Sáng kiến kinh nghiệm rèn kĩ năng nói trong môn Tiếng Việt cho HS lớp 1

SKKN tiếng việt: Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học Nga Liên 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.94 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
II.Mục đích nghiên cứu.
III. Đối tượng nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
II.Thực trạng của đề tài nghiên cứu.
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
C.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận.
II. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

TRANG
2
3
3
3
4
5
7
17
18
19
20

A. MỞ ĐẦU


I. Lý do chọn đề tài:
Tiếng Việt là bộ môn quan trọng trong chương trình Tiểu học. Môn Tiếng
Việt góp phần đắc lực thực hiện mục tiêu đào tạo toàn diện thế hệ trẻ. Việc dạy
học Tiếng Việt trong nhà trường tiểu học nhằm tạo cho học sinh năng lực sử
dụng tiếng Việt văn hoá hiện đại, để suy nghĩ, giao tiếp và học tập, giáo dục cho
1


các em những tư tưởng, tình cảm trong sáng, lành mạnh. Trong môn Tiếng Việt
muốn “ Phát huy tính tích cực học tập của học sinh”, người thầy cần biết tổ chức
cho học sinh được “Tự bộc lộ” năng lực nhận thức và hành động qua các kỹ
năng nghe, đọc, nói, viết cùng với sự hợp tác trong học tập của bạn bè.
Trong 4 kỹ năng trên, nói là một hoạt động giao tiếp cần thiết của mỗi con
người. Trong cuộc sống hàng ngày, ở tất cả mọi người, mọi ngành nghề đều cần
đến các hoạt động giao tiếp. Giao tiếp là quá trình người nói diễn đạt thông tin
đến các đối tượng cần giao tiếp, nhằm đạt đến kết quả cuối cùng của hoạt động
giao tiếp. Chính vì vậy mà ngay từ khi bước vào lớp 1 SGK đã rất chú trọng đến
việc dạy 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh tiểu học.
Nói là một trong 4 kỹ năng cơ bản ( nghe, nói, đọc, viết) cần rèn luyện và
phải đạt được khi hoàn thành chương trình Tiếng Việt lớp 1. Rèn kỹ năng nói là
giúp học sinh phát triển ngôn ngữ nói. Luyện nói tốt tức là cơ sở nền móng cho
việc phát triển ngôn ngữ nói, viết trong suốt bậc học và cả sau này. Ngoài ra,
luyện nói cho học sinh, sẽ giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Các
em biết sử dụng từ ngữ trong giao tiếp một cách chính xác, phong phú, phát huy
trí tưởng tượng về ngôn ngữ theo 1 chủ đề, một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Việc rèn kỹ năng nói là giúp cho trẻ có khả năng giao tiếp, biết ứng xử và
nhận xét sự vật, sự việc trên những nhận thức riêng, bằng sự cảm nhận ngây thơ
của con mắt trẻ thơ. Vì thế, để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả, giáo
viên cần phải có cách tổ chức dạy để khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú
bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình và diễn đạt suy nghĩ ấy bằng ngôn ngữ nói của

mình, nhằm giúp trẻ sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở và tự tin hơn trong
quá trình giao tiếp.
Ngày nay trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, thời đại bùng nổ
công nghệ thông tin, ngôn ngữ nói được thay bằng ngôn ngữ viết qua máy tính
(gửiE.mall, chát, nhắn tin… trên mạng). Như vậy, việc rèn luyện bồi dưỡng kĩ
năng nói cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng chưa được
chú trọng, chưa quan tâm đúng mức. Trong thực tế cho thấy, một số người có
trình độ cao khi viết một văn bản nào đó đọc nghe rất có tính thuyết phục nhưng
khi trình bày ý kiến trước đám đông lại gặp rất nhiều khó khăn.
Cho nên với học sinh lớp 1, các em là một thế hệ trẻ chập chững mới bước vào
đời lại không có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng giao tiếp còn hạn
chế.
Các em còn nhút nhát, chưa tự tin trong lúc nói, tìm tiếng, tìm từ còn chậm
trong khi nói, nói không thành câu. Nói không rõ lời, chưa phát âm chuẩn,
nhiều học sinh nói còn kéo dài, chưa trôi chảy, chưa lưu loát, chưa biểu cảm.
2


Với lý do trên, tôi xin đã mạnh dạn nghiên cứu “ Một số biện pháp rèn
kỹ năng nói trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học Nga
Liên 1 ”
II. Mục đích nghiên cứu:
- Giúp cho học sinh có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp,
rèn cho học sinh nói đủ câu, lưu loát, suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt rõ ràng, trong
sáng, có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của mình.
- Giúp cho học sinh biết ứng xử các tình huống khi giao tiếp một cách
nhạy bén, lễ phép, thông minh hơn.
- Đưa ra những biện pháp bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh lớp 1.
- Tạo cơ hội cho các em mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp, khám phá diễn đạt
ý tưởng trước đám đông, thành công trong công việc. Đồng thời góp phần phát

triển nhân cách toàn diện cho học sinh, giúp các em có được kỹ năng sống tốt để
trở thành người có ích cho xã hội.
III. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu các giải pháp rèn kỹ năng luyện nói cho học sinh lớp 1 ở
trường tiểu học Nga Liên 1.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói cho học sinh tôi đã
kết hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp trực quan, phương pháp quan sát, giảng giải để giải quyết
vấn đề.
- Phân tích những nguyên nhân nhân dẫn đến yếu kém trong việc rèn kĩ
năng nói của học sinh.
- Thực hành, luyện tập.

B- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người.
Ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng: nói và viết. Cùng diễn đạt một nội dung nào đó
bằng phương tiện ngôn ngữ có thể sử dụng dạng nói hoặc dạng viết tuỳ theo yêu
cầu, mục đích, đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp.
Việc rèn luyện kỹ năng nói rất có ích đối với sự phát triển và trưởng thành
của học sinh, đồng thời giúp học sinh phát triển sự nhận thức về thế giới xung
3


quanh. Cha, mẹ, thầy cô giáo nhiệm vụ giúp đỡ trẻ rèn luyện kĩ năng nói tự tin
và hiệu quả. Họ cần dạy học sinh nói rõ ràng, thuyết phục và tự tin. Việc rèn
luyện kĩ năng nói giúp học sinh trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống cũng như
trong nhiều nghề nghiệp trong tương lai.
Trẻ em và quá trình hình thành, phát triển tiếng nói: Đã có rất nhiều nhà

khoa học nghiên cứu sự thụ đắc ngôn ngữ của trẻ, với nhiều trường phái khác
nhau. Tiêu biểu trong số đó là 4 trường phái: hành vi luận, bẩm sinh luận, vận
động luận và tri nhận luận.
Tâm lý học tri nhận và ngôn ngữ học tri nhận có quan điểm tương đối
toàn diện về khả năng lĩnh hội ngôn ngữ của trẻ em. Theo quan điểm này, khi trẻ
em bắt đầu thụ đắc ngôn ngữ (ngay từ những tháng đầu đời), chúng trước hết
xây dựng những phạm trù đó được phân biệt. Những hình dung có tính khái
niệm mà trẻ tạo dựng trong năm đầu tiên đối với các sự vật, quan hệ, đặc tính và
các sự kiện cung cấp một nền tảng tri nhận rộng lớn, để trên nền tảng đó, chúng
có thể tìm ra các từ ngữ từ trong chuỗi lời nói hướng đến trẻ. Theo tiến sĩ
Pamela Snow, đại học, những trẻ em không nhận được sự trợ giúp đầy đủ để
phát triển các kỹ năng giao tiếp bằng lời trong những năm đầu tiên của cuộc đời
thường khó khăn trong giao tiếp xã hội và phát triển cảm xúc khi chúng lớn lên.
Theo các nhà nghiên cứu tâm sinh lí trẻ em, từ 7 tuổi trở đi, trẻ em trở nên khó
học ngôn ngữ hơn. Quá trình tư duy của trẻ thay đổi kéo theo việc học ngôn ngữ
cũng thay đổi. Lúc này, trường tiểu học trở thành môi trường giáo dục tốt nhất
hướng dẫn trẻ phát triển vốn từ, học các cấu trúc chính xác của tiếng mẹ đẻ, mở
mang hiểu biết, hoàn thiện nhân cách.
Những điều nêu trên cho thấy, việc học tiếng nói chung và việc rèn kĩ
năng nói nói riêng ở tiểu học cần dựa trên nền tảng vốn sống, kinh nghiệm sử
dụng ngôn ngữ của trẻ để tiếp tục phát huy năng lực ngôn ngữ, năng lực tư duy
bằng ngôn ngữ của các em. Việc tìm ra những biện pháp phù hợp để phát triển
kĩ năng ngôn ngữ cho học sinh tiểu học là trọng trách của các nhà nghiên cứu
giáo dục.
Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học: Định hướng đổi mới phương
pháp dạy học của bộ môn Tiếng Việt là phát huy tính tích cực chủ động của học
sinh, tạo cơ hội để có thể tăng cường rèn luyện cho học sinh cả 4 kĩ năng sử
dụng tiếng Việt. Điểm mấu chốt để giúp học sinh phát huy tính tích cực chủ
động trong giờ học tiếng Việt là người giáo viên cần có những biện pháp huy
động vốn kiến thức, kĩ năng học sinh đã tích luỹ, rèn tập được có liên quan đến

nội dung bài học sao cho học sinh tự thấy có nhu cầu bộc lộ, để tạo thế chủ động
cho học sinh trong việc tiếp thu bài mới. Muốn vậy, giáo viên phải tổ chức các
4


hoạt động học tập cho học sinh như: quan sát và thực hành theo mẫu, thực hành
giao tiếp, thảo luận, tranh luận, thuyết trình, đưa ra kết luận, v.v... để khám phá
kiến thức mới, thông qua đó mà rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói.
Quan điểm dạy học theo xu thế hiện nay là dạy học phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học. Ứng với quan điểm này sẽ có một hệ thống
các phương pháp dạy học cụ thể, có thể gọi là các phương pháp dạy học tích
cực. Mỗi phương pháp dạy học tích cực lại có một hệ thống biện pháp, thao tác
đặc trưng (có thể gọi là hệ thống kĩ thuật) để thực hiện. Quy trình của một tiết
dạy học (các bước lên lớp) phản ánh ý tưởng của phương pháp dạy học đã được
lựa chọn. Lựa chọn PPDH nào, phối hợp các PPDH nào đối với mỗi bài học cần
dựa vào đặc điểm, yêu cầu của mỗi kiểu bài học, năng lực HS trong lớp và điều
kiện, phương tiện dạy học cụ thể của từng trường, từng địa phương.
II. Thực trạng về rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 ở trường tiểu học Nga
Liên 1 trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
1.1. Thực trạng của giáo viên:
- Một số giáo viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp, chỉ chú
trọng đến kĩ năng đọc, viết nên trong giờ học tiếng Việt thời lượng dành cho
hoạt động nói của học sinh quá ít. Chính vì thời lượng ít nên số lượng học sinh
tham gia nói về nội dung bài không được nhiều mà chỉ qua loa một vài em mà
thôi.
- Giáo viên chưa tập trung tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lý, môi trường sống
của học sinh, chưa thật sự thông cảm với những khó khăn mà học sinh gặp phải
nên khi tiến hành hỏi đáp chỉ yêu cầu những học sinh nói hay hoặc hay nói trả
lời. Không mấy quan tâm đến những học sinh ít nói, nghèo nàn về ngôn ngữ, vì
sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời gian. Vấn đề này vô tình giáo

viên đã làm cho những học sinh rụt rè ngày càng trở nên nhút nhát hơn.
- Nêu câu hỏi chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, câu hỏi dễ
lại dành cho học sinh khá, câu hỏi khó đôi khi muốn học sinh yếu trả lời,…
- Có sửa sai nhưng chưa kiên trì, uốn nắn trong mọi tình huống, mọi hoạt
động của bài cũng như ở những giờ học khác.
- Đa số các đồng chí trong thao giảng hoặc các tiết dự giờ rất ngại dạy các
tiết 2 của bài Tiếng Việt. Bởi vì tiết 2 có hoạt động luyện nói cho học sinh.
- Kỹ năng rèn nói cho học sinh chưa tốt: Chủ yếu là giáo viên đặt câu hỏi cho
học sinh trả lời chứ chưa biết bằng các câu hỏi gợi mở để giúp học sinh khá, giỏi
có thể nói được những câu có hình ảnh hơn.

5


- Trong phần luyện nói giáo viên chủ yếu sử dụng các hình ảnh có sẵn trong
SGK chứ chưa sưu tầm thêm các loại tranh ảnh khác phục vụ cho bài luyện nói
đạt kết quả cao hơn.
- Giáo viên nghiên cứu nội dung của chủ đề luyện nói, và tranh phục vụ cho
bài luyện nói chưa kỹ.
- Giáo viên chưa thực sự nhận thức hết vai trò của hoạt động luyện nói cho
học sinh trong quá trình dạy học nên dễ dẫn đến sa vào việc dạy luyện nói thành
tiết dạy học đạo đức.
- GV cũng chưa có biện pháp khuyến khích HS luyện nói hiệu quả.
GV chưa có biện pháp kiểm soát kết quả HS luyện nói theo nhóm khiến việc tổ
chức cho HS hoạt động nhóm chỉ mang tính hình thức, chưa hiệu quả.
1.2. Thực trạng học của học sinh:
- Các em chủ yếu là con em vùng nông thôn nên các em còn hạn chế về vốn
sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp dẫn đến việc các em không biết nói
gì với các chủ đề luyện nói theo yêu cầu bài học.
- Trong giờ học chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực khi khi giáo viên

nêu yêu cầu đến lúc trình bày thường câu trả lời không đúng mục đích hoặc
chưa hết ý. Một số trường hợp chỉ trả lời một tiếng là “có” hoặc “không” chứ
chưa giải thích được theo ý mình là vì sao có, vì sao không?
- Nhiều em còn ỷ lại hoặc nói theo các bạn chứ chưa chịu khó tự tìm ra câu
trả lời hay cho chính mình.
- Trong quá trình giao tiếp đó các em thường nói không đủ câu, không đủ ý
và không được ai giúp đỡ chỉnh sửa cách giao tiếp cho phù hợp. Khi đến lớp các
em thường nhút nhát, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói.
Trước những thực trạng mà thực tế dạy học của khối lớp 1 trong các năm
trước gặp phải, sau 2 tháng dạy học tôi khảo sát kỹ năng nói của học sinh lớp 1B
đầu năm học 2015- 2016 kết quả thu được như sau:

