũng có mục luyện nói theo chủ đề, tùy thuộc vào tình hình thực tế nơi các em sinh sống và chủ đề mà giáo viên điều chỉnh cho phù hợp nội dung luyện nói. Để đạt được kết quả trong mục luyện nói này, giáo viên nên định hướng cho các em về chủ đề thành những nội dung cụ thể và nên tổ chức hoạt động theo nhóm 2, không nên tổ chức hoạt động theo nhóm lớn vì như thế các em sẽ ít được tham gia nói. Nếu hoạt động theo nhóm 2 thì sẽ giúp học sinh hỏi – trả lời theo chủ đề, có đổi qua lại hỏi – đáp để học nào cũng được tham gia nói. Khi học sinh tham gia hoạt động nhóm thì giáo viên cần theo dõi và không bỏ sót một trẻ nào khi yêu cầu trẻ trả lời câu hỏi, giáo viên không nên chú ý đến những em hay giơ tay. Giáo viên cần đảm bảo tạo cơ hội cho tất cả các học sinh lần lượt được nói trước lớp. Chính vì thế việc phân nhóm nhỏ để tập trung nói là rất cần thiết. Với những học sinh diễn đạt ngôn ngữ còn lộn xộn thì sau mỗi lần nói, giáo viên cần hướng dẫn các em sắp xếp thứ tự những điều cần nói có trước có sau và nói lại thật phù hợp với yêu cầu đặt ra. Trong quá trình đàm thoại, giáo viên phát hiện ra học sinh phát âm chưa đúng, hay dùng từ chưa chính xác trong một số trường hợp thì giáo viên cần sửa chữa ngay và cho các em nói lại thành câu hoàn chỉnh để ghi nhớ. Cuối mỗi bài ôn tập phần học vần có mục kể chuyện, sang dạy phân môn tập đọc ở cuối mỗi bài dạy( phần luyện đọc) đều có phần luyện nói câu có chứa vần… cần ôn. Và cuối mỗi chủ điểm đều có một tiết dạy kể chuyện cụ thể. Tập đọc và kể chuyện cũng là một cách rèn nói cho học sinh có kĩ năng nói tốt. Đối với học sinh có kĩ năng nói tốt sẽ có giọng đọc tốt, kể chuyện truyền cảm. * Kết hợp với giáo viên bộ môn và giáo viên dạy thay. Đối với giáo viên dạy các môn chuyên biệt (thể dục, mĩ thuật…) và giáo viên dạy thay, tôi thường xuyên gặp và trao đổi để cùng với giáo viên chủ nhiệm nhắc nhở, uốn nắn cách trả lời của các em ngay trong từng tiết học, môn học để các em thấy được thầy cô nào cũng quan tâm, cũng có trách nhiệm mong muốn các em tiến bộ. Từ đó các em sẽ cố gắng thực hiện một cách tự giác để sớm hoàn thành nhiệm vụ học tập và để tất cả các thầy cô được vui. * Kết hợp với gia đình học sinh. Nhiều phụ huynh học sinh cho rằng con đọc tốt, viết tốt, (thực hành) làm bài tập đúng là đủ. Lúc này giáo viên cần định hướng cho họ hiểu về các kĩ năng cần và đủ của một học sinh. Vì vậy giáo viên cần tuyên truyền tới phụ huynh học sinh vào các buổi họp cha mẹ học sinh giúp họ hiểu phát triển toàn diện về một học sinh có năng khiếu một cách đúng đắn, về tầm quan trọng của việc học nói chung và về kĩ năng nói nói riêng. Cần giúp họ hiểu việc giáo dục, động viên các em thì phụ huynh phải thực sự gương mẫu trong việc nói năng có chừng mực, lịch sự, nhã nhặn với mọi người xung quanh để các em học tập, noi theo. Khuyến khích phụ 6 huynh có con học tập tiến bộ bằng phần thưởng như: Cho đi tham quan, du lịch… giúp các em phát triển tri giác nhiều sẽ tốt cho các em khi làm văn sau này. Tuyên truyền tới cha mẹ học sinh giúp con mình phát triển kĩ năng ngôn ngữ nói Tiếng Việt tại nhà như: Nói đúng theo nội dung, đủ ý câu, lưu loát. Đối với phụ huynh là người dân tộc thiểu số: Giáo viên cần gặp trực tiếp và góp ý khi giao tiếp ở nhà bằng tiếng Việt, không nên nói tiếng mẹ đẻ nhiều nhưng vẫn cần giữ gìn bản sắc văn hoá, phong tục tập quán riêng. * Kết hợp với anh ( chị ) đội viên khi sinh hoạt sao. Đối với học sinh lớp một việc ghi nhớ của các em chưa được vững chắc, dễ nhớ nhưng cũng rất mau quên nên ngoài việc luyện nói trong giờ tiếng Việt ra giáo viên cần duy trì việc uốn nắn cho các em có được kĩ năng nói thành câu, trôi chảy ở các hoạt động giao tiếp khác như: Khi các em tham gia sinh hoạt sao được các anh chị đội viên lớp trên xuống sinh hoạt, giáo viên nên hướng dẫn và kết hợp với anh chị đội viên này để hướng dẫn các em hát, múa, thể dục…. Giúp các em mạnh dạn, tự tin trước tập thể, góp phần mạnh dạn khi nói trước đám đông. *Tuyên dương, động viên, nhắc nhở kịp thời. Mỗi khi học sinh học tập tốt ở tất cả mọi lĩnh vực trong đó có phần luyện nói, kĩ năng nói tốt thì giáo viên cần tuyên dương kịp thờì, đây là động lực thúc đẩy có hiệu quả cao nhất giúp các em đã làm tốt phát huy, những em chưa mạnh dạn, chưa tự tin khi nói cũng tự điều chỉnh. Không nên chê hoặc phạt khi các em nói chưa đúng theo ý mình mà cần giúp các em hiểu nội dung cần nói để các em tham gia nói tích cực. Đối với học sinh tiểu học, giáo viên là người chuẩn mực nhất, tuyệt vời nhất, nói gì cũng đúng. Chính vì thế nên giáo viên phải có kĩ năng nói chuẩn, đúng, ngoài ra cần có kĩ năng nói truyền cảm khi kể chuyện. c/ Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp. Giáo viên cần nắm vững và hiểu rõ vai trò của việc nói và kĩ năng nói. Cần có sự hỗ trợ đồng bộ của giáo viên bộ môn và giáo viên dạy thay cũng như kinh nghiệm của giáo viên trong toàn khối 1. d/ Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các giải pháp, biện pháp như tôi vừa trình bày nó có quan hệ mật thiết và lôgic xuyên suốt trong quá trình dạy học kể cả giờ học chính khoá cũng như ngoại khoá cũng như tiết sinh hoạt lớp. e/ Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. - Qua khảo nghiệm thu được những kết quả khả thi. Đa số học sinh nói tốt và có kĩ năng nói tốt. Nói đúng, nói đủ ý câu, góp phần nâng cao chất lượng học tập cho các em. Kết quả khảo nghiệm năm học 2013 – 2014 của lớp 1A trường tiểu học Hoàng Văn Thụ do tôi chủ nhiệm ( TSHS 17 em, trong đó có 2 học sinh khuyết tật nặng; 10 em là học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ). 7 Mức độ Nói trống không Nói chưa đủ ý Nói đúng, đủ ý câu (trả lời) Tham gia nhận xét đánh giá bạn nói Phát triển lời nói tự nhiên 15 -> 17 % Giai đoạn Đầu học năm 97 -> 99% 90- >95% 8 -> 10 % 10 -> 15 % Cuối học năm 1 -> 0 % 2 -> 1 % 98 -> 100% 98 -> 100% 94 -> 96 % 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. Những giải pháp, biện pháp này vẫn được tôi tiếp tục vận dụng trong năm học 2014 - 2015 và thu được kêt quả rất tốt trong học kì 1 này. Đề tài rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1có tác động tới giáo viên trong toàn khối 1 của trường. Đề tài có thể nghiên cứu và phát triển cao hơn. Như vậy để có tiết học tốt, giờ học tốt, trước hết người giáo viên phải định hướng cho các em chăm chú nghe giảng, tham gia nói, có kĩ năng nói tốt. Thực tế cho thấy giáo viên chủ nhiệm càng quan tâm tới bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết và đặc biệt là kĩ năng nói bao nhiêu thì các em học tốt bấy nhiêu. Và qua kinh nghiệm này của tôi, tôi thiết nghĩ đã góp phần thúc đẩy động cơ học tập cho các em, giúp các em tự tin trong học tập, mạnh dạn trong giao tiếp thông qua ngôn ngữ nói, giúp các em lĩnh hội bài học một cách có chủ động và hiểu bài sâu hơn, tốt hơn. III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Muốn có chất lượng trong giờ dạy tốt thì việc đầu tiên người giáo viên phải xây dựng được kế hoạch bài dạy