Sĩ số
28 HS

Sồ học sinh nói
tốt

Sồ học sinh nói
đạt yêu cầu

Số HS nói chưa đạt
yêu cầu

(Nói thành câu,
thành đoạn)

(Nói đủ câu, lưu
loát, đúng chủ đề)


(Nói chưa đủ câu, nói
chưa lưu loát, chưa
đúng chủ đề)

số
lượng

Tỉ lệ

số
lượng

Tỉ lệ

số
lượng

tỉ lệ

6


Tháng 10/ 2015

3

10,7%

12


42,8%

13

46,5%

III. Các giải pháp đã sử dụng để rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 ở
trường tiểu học Nga Liên 1:
1. Nghiên cứu toàn bộ nội dung phân môn học vần - tập đọc của chương
trình lớp 1.
Để giúp HS luyện nói một cách có hiệu quả trước hết người giáo viên cần
nghiên cứu toàn bộ nội dung chương trình phân môn học vần - tập đọc lớp 1.
Hệ thống lại toàn bộ các chủ đề luyện nói, nghiên cứu kỹ nội dung của từng chủ
đề, xác định rõ mục tiêu chính của các chủ đề luyện nói. Nghiên cứu tranh, đồ
dùng, phương tiện dạy học nhằm phục vụ tốt cho bài luỵên nói, cách sử dụng
tranh cho bài luyện nói như thế nào tránh sử dụng tranh như dùng trong dạy học
các bài đạo đức.
Kỹ năng nói trong môn Tiếng Việt lớp 1 được xác định như sau:
- Nói trong hội thoại: Nói đủ to, rõ ràng, thành câu; Biết đặt và trả lời câu
hỏi lựa chọn về đối tượng; Biết chào hỏi, chia tay trong gia đình, trường học.
- Nói thành bài: Kể lại một câu chuyện đơn giản đã được nghe.
Phần 1. Phần học Vần: Chương trình Học vần ở lớp 1 được học trong 24 tuần,
bao gồm 103 bài ứng với 206 tiết dạy, được phân bố trong hai tập sách : 83 bài
thuộc tập 1, 20 bài thuộc tập 2. Có thể chia nội dung dạy học Học vần làm 3
phần : phần thứ nhất (6 bài đầu) có nội dung làm quen với chữ cái e, b , các dấu
thanh; phần thứ hai gồm 25 bài tiếp theo dành cho các chữ cái và âm (cấu trúc
âm tiết có vần là 1 nguyên âm); phần thứ ba gồm 72 bài giới thiệu vần phức tạp
và các tiếng có vần phức tạp dần. Nếu lấy mục đích của bài học làm tiêu chí
phân loại, có thể chia các bài Học vần thành 3 dạng : Dạng bài làm quen với âm
và chữ (và dấu thanh), dạng bài dạy học Âm- vần mới và dạng bài Ôn tập.

* Dạng bài thứ nhất: làm quen với âm và chữ
Ở giai đoạn này, phần luyện nói theo tranh tương đối tự do, theo chủ đề
của tranh, không gò bó trong các âm thanh vừa học. giáo viên gợi ý theo định
hướng, bằng các câu hỏi hướng dẫn học sinh nói qua những câu trả lời đơn giản,
nội dung gần gũi với trẻ em. Mục tiêu của phần luyện nói trong giai đoạn này là
giúp học sinh làm quen với không khí học tập mới, không rụt rè, nhút nhát, dám
mạnh dạn nói cho các bạn nghe và nghe các bạn nói theo hướng dẫn của giáo
viên trong môi trường giao tiếp mới- giao tiếp văn hóa, giao tiếp học đường.
Ví dụ:
Phần luyện nói bài 1. e
- Giáo viên nêu nhưng câu hỏi :
+ Quan sát tranh, các em thấy những gì? Các bạn nhỏ trong bức tranh
đang học gi?
+ Các bức tranh đầu chó điểm chung là gì?...
7


Kết thúc phần luyện nói giáo viên hỏi: Học là cần thiết nhưng rất vui. Ai
ai cũng phải đi học và học hành chăm chỉ. Vậy lớp ta có tích đi học đều và học
tập chăm chỉ không?
Phần luyện nói bài 3. bé
- Giáo viên có thể đưa ra câu hỏi gợi ý:
+ Quan sát tranh em thấy những gì?
+ Các bức tranh này có gì giống và có gì khác nhau
+ Em thích bức tranh nào nhất? Vì sao?
- GV phát triển chủ đề luyện nói:
+ Ngoài các hoạt động kể trên, em và các bạn còn những hoạt động nào
khác?
+ Ngoài giờ học tập, em thích làm gì nhất?...
* Dạng bài thứ hai: Dạy - học âm vần mới.

Giáo viên dựa vào chủ đề gợi ý trong tranh tiến hành linh hoạt tùy theo
trình độ học sinh, nhằm đạt được yêu cầu: nói về chủ đề trong sách giáo khoa,
chú ý đến các từ ngữ có âm vần mới học, từ đó mở rộng cả những từ ngữ có âm
vần chưa học. Chú ý nói theo định hướng, bằng câu hỏi của giáo viên, học sinh
có thể nói được những câu đơn giản, có nội dung gần gũi với cuộc sống xung
quanh các em.
Ví dụ: Dạy phần luyện nói Bài 29. ia
Chủ đề luyện nói: Chia quà
Tôi đã đưa ra các câu hỏi gợi ý theo tranh để học sinh có điểm tựa luyện nói:
- Trong tranh vẽ gì?
- Ai đang chia quà cho các em nhỏ trong tranh?
- Bà chia những gì?
- Các em nhỏ trong tranh vui hay buồn? các em có tranh nhau không?
- Bà vui hay buồn?
- ở nhà em, ai hay chia quà cho em?
- Khi em được chia quà, em tự lấy phần ít hơn hay nhiều hơn?...
* Dạng bài thứ ba: Ôn tập âm, vần
Ở dạng bài này không có phần luyện nói như ở 2 dạng bài trên mà luyện nói
thông qua kể chuyện theo tranh. Nhưng GV kể cho học sinh nghe là chủ yếu.
Sau phần kể chuyện, nếu còn thời gian, GV đặt câu hỏi đơn giản về nội dung
câu chuyện cho học sinh trả lời.
Phần thứ 2: Phần luyện tập tổng hợp: Gồm 13 tuần, tiếp tục phát triển các kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh thông qua các loại bài: Tập đọc, Tập viết,
Chính tả, Kể chuyện được cấu trúc theo cách xen kẽ các chủ điểm: Nhà trường,
gia đình, thiên nhiên – Đất nước. Mỗi chủ điểm học trong 1 tuần. Sau 3 tuần sẽ
kết thúc 1 vòng 3 chủ điểm. Tiếp đó, các chủ điểm được nhắc lại nhưng có sự
phát triển, mở rộng hoặc đổi mới. Tuần cuối cùng( tuần 35) dành cho ôn tậpkiểm tra.
2. Hệ thống các chủ đề luyện nói, xác định rõ mục tiêu, nội dung của chủ đề
cần luyện nói có trong môn học vần - tập đọc:
8