dài hạn và theo từng chủ đề, từng bài theo hướng đổi mới. Vậy muốn cho học sinh nói tốt, trước hết người giáo viên phải nắm được vai trò của việc luyện nói cũng như kĩ năng nói. người giáo viên chủ nhiệm phải biết xây dựng kế hoạch lâu dài và ngắn hạn phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của học sinh địa phương. Cần phối hợp đồng bộ giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn, giáo viên dạy thay; với cha mẹ học sinh; với giáo viên trong toàn khối 1 nói riêng và các khối lớp khác trong trường được tốt. 2. Kiến nghị Đối với lãnh đạo cần mở chuyên đề (một tiết dạy ) cụ thể về hình thức tăng cường Tiếng Việt “ cần có điểm nhấn” cho học sinh như vùng có nhiều học sinh là học sinh dân tộc thiểu số đang theo học đặc biệt là lớp một. Người viết. 8 Phạm Thị Hòe ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ................................................................................................................................... CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN (Ký tên, đóng dấu) ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ................................................................................................................................... CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN (Ký tên, đóng dấu) 9 TÀI LIỆU THAM KHẢO TT Tên tài liệu Tên tác giả 1 - Tâm lí lứa tuổi học sinh 2 Một số biện pháp nâng CNĐT – TS: Trần Thị cao hiệu quả rèn kĩ Hiền Lương năng nói cho học sinh tiểu học. Tham khảo tài liệu trên mạng internet 3 10 Nhà xuất bản Năm xuất bản Thời gian thực hiện: 5/ 2007 – 12/ 2008 MỤC LỤC Mục I. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 3. Đối tượng nghiên cứu 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu II. Phần nội dung 1. Cơ sở lí luận 2. Thực trạng: a/ Thuận lợi – khó khăn b/ Thành công – hạn chế c/ mặt mạnh – mặt yếu d/ Các nguyên nhân, các yếu tố tác động e/ Phân tích, đánh giá các vấn đề và thực trạng mà đề tài đã đặt ra 3. Giải pháp, biện pháp a/ Mục tiêu của giải pháp, biện pháp b/ Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp c/ Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp d/ Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp e/ Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. 4. Kết quả rhu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. III. Phần kết luận, kiến nghị 1. Kết luận 2. Kiến nghị Tài liệu tham khảo Trang 1 2 3 4 5; 6 7 8 10 11 Tải về bản full Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2MỞ ĐẦU Cũng như bộ SGK Tiếng Việt Tiểu học cải cách giáo dục cũ, bộ SGK Tiếng Việt tiểu học mới tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh thông qua các phân môn Tập đọc, Từ ngữ - Ngữ pháp, Chính tả, Tập viết, Kể chuyện và Tập làm văn. Cấp tiểu học là cấp học nền tảng, quan trọng trong hệ thống các cấp học ở nước ta vì đây là cấp học mở đầu cung cấp những kiến thức cơ bản, ban đầu cho học sinh đồng thời thông qua các hoạt động học tập đó người giáo viên còn dạy cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn chuẩn bị cho các cấp học tiếp theo. Trong cấp tiểu học thì các lớp đầu cấp (lớp 1,2) lại càng được coi trọng vì đây là thời kỳ các em bắt đầu làm quen với một hệ thống các tri thức mới của rất nhiều các môn học trong đó môn Tiếng Việt giúp cho các em hình thành và phát triển các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập tốt các môn học khác và tham gia giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi đồng thời rèn luyện các thao tác tư duy. Phân môn Tập đọc rèn luyện cho học sinh các kĩ năng đọc (đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc hiểu, đọc diễn cảm), nghe và nói. Bên cạnh đó, thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài đọc, phân môn Tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết tự nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học (như đề tài, cốt truyện, nhân vật…) và góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh. Phân môn Từ ngữ - Ngữ pháp được gọi bằng tên mới là Luyện từ và câu, cung cấp những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt bằng con đường quy nạp và rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu (nói, viết), kĩ năng đọc cho học sinh. Phân môn Chính tả rèn các kĩ năng viết, nghe và đọc. Trong giờ Chính tả, nhiệm vụ của học sinh là viết một đoạn văn (nhìn – viết, nghe – viết, nhớ - viết) và làm bài tập chính tả, qua đó rèn luyện các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Các bài chính tả nhiều khi cũng cung cấp cho học sinh vốn từ, vốn hiểu biết về các mảng khác nhau của đời sống. Phân môn Tập viết chủ yếu rèn kĩ năng viết chữ. Phân môn Kể chuyện rèn kĩ năng nói, nghe và đọc. Trong giờ kể chuyện, học sinh kể lại những câu chuyện phù hợp với chủ điểm mà các em đã học (Trong sách SGK hoặc trong các sách khác), nghe thầy, cô hoặc bạn kể rồi kể lại một câu chuyện bằng lời của mình, trả lời câu hỏi hoặc ghi lại những chi tiết chính của câu chuyện đó. Phân môn Tập làm văn rèn cả 4 kĩ năng nghe, nói, viết và đọc. Trong giờ Tập làm văn, học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (nói, viết) xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành của văn bản. Nhận biết được tầm quan trọng của việc đổi mới SGK lớp 2 và môn Tiếng Việt ở lớp 2, là một trong những giáo viên được tiếp cận với chương trình và SGK mới, tôi vừa dạy vừa nghiên cứu để tìm ra những sáng kiến mới nhằm nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và mong được góp sức giúp cho công tác giáo dục ngày càng phát triển và đổi mới. Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học, Tiếng Việt là môn học rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tự giác tập luyện và rút kinh nghiệm qua thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Trong kinh nghiệm này, tôi xin đề cập đến vấn đề: “Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2” Không biết từ bao giờ, trải qua hang ngàn năm tiến hóa của loài người, ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa, tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng: “Học ăn, học nói, học gói, học mở” “Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” Để đánh giá một con người, chúng ta cần phải có sự thử thách qua giao tiếp hàng ngày với họ: “Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời” Mặt khác việc giao tiếp, ứng xửa khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh vực: “Khéo bán, khéo mua cũng thua người khéo nói” Với trẻ em, lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng: “Trẻ lên ba, cả nhà học nói” Ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo dục tiểu học nói riêng đã được xã hội trao cho trọng trách đáng tự hào là giáo dục trẻ em ngay từ những ngày đầu bước chân tới trường. Từ bao đời nay, việc giáo dục ở nhà trường đã áp dụng phương châm: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Dạy Tiếng Việt không có nghĩa là chỉ dạy