Yêu cầu luyện nói là một điểm mới của sách giáo khoa mới, có mục đích
giúp phát triển ngôn ngữ của trẻ, rèn cho các em sớm có tính cách mạnh dạn, cởi
mở, tự tin. Điều quan trọng là giáo viên phải biết cách khơi gợi, kích thích học
sinh nói năng, có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình. Ví dụ: Khi dạy bài
“ Ngôi nhà”, phần luyện nói, Giáo viên phải khéo léo khơi gợi để mỗi em học
sinh đều muốn bộc lộ mơ ước của mìnhvề một ngôi nhà tương lai. Hay dạy bài
Vì mẹ bây giờ mới về, phải biết cách làm cho học sinh hiểu yêu cầu hỏi nhau dựa
theo nội dung bài tập đọc. Ví dụ: Bạn có hay làm nũng cha mẹ không? Bạn có
cho làm nũng cha mẹ là một tính xấu không? Hãy kể về một lần bạn làm nũng
cha, mẹ…
Môn học vần - tập đọc lớp 1 mỗi một bài học vần, tập đọc đều có 1chủ đề
riêng. Tuy nhiên các chủ đề đó đều tập trung ở các chủ điểm như: gia đình, nhà
trường, thiên nhiên, tự nhiên, con vật, cây cối….
Phần học vần có 80 chủ đề, tập đọc có 32 nội dung. Thời gian dành cho
luyện nói thông thường 8-10 phút. Chương trình yêu cầu của luyện nói nâng dần
theo mức độ từ dễ đến khó, ngắn đến dài.
Tất cả các chủ đề luyện nói đó đều xoay quanh cuộc sống của các em và
nó cũng rất gần gũi, gắn liền với đời sống của các em. Bên cạnh đó cũng có một
số chủ đề luyện nói cũng còn xa thực tế mà các em khó có thể hiểu và nắm bắt
được như: thung lũng, suối, đèo, biển cả, Ba Vì….Các chủ đề luyện nói, luôn
gắn liền với mỗi bài học âm, vần và tập đọc trong suốt cả năm học.
Khi dạy học hoạt động luyện nói, giáo viên chú ý hướng dẫn các em nói
đủ 2 nội dung: nhận biết về chủ đề và cảm xúc của các em trước chủ đề đó.
3. Khảo sát phân loại đối tưọng học sinh trong lớp để lựa chọn hình thức,
phương pháp dạy học cho phù hợp.
Ngay khi bắt đầu năm học được 1tháng tôi tiến hành khảo sát phân loại
đối tượng học sinh trong lớp thành 3 nhóm:
- Nhóm 1: Nhóm các em nói, diễn đạt trôi chảy, đủ ý, thành câu, nói, diễn đạt

trôi chảy, đủ ý, thành câu.
- Nhóm 2: Nhóm các em nói, diễn đạt chưa trôi chảy, chưa thành câu, thành
đoạn.
- Nhóm 3: Nhóm các em chưa biết diễn đạt câu.
Sau khi khảo sát xong, trong các tiết học, đặc biệt là các tiết 2 của tiết học
vần, tập đọc có hoạt động luyện nói. Tôi tiến hành lựa chọn các hình thức,
phương pháp, đồ dùng dạy học cho phù hợp, dạy học theo các biện pháp mình
lựa chọn cho phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp. Hướng dẫn học
9


sinh dần dần, hình thành cho học sinh kỹ năng, thói quen giao tiếp tự nhiên, lưu
loát….
* Đối với nhóm thứ nhất: Ngoài việc yêu cầu các em thực hiện nói đủ yêu cầu
theo chuẩn kiến thức, kỹ năng thì tôi còn gợi ý để các em có thể phát triển bài
nói rộng ra và biểu lộ được cảm xúc trong cách nói của các em.
* Đối với các em ở nhóm 2: Tôi tập trung rèn để các em nói thành câu, thành
đoạn theo các câu hỏi gợi ý của giáo viên.
* Đối với các em ở nhóm thứ 3: Đây là nhóm các em học sinh yếu nên tôi dành
thời gian để hướng dẫn các em cụ thể hơn và chỉ yêu cầu các em nói được 1-2
câu theo gọi ý của giáo viên.
Căn cứ vào trình độ học sinh trong lớp để lựa chọn cách hướng dẫn HS có
thể luyện nói một cách có hiệu quả.
4. Rèn cho học sinh kỹ năng nói đủ câu, đủ ý:
Đối với học sinh lớp 1 phần đa các em con vùng nông thôn nên một số
học sinh chưa qua mẫu giáo, việc nói năng của các em còn mang tính chất tự
phát. Trên thực tế học sinh lớp 1, khi trả lời giáo viên hoặc trả lời các câu hỏi bài
tập mà giáo viên đưa ra các em thường nói câu cụt lủn, nói trống không, không
đầy đủ câu. Mặt khác qua nhiều lần dự giờ thao giảng của đồng nghiệp, tôi nhận
thấy khi học sinh trả lời như vậy rất ít giáo viên ý thức sửa câu trả lời cho học

sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài 4 về dấu hỏi. Giáo viên đưa tranh con hổ hỏi: Tranh vẽ
gì? Thay vì phải trả lời: “Thưa cô, tranh vẽ con hổ ạ”. Thì học sinh thường chỉ
trả lời: “con hổ”. Hay: Trong tiếng “hổ” có dấu gì ? học sinh thường trả lời:
“dấu hỏi”, chứ không phải là: “Thưa cô, trong tiếng hổ có dấu hỏi”. Bởi lẽ do
thói quen hàng ngày giao tiếp, do vốn từ và khả năng nhớ nội dung câu hỏi của
học sinh còn hạn chế. Chính vì vậy ngay từ khi bắt đầu bước chân vào lớp 1, với
6 bài học đầu tiên về âm và dấu thanh. Đồng thời áp dụng với tất cả các tiết học
khác như: toán, tự nhiên xã hội, đạo đức…Tôi bắt đầu tập trung rèn luyện cho
học sinh kỹ năng nói cho đủ câu, đủ ý, biết cách trả lời câu hỏi của giáo viên đưa
ra.
Ví dụ: Khi dạy bài 7: Giáo viên đưa tranh cho học sinh quan sát và hỏi: Tranh
vẽ con gì ? (cho học sinh trả lời)
- Nếu học sinh trả lời “Con bê” hoặc không biết cách trả lời thì giáo viên
hướng dẫn học sinh cách trả lời như: Nhắc lại một phần câu hỏi, khi trả lời phải
kèm theo lời thưa cô (thầy). M: Thưa cô, tranh vẽ con bê. Sau đó cho học sinh
nhắc lại.
10


- Lúc đầu có thể giáo viên phải làm mẫu một vài lần, cho học sinh nhắc lại
câu trả lời với hình thức cá nhân, nối tiếp và đôi khi cho học sinh đọc câu trả lời
đồng thanh (cô đọc trước học sinh đọc lại sau). Với cách làm như vậy dần dần
hình thành thói quen cho học sinh nói đủ câu, đủ ý và trả lời câu hỏi rõ ràng đầy
đủ câu. Quan tâm uốn nắn sửa sai kịp thời cho các em ở mọi lúc, trong bất kỳ
môn học nào, sau vài lần sửa các em đã ý thức được việc nói phải đầy đủ câu.
Mặt khác học sinh lớp 1 các em còn rất ngây thơ, trong tâm trí các em cô
giáo luôn là hình mẫu chuẩn, lí tưởng. Chính vì vậy mà mỗi lời nói, cử chỉ của
cô giáo luôn là tấm gương để học sinh bắt chước.
5. Rèn cho học sinh kỹ năng nói thành câu, thành đoạn:

Đối với học sinh lớp 1, đặc biệt là con em vùng nông thôn thì vốn từ của các
em rất hạn chế, nghèo nàn. Chính vì vậy khi diễn đạt một vấn đề nào đó mà các
em nhìn thấy thường rất khô khan và cụt ý.
Ví dụ: Sau mỗi chủ đề luyện nói thì mục tiêu cuối cùng là học sinh phải nói
được 2 - 3 câu về chủ đề đó. Chẳng hạn như mục tiêu cuối cùng của bài luyện
nói : “giúp đỡ cha mẹ” - Bài 88- TV 1- Tập 2 là học sinh phải nói được: “Trong
tranh vẽ cảnh hai bạn đang giúp đỡ cha mẹ. Bạn nam đang quét sân, bạn nữ
đang cho gà ăn..”.
- Nâng cao hơn đối với học sinh nói tốt thì học sinh phải nói được:
“Trong tranh vẽ cảnh hai bạn đang giúp đỡ cha mẹ. Bạn nam đang quét sân,
bạn nữ đang cho gà ăn. Sân đã được bạn quét sạch sẽ, đàn gà đã được ăn no.
Sau khi làm được những việc để giúp đỡ cha mẹ em cảm thấy rất vui.”.
Sau khi rèn cho học sinh kỹ năng nói đủ câu, đủ ý, biết cách trả lời câu
hỏi ngay từ khi bắt đầu vào lớp 1. Khi học sinh đã quen và đây cũng là lúc mà
các em bước vào các bài học âm vần, tập đọc bắt đầu có các chủ đề luyện nói
tương ứng với mỗi bài học. Giáo viên bắt đầu tiếp tục rèn cho học sinh cách
trình bày các chủ đề luyện nói thành câu, thành đoạn, đúng chủ đề luyện nói.
Ví dụ: Bài 39 chủ đề luyện nói là: Bà cháu. Phần đa học sinh chỉ có thể nói:
“Tranh vẽ bà và cháu. Bà đang kể chuyện cho các cháu nghe”.
- Để giúp học sinh có thể nói thành một đoạn về chủ đề trên, trước hết
giáo viên phải hướng dẫn học sinh quan sát tranh, trả lời các câu hỏi gợi ý giáo
viên đưa ra: Tranh vẽ gì ? Bà đang làm gì? Ánh mắt bà nhìn các cháu như thế
nào? Các cháu đang làm gì? Thái độ ra sao? ở gia đình em ai là người thường kể
chuyện cổ tích cho em nghe?...
Kết hợp với các câu hỏi làm điểm tựa để các em trả lời, khi hướng dẫn
học sinh luyện nói giáo viên phải thường xuyên chú ý cách trình bày, sửa cho
11


các em câu, từ, cách dùng từ ngữ để diễn đạt. Có như vậy mới hình thành cho

học sinh nền nếp, thói quen trình bày một vấn đề nào đó phải có sự lô gíc. Đây
cũng là tiền đề để học sinh có khả năng viết văn ở các lớp học tiếp theo.
6. Hướng dẫn học sinh luyện nói đúng chủ đề:
Mỗi chủ đề luyện nói luôn gắn liền với cuộc sống, môi trường quen thuộc,
gần gũi với sự hiểu biết của các em. Đặc biệt ở mỗi bài học vần, tập đọc sẽ có
chủ đề nói tương ứng. Chính vì vậy mà giáo viên cần xác định rõ, đúng mục tiêu
của chủ đề luyện nói để hướng dẫn học sinh luyện nói đúng chủ đề.
Chẳng hạn như: Chủ đề “Nói lời cảm ơn”, “Nói lời xin lỗi” ,”Vâng lời
cha mẹ”….. Nếu đi quá sâu vào chủ đề sẽ dễ lẫn sang dạy đạo đức. Vì thế, để
khắc phục điều này, tôi chỉ định hướng cho các em câu hỏi gợi ý xoay quanh
vấn đề trọng tâm cần luyện nói:
- Em chỉ kể cho cô và các bạn trong nhóm nghe về những lần mình đã cảm ơn ai
đó về điều gì?
- Hoặc em đã nói lời xin lỗi ai vì điều gi ?
- Kể những việc đã làm thể hiện em vâng lời cha mẹ …..
Hoặc những chủ đề về “Biển cả”,”Thung lũng, suối, đèo”,”Hươu, Nai,
Gấu, Voi, Cọp” “Sẻ, ri, bói cá, le le” Gió, mây, mưa, bão, lũ”…dễ lẫn sang dạy
tự nhiên xã hội. Do đó, tôi cũng cố gắng giúp học sinh hiểu rõ nội dung chủ đề
luyện nói bằng cách gợi ý những câu hỏi thật sát với chủ đề, không sa vào tìm
hiểu về đời sống của các động vật, sự vật, hiện tượng,….
Chẳng hạn những chủ đề về các sự vật, hiện tượng xảy ra trong thiên
nhiên như: gió, mây, mưa, bão, lũ….
Cho học sinh xem 1 số tranh ảnh liên quan đến các hiện tượng đó, học sinh sẽ
nêu được tên của các sự vật trên. Sau đó, giáo viên chỉ cần nêu câu hỏi gợi ý để
các em cùng thảo luận với nhau về các hiện tượng thiên nhiên và tác hại của
chúng.
Những chủ đề nói về động vật : GV có thể cho các em sắm vai tên của các con
vật trong chủ đề cần luyện nói. Nêu lên nhận xét riêng của em về chúng (Em
thích, không thích con vật nào đó? Nói lên cảm nhận của mình: tại sao em lại
thích, không thích con vật đó?)

Điều đáng nói ở đây, trong chương trình phần gợi ý SGK qua hình vẽ hay
gợi ý ở SGV rất ít có khi chỉ có 1 - 2 câu gợi ý, hình ảnh không diễn tả hết nội
dung chủ đề, bởi vậy nếu người giáo viên chỉ làm theo SGK, SGV không mở
rộng thêm thì học sinh khó có thể nói được. Giáo viên chuẩn bị và đưa ra hệ
12