các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà dạy các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng quan trọng. Ta thử tưởng tượng một người đọc thông, viết thạo tất cả các loại văn bản, song khi giao tiếp lại để lại ấn tượng xấu, không gây được mối thiện cảm đối với mọi người thì con người đó có khả năng sống và làm việc có hiệu quả không? Ý thức được vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong giao tiếp. Đó chính là lí do mà tôi đã chọn đề tài “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2” để trao đổi với các bạn đồng nghiệp giúp cho công tác giảng dạy trong nhà trường ngày một tốt hơn. NỘI DUNG PHẦN 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1 Mục tiêu, ý nghĩa: Tìm ra những biện pháp phù hợp nhằm giúp trẻ: trước hết mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tiếp đó là rèn những kỹ năng, thói quen dùng lời nói biểu cảm trong giao tiếp, trong các giờ luyện nói của các tiết Tiếng Việt trong chương trình SGK lớp 2 hiện hành. Nghiên cứu thực trạng trẻ lớp 2 hiện nay có kiến thức, ý thức ra sao trong giao tiếp hàng ngày cũng như sự bảy tỏ quan điểm nhận thức của bản thân, trước những vấn đề mà trẻ phải tự bộc lộ bản thân qua những lời nói, lời phát biểu trả lời theo nội dung bài học và sự giao tiếp với mọi người xung quanh ở trường, ở lớp. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt lớp 2 theo hướng lấy học sinh làm trung tâm. 1.2 Chuẩn yêu cầu cần đạt Kĩ năng nói của học sinh lớp 2 cần đạt các yêu cầu sau: - Nói thành câu, rõ ràng, mạch lạc - Bước đầu biết chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, chia tay, mời, nhờ, yêu cầu, chia vui, chia buồn…đúng ngữ điệu và đúng nghi thức giao tiếp ở gia đình, trường học, nơi công cộng. - Biết giới thiệu đơn giản về bản thân, gia đình, lớp học, bạn bè theo mục đích nhất định - Kể lại được một đoạn truyện đã nghe, đã đọc. - Nói những lời nói thể hiện hành vi thanh lịch, văn minh. PHẦN 2: THỰC TRẠNG Để nắm được khả năng nói của học sinh, khi nhận lớp tôi đã chủ động gần gũi giao tiếp với các em và quan sát những tình huống giao tiếp tự nhiên. Trong các tình huống giao tiếp tôi cố gắng đưa vào những nghi thức của lời nói như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, đồng ý, không đồng ý, từ chối…để xem phản ứng của học sinh. Tôi thấy đa số các em chưa biết đưa ra lời nói phù hợp với những tình huống giao tiếp. Thực tế hiện nay do các em ít được tiếp xúc với xung quanh do bố mẹ bận đi làm và vì vậy vốn hiểu biết về các quy tắc giao tiếp của các em rất yếu. Đồng thời nhiều gia đình do cha mẹ bàn giao con ở nhà cho người giúp việc đến từ các địa phương nên các em cũng bị ảnh hưởng trong cách nói, cách phát âm của những địa phương khác nhau. Các em chưa biết cách diễn đạt ý của mình sao cho lịch sự khi giao tiếp với bạn bè hay mọi người xung quanh. Trong giao tiếp hàng ngày các em rất ít khi nói lời khen ngợi, cảm ơn nên trong bài học các em còn lúng túng, ngại ngùng khi thực hành nói lời cảm ơn, khen ngợi. Do các tiết học có thời lượng rất ngắn nên GV không thể cho nhiều học sinh được thực hành nhiều các nghi thức giao tiếp. Hiện tại, một số học sinh ở địa bàn Thụy Khuê khi nói các em vẫn sai nhiều lỗi phát âm và một số học sinh do bố mẹ xuất thân ở tỉnh ngoài nên cũng ảnh hưởng lối phát âm của địa phương. PHẦN 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM “RÈN KĨ NĂNG NÓI TRONG GIỜ HỌC TIẾNG VIỆT CỦA HỌC SINH LỚP 2” 3.1 Phương pháp 1: Phương pháp quan