thống câu hỏi ngoài những gợi ý ở SGK để giúp các em tập trung những hiểu
biết vốn có trong cuộc sống đề nói về chủ đề thông qua việc trả lời các câu hỏi
của giáo viên. Vì vậy giáo viên phải đầu tư trong bài soạn, chuẩn bị tốt hệ thống
câu hỏi gợi mở, có thể chẻ nhỏ các gợi ý đối với các đối tượng học sinh yếu ...
thì mới có thể phát huy vốn sống, kiến thức thực tế của trẻ trong tiết học.
Ví dụ : Với chủ đề " Giúp đỡ cha mẹ" - bài 88 ( SGV chỉ có 2 câu hỏi gợi
ý: HS quan sát tranh và giới thiệu các bạn trong tranh đang làm gì? HS thảo
luận nhóm, giới thiệu với các bạn trong nhóm mình đã làm gì để giúp đỡ cha
mẹ?). Giáo viên có thể đưa thêm một số câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời: Trong
tranh vẽ cảnh gì? Bạn nam đang làm gì? Bạn nữ làm gì? Em hãy kể những việc
em đã làm để giúp đỡ cha, mẹ? Sau khi làm được những việc giúp đỡ cha mẹ em
cảm thấy như thế nào? Tùy theo đối tượng học sinh, giáo viên có thể cho học
sinh nói theo khả năng của mình : 1 đoạn, 2 câu hay 1 câu.
7. Lựa chọn hình thức, phương pháp và ĐDDH giúp học sinh luyện nói theo
khả năng:
Mỗi bài học, mỗi chủ đề giáo viên lựa chọn các cách hướng dẫn, giới
thiệu khác nhau tạo cho giờ học sinh động, gây hứng thú cho HS. Trong khi dạy
luyện nói cho học sinh lớp 1, giáo viên cần sử dụng phối hợp nhiều hình thức,
phương pháp, đồ dùng dạy học hỗ trợ, giúp học sinh tiếp thu bài nhanh chóng và
hiệu quả hơn. Các em sẽ thấy hứng thú hơn khi thực hành luyện nói. Bởi đây là
giai đoạn tâm lí lứa tuổi của các em thích mới lạ nhưng cũng rất nhanh chán.
Nếu rập khuôn một cách máy móc một hình thức hướng dẫn học sinh luyện nói
dễ làm cho học sinh nhàm chán, không hứng thú với hoạt động luyện nói. Đặc

biệt trong một lớp sẽ có nhiều đối tượng học sinh. Chính vì vậy mà giáo viên
cũng cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng nhóm đối tượng, tuỳ nội
dung từng bài.
Chẳng hạn như: với các chủ đề nói về : cây cối, hoa trái …( giáo viên có thể
đưa những vật thật hoặc tranh ảnh để học quan sát lấy điểm tựa để luyện nói….)
Ở những bài chỉ có 1- 2 câu gợi ý SGV, giáo viên có thể ứng dụng CNTT
trong một phần nội dung của tiết học (ở phần luyện nói theo chủ đề ) để giúp
học sinh có cơ hội được xem, được thấy những gì có liên quan đến chủ đề mình
đang học qua đó có thể hiểu và nói tốt hơn.
Ví dụ: - Bài 17, chủ đề luyện nói: Thủ đô
Giáo viên cho học sinh quan sát tranh trong sách giáo khoa hoặc tranh
trong bộ Đ DDH và nêu một số câu hỏi gợi ý:
13


- Trong tranh, vẽ những gì?
- Các em có biết cô giáo đưa học sinh đi thăm cảnh gì?( Chùa Một Cột)
- Chùa Một Cột ở đâu?( Hà Nội)
- Hà nội còn được gọi là gì?( Thủ đô)
- Mỗi nước có mấy thủ đô? ( GV có thể giới thiệu Hà Nội là thủ đô của
nước Việt Nam).
- Em nào đã được đến Thủ đô? Em hãy kể một số cảnh đẹp về thủ đo mà
em biết?...
Giáo viên trình chiếu một số địa điểm, cảnh đẹp ở Thủ đô Hà Nội cho học sinh
biết.

Cảnh Hồ Gươm

Bưu điện Hà Nội


Cảnh Hồ Gươm

Lăng Bác

Bài 33. Chủ đề luyện nói: “Lễ hội”
- Giáo viên có thể sưu tầm các hình ảnh có các hoạt động lễ hội để giới
thiệu thêm cho các em hiểu rõ.
14


15


Một số hình ảnh về lễ hội
- Với những chủ đề gần gũi với học sinh như: Chủ đề: Ba má; Quà quê; Nhà trẻ;
Bé và bạn bè; Người bạn tốt; Điểm 10; Bữa cơm… Giáo viên gợi mở cho học
sinh nói qua vốn hiểu biết thực tế của các em, chọn lựa những hình thức trò chơi
học tập, v.v…Chẳng hạn như:
- Chủ đề nói về gia đình:”Ba má” “Bà cháu”… có thể cho học sinh sắm vai
nhân vật thể hiện tình cảm của ông bà, ba mẹ đã yêu thương, quan tâm, chăm
sóc em. Hoặc những tình cảm, việc làm của em thể hiện sự hiếu thảo của một
người cháu, người con đối với ông bà, cha mẹ của mình.
Chẳng hạn như chủ đề: Nặn đồ chơi; Áo choàng, áo len, áo sơ mi; Ghế đẩu,
ghế xoay, ghế tựa; Phim hoạt hình; Đọc truyện tranh… Học sinh sẽ được tham
gia chơi nặn hình bằng đất, tô màu, vẽ tranh, hay chọn các loại áo thích hợp với
thời tiết…
-

Với những chủ đề lạ, xa với cuộc sống của các em: chủ đề: Rừng, Suối,
đèo, thung lũng; Lễ hội; Đất nước ta tuyệt đẹp; …giáo viên có thể dùng tranh

ảnh hỗ trợ giúp học sinh có thể cảm nhận, hiều được nội dung chủ đề luyện nói.
-

Trong khi hướng dẫn HS luyện nói giáo viên cũng cần chú trọng đến việc

phân hóa đối tượng học sinh trong lớp. Tùy từng đối tượng học sinh mà có cách
sử dụng câu hỏi gợi ý.
Đối với học sinh yếu, nói năng còn rụt rè, khi nói diễn đạt câu không hết ý
hay không diễn đạt được chủ đề luyện nói thì giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi
để gợi ý, hướng dẫn học sinh trả lời theo các gợi ý một cách đầy đủ, có hệ thống
16


theo chủ đề. Trong tiết dạy, tôi thường chú ý đến HS ít nói, thụ động, đặt những
câu hỏi dễ động viên các em cùng tham gia nói.
Ví dụ: Khi học những chủ đề quen thuộc như: chủ đề " Xanh, đỏ, tím,
vàng" - bài 64, chủ đề " Trong cặp sách của em" - bài 85, …giáo viên có thể
khuyến khích học sinh sưu tầm hình ảnh, vật thật mang đến lớp để quan sát ,
thảo luận cùng nhau qua đó có thể cùng nhau luyện nói. Chính đồ vật các em
chuẩn bị có khi là sở thích của các em, các em hiểu rõ về chúng hơn. Bởi vậy sẽ
tạo cho trẻ niềm vui, hứng thú khi các em được nói, kể về chúng với bạn bè của
mình. Điều đó cũng góp phần giúp nội dung luyện nói của giáo viên đạt hiệu
quả.
Trọng tâm khi dạy luyện nói cho HS, tôi thường chú ý rèn kỹ năng nói to,
rõ tiếng; nói thành câu, thành đoạn hoàn chỉnh, hay, giàu cảm xúc. Với một ngữ
điệu tự nhiên, chân thành.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua nhiều năm áp dụng và thực hiện kinh nghiệm trong việc hình thành
và rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh khối lớp 1, tôi đã mang lại hiệu quả cao
cho việc dạy - học môn Tiếng Việt cũng như kĩ năng giao tiếp của các em ngày

được hoàn thiện hơn. Lớp tôi chủ nhiệm cũng được nhà trường, bạn bè đồng
nghiệp, phụ huynh đánh giá cao về ý thức, thái độ, kĩ năng nói của các em.
Trong năm học vừa qua lớp tôi chủ nhiệm có các em Nguyễn Quang
Mạnh, Hoàng Thị Kim Liên, Nguyễn Bảo Nam, Trần Thảo My, Phạm Ngọc
Thư, Nguyễn Thị Trang vào đầu năm học các em này có thái độ sợ sệt, nhút
nhát, nói trống không, thiếu chủ ngữ, diễn đạt không rành mạch, ngại tiếp xúc
với các bạn nhưng sau quá trình được hình thành và bồi dưỡng kỹ năng nói các
em đã có sự tiến bộ rõ rệt, đã tự tin hơn khi giao tiếp, hăng hái phát biểu xây
dựng bài, đã mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình trước lớp, kết quả học tập của các
em có sự tiến bộ rõ rệt.
Kết quả qua các lần khảo sát ở cuối học kì I và Cuối học kỳ II đã đạt được
như sau:
Sồ học sinh nói tốt
(Nói thành câu, thành
đoạn

Sồ học sinh nói đạt
yêu cầu

Số HS nói chưa đạt
yêu cầu

(Nói đủ câu, lưu loát,
đúng chủ đề)

(Nói chưa đủ câu, nói
chưa lưu loát, chưa
17



đúng chủ đề

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

Cuối học
kỳ 1

7

25%

12

42,8%

9

32,2%

Cuối học

kỳ 2

12

42,8%

16

57,2%

0

0

Nhìn vào bảng kết quả cho ta thấy việc áp dụng các biện pháp rèn kỹ năng
luyện nói cho học sinh lớp 1 như trên đã đem lại hiệu quả cao. Giúp học sinh có
kỹ năng nói, giao tiếp tốt, tự tin và đó là tiền đề để hình thành nhân cách cho trẻ.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Qua việc nghiên cứu và áp dụng những biện pháp rèn kỹ năng nói cho học
sinh lớp 1, bản thân tôi thấy để đạt được hiệu quả cao trong rèn kỹ năng nói cho
học sinh thì bản thân mỗi giáo viên cần:
- Nắm bắt và hiểu nội dung, mục tiêu của chương trình, ý đồ của từng chủ
đề luyện nói.
- Hình thức tổ chức hoạt động học tập phải linh hoạt. Tận dụng tối đa
phương tiện trực quan, phát huy năng lực quan sát của học sinh. Hệ thống câu
hỏi dẫn dắt, gợi ý phải rõ ràng, ngắn gọn xoay quanh chủ đề luyện nói, phù hợp
với mọi trình độ của học sinh trong lớp.
- Khi học sinh tham gia vào nhóm hoạt động, giáo viên cần theo dõi và
không bỏ sót học sinh nào khi yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi, chứ không chỉ

chú ý đến những em hay giơ tay. Giáo viên cần đảm bảo tạo cơ hội cho tất cả
các học sinh lần lượt được nói trước lớp. Chính vì vậy, việc phân nhóm nhỏ để
cho các em được tập nói là rất cần thiết.
- Phối hợp nhịp nhàng các hoạt động ngoại khóa khác để phát triển kỹ
năng
nói.
- Thường xuyên động viên, khuyến khích học sinh tham gia giao tiếp.
- Xây dựng lớp học trong không khí học tập thoải mái, vui tươi, thân thiện
giữa thầy và trò, giữa học sinh với học sinh. Động viên, khuyến khích, uốn nắn
học sinh kịp thời ở tất cả các môn học, gần gũi trò chuyện cùng học sinh, nhất là
học sinh nhút nhát. Xây dựng tốt nề nếp lớp học, phối hợp nhịp nhàng các hình
thức tổ chức dạy học.
II. Kiến nghị:
Đối với các đ/c giáo viên dạy lớp 1: Cần quan tâm hơn tới việc luyện nói
cho các em học sinh trong tiết dạy Tiếng Việt. Giáo viên cần phải nghiên cứu
kỹ chủ đề dạy luyện nói, xây dựng hệ thống các câu hỏi gợi ý phù hợp để các
18


em học sinh có thể nói đúng chủ đề và nói một cách sáng tạo. Chứ không nên
hướng dẫn học sinh trả lời theo câu hỏi của giáo viên. Có thể sưu tầm một số
các tranh ảnh liên quan đến chủ đề luyện nói để các em có vốn hiểu biết phong
phú và nói tốt hơn. Nói tốt cũng chính là tiền đề để các em có thể viết bài tập
làm văn tốt hơn ở các lớp trên.
- Đối với nhà trường: Cần tạo điều kiện bổ sung cho các lớp 1 bộ tranh dạy
luyện nói. Tổ chức chuyên đề dạy phân môn Tiếng Việt lớp 1 trong đó có phần
luyện nói cho tất cả các đ/c giáo viên dự để rút kinh nghiệm dạy phần luyện nói
cho học sinh lớp 1 tốt hơn.
Trên đây là kinh nghiệm nghiên cứu của bản thân về rèn kỹ năng nói cho
học sinh lớp 1 thực tế đã áp dụng có hiệu quả. Rất mong được sự trao đổi, góp ý,

bổ sung của Hội đồng khoa học nhà trường, ngành Giáo dục và Đào tạo để cho
đề tài được hoàn thiện hơn. Tạo điều kiện để đề tài đươc nhân rộng cho bạn bè
đồng nghiệp tham khảo, góp ý cùng thực hiện để làm sao luyện nói là một phần
quan trọng đươc giáo viên và học sinh chú trọng.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 20 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.

Hoàng Thị Tuyến
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Mai Ngọc Chữ - Vũ Đức Nguyên - Hoàng Trọng Phiến: Cơ sở ngôn ngữ
học và Tiếng Việt.-

Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp.

2. Phan Thiều:Rèn luyện ngôn ngữ (tập 1, tập 2) Nhà xuất bản Giáo dục.
3. Tạp chí dạy và học ngày nay số 4/2007.
4. Sách Tiếng Việt 1 (tập 1, tập 2)- NXB Giáo dục
5. Sách giáo viên Tiếng Việt 1 ( Tập 1,tập 2) của NXB Giáo dục
5. Một số thông tin khác trên internet.
19


20




Skkn rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.59 KB, 13 trang )



Sáng kiến kinh nghiệm

Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1

MỤC LỤC

NỘI DUNG

Trang

A. MỞ ĐẦU
2

I. Đặt vấn đê

2

1.Thực trạng của đề tài
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới:

3
3

3. Phạm vi nghiên cứu.
II. Phương pháp nghiên cứu.
1.Cơ sở lí luận và thực tiễn :

3
3



2.Các biện pháp tiến hành.
B . NỘI DUNG
I. Mục tiêu.