sát: Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu giáo dục nhằm quan sát giờ dạy của giáo viên và học tập của học sinh trên lớp đánh giá kết quả học tập của học sinh thông qua những lời phát biểu của học sinh trong giờ luyện nói của mỗi tiết học, qua lời nói của học sinh với mọi người xung quanh mọi nơi, mọi lúc qua các bài tập thực hành trong vở bài tập Tiếng Việt in. Biện pháp thực hiện: - Ngoài những sổ sách do nhà trường quy định, giáo viên có thêm một quyển sổ ghi chép những điều quan sát, nhận xét từng học sinh trong lớp. Đó là cuốn sổ: “Theo dõi đánh giá hành vi, cử chỉ, lời nói học sinh”. Trong cuốn sổ này, giáo viên ghi chép những hành vi, lời nói giao tiếp, những thói quen và cả những khuyết điểm còn khiếm khuyết của học sinh, để từ đó có cái nhìn khái quát về việc sử dụng vốn ngôn ngữ biểu cảm của học sinh. Từ đó giáo viên dễ dàng phân loại khả năng giao tiếp của từng học sinh giỏi và học sinh xuất sắc, luyện kĩ năng nói sao cho đạt trình độ chuẩn cho học sinh khá và học sinh trung bình. Quan sát phản ánh khá trung thực tình trạng của học sinh. - Ưu điểm của phương pháp này là: Sau khi phân loại học sinh, giáo viên chọn lọc những câu hỏi, câu gợi mở sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh để các em phát huy hết khả năng giao tiếp của bản thân trong phần luyện nói của tiết học môn tập đọc và các môn khác trong chương trình. 3.2 Phương pháp 2: Phương pháp phân tích – tổng hợp: Qua những ghi chép cá nhân của giáo viên và những số liệu thống kê, giáo viên xử lý những thông tin ấy bằng cách phân tích, tổng hợp những mẫu lời nói thu thập được từ phía học sinh. Từ đó có thể có sự đánh giá sát thực hơn về tình trạng học sinh. Biện pháp thực hiện: - Giáo viên tiến hành phân nhóm học sinh theo những nhóm sau: a. Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, mạch lạc, biết thể hiện lời nói biểu cảm trong giao tiếp. Đây chính là những nhóm trưởng, những người dẫn chương trình trong các giờ luyện nói trên lớp, những nhân vật nòng cốt trong các tiểu phẩm của các tiết Tiếng Việt mà học sinh tham gia rèn luyện kĩ năng nói trên lớp. b. Nhóm học sinh có lời nói tương đối trôi chảy, rõ ràng tuy nhiên chưa thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét. c. Nhóm học sinh ngại giao tiếp, khả năng giao tiếp kém, hầu như không biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp. Sau khi phân tích đặc điểm cũng như khả năng giao tiếp của từng học sinh trong lớp, giáo viên tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố đều khắp 3 đối tượng học sinh nêu trên trong các tổ, các nhóm. Ưu điểm của biện pháp này là: Sự tương trợ lẫn nhau trong quá trình học tập của học sinh là việc làm hết sức bổ ích và mang tính khả quan. Như ta từng nói: “Học thày không tày học bạn”. Sự phấn khích trong quá trình học tập, đua thầy, đua bạn sẽ giúp trẻ mạnh dạn, năng động hơn rất nhiều trong quá trình rèn nói. Sự cổ vũ động viên của các bạn trong nhóm, trong tổ sẽ giúp trẻ tự tin hơn trước lời phát biểu của mình. .......... Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết Sáng kiến kinh nghiệm môn Tiếng Việt lớp 1 – Nâng cao hiệu quả hoạt động luyện nói trong tiết tiếng việt cho học sinh lớp 1Tham khảo tài liệu 'sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng việt lớp 1 – nâng cao hiệu quả hoạt động luyện nói trong tiết tiếng việt cho học sinh lớp 1', tài liệu phổ thông, mầm non - mẫu giáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả... » Xem thêm Tóm tắt nội dung tài liệu
|