3-4

II. Mô tả các giải pháp của đê tài:
1 .Thuyết minh tính mới
2. Khả năng áp dụng
3. Lợi ích kinh tế – xã hội

Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết

4
5
5

1




Sáng kiến kinh nghiệm

Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1
C. KẾT LUẬN
6

1. Kết luận :


6

2. Đề xuất ,kiến nghi
PHẦN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỘNG KHOA HỌC CÁC CẤP
TÀI LIỆU THAM KHẢO

7
8

A. MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đê :
Không biết từ bao giờ, trải qua hàng ngàn năm tiến hoá của loài người, ngôn ngữ tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm,
trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hoá, tính cách con người.
Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng:
“Học ăn, học nói, học gói, học mở”
“Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lì mà nói cho vừa lòng nhau”.
Để đánh giá một con người, chúng ta cũng phải có sự thử thách qua giao tiếp hàng
ngày với họ:
“ Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”.
Mặt khác việc giao tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều
lĩnh vực;
“ Khéo bán, khéo mua cũng thua người khéo nói”.
Với trẻ em lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ,
chúng ta cũng đã rất chú trọng:
“ Trẻ lên ba, cả nhà học nói”.
Ngành Giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục tiểu hco nói riêng đã được xã hội
giao cho trọng trách đáng tự hào là giáo dục trẻ em ngay từ những ngày đầu bước chân
đến trường. Từ bao đời nay, việc giáo dục ở nhà trường đã áp dụng phương châm:

Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết

2




Sáng kiến kinh nghiệm

Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1
“ Tiên học lễ, hậu học văn”.

Dạy Tiếng việt không có nghĩa là chỉ dạy các em kỹ năng nghe, đọc, viết, mà còn
dạy các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng
quan trọng. Ta thử tưởng tượng một người đọc thông, viết thạo tất cả các văn bản, song
khi giao tiếp lại không gây được mối thiện cảm đối với mọi người thì người đó có khả
năng sống vui và làm việc đạt hiệu quả không?
Trong giao tiếp cần chọn lọc, sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt sao cho giúp người khác
nghe và hiểu được ý của mình, những thông tin cần giao tiếp nhằm đạt đến thành công
trong công việc. Đặc biệt, trong lĩnh vực giáo dục cũng đòi hỏi giáo viên hướng dẫn
giảng dạy sao cho học sinh của mình có được kĩ năng giao tiếp thật tốt.
Chính vì lí do đó, đối với học sinh (bất cứ bậc học nào) cũng đều rèn luyện 4 kĩ
năng: Nghe, nói, đọc, viết để đáp ứng nhu cầu giao tiếp.
Để thực hiện được yêu cầu nêu trên ở chương trình mới môn Tiếng Việt, việc rèn kĩ
năng nói là một yêu cầu không kém phần quan trọng trong mục tiêu kiến thức cần đạt .
Yêu cầu này được thực hiện ở hoạt động luyện nói trong tiết học vần lớp 1. Việc rèn kĩ
năng nói đã giúp cho học sinh có khả năng giao tiếp, có khả năng nhìn nhận và nhận xét
sự vật, sự việc . Vì thế, để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả giáo viên cần có cách
tổ chức dạy học để khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của
mình nhằm phát huy kĩ năng nói và tính cởi mở, tự tin hơn trong giao tiếp.

Trên đây là một trong những điểm mới của chương trình, sách giáo khoa Tiếng Việt
1 và tôi cũng muốn cộng tác để giúp các em rèn kĩ năng nói một cách có hiệu quả. Đó
cũng chính là lí do để tôi chọn đề tài “Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1”.
1. Thực trạng của vấn đê :
a. Thuận lợi :
- Các em được tiếp thu kiến thức bằng phương pháp dạy học mới lấy học sinh làm
trung tâm cho nên việc rèn kĩ năng đọc và rèn kĩ năng nói thông qua hình thức thực hành,
luyện tập là cơ sở để các em luyện đọc và luyện nói tốt .

Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết

3




Sáng kiến kinh nghiệm
Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1
- Với vi trí là một trường đạt chuẩn quốc gia, đảm bảo đạt tiêu chuẩn về cơ sở vật

chất và thiết bi dạy học. Đội ngũ giáo viên đều có trình độ đạt chuẩn trở lên có năng lực
và lòng nhiệt tình trong giảng dạy .
- Với hoạt động học tập, vui chơi hằng ngày trên lớp học sinh có điều kiên rèn kĩ năng
đọc và rèn kĩ năng nói dưới sự kiểm soát của giáo viên và bạn bè.
- Học sinh lớp 1 có khả năng trả lời được những câu hỏi đơn giản của giáo viên và
của bạn bè trong lớp .
- Học sinh có khả năng tự nêu câu hỏi và diễn đạt câu hỏi của mình với người khác,
yêu cầu người khác trả lời.
- Đa số các chủ đề luyện nói gần gũi với cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của học
sinh.

b. Khó khăn :
Song song với những thuận lợi trên thì vẫn còn có một số trăn trở trong việc rèn kĩ
năng nói cho học sinh.
- Khả năng giao tiếp của học sinh lớp 1 còn hạn chế. Các em nhút nhát, rụt rè , ít phát
biểu, chưa tự tin trong phần luyện nói .
- Thiếu tranh ảnh trực quan phục vụ cho chủ đề luyện nói.
- Một số chủ đề lạ chưa thực sự gần gũi với cuộc sống của các em, nên các em chưa
phát huy được khả năng nói phù hợp với nội dung của chủ đề .
- Môi trường học tập ở cấp tiểu học khác biệt với cách học ở lớp mẫu giáo.
- Thời lượng dành cho phần luyện nói còn ít nên học sinh chưa tham gia được nhiều .
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới:
Ý nghĩa và tác dụng của đề tài này là tìm ra những phương pháp dạy học thích hợp
nhằm phát triển kĩ năng nói cho học sinh giúp học sinh có kĩ năng giao tiếp tốt hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài này được tiến hành với đối tượng là học sinh lớp 1 do tôi chủ nhiệm trong năm
học 2012 – 2013 và năm học 2013 – 2014.

II. Phương pháp nghiên cứu:
Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết

4




Sáng kiến kinh nghiệm
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn :

Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1


a. Cơ sở lí luận :
- Đảm bảo cho học sinh có kĩ năng giao tiếp
- Đảm bảo mục tiêu hình thành và phát triển cho học sinh 4 kĩ năng cơ bản :
Nghe - Nói - Đọc - Viết
b. Cơ sở thực tiễn :
Hệ thống chủ điểm của các bài luyện nói vừa mang tính khái quát vừa mang tính
trừu tượng góp phần cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, con
người. Qua các bài chủ đề về luyện nói, học sinh được cung cấp thêm về vốn từ ngữ, vốn
diễn đạt, những hiểu biết về các chủ đề luyện nói đơn giản. Từ đó nâng cao trình độ văn
hóa nói chung và trình độ Tiếng Việt nói riêng.
Giảng dạy và giáo dục học sinh trở thành con người mới là nhiệm vụ cần thiết của
người giáo viên tiểu học.
2. Các biện pháp tiến hành:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp :
- Điều tra
- So sánh
- Quan sát
- Phân tích tổng hợp

B . NỘI DUNG
I. Mục tiêu:
Hiện nay trong trường tiểu học, dưới sự giáo dục của nhà trường với sự giảng dạy tận
tình của thầy cô giáo, phần lớn học sinh ngoan ngoãn, biết vâng lời và kết quả học tập
cao khả năng giao tiếp, diễn đạt ý nghĩ, cảm xúc của mình với người khác rất tốt. Tuy
nhiên, bên cạnh đó vần còn một số học sinh khả năng giao tiếp còn kém, chưa vâng lời
thầy cô giáo dẫn đến kết quả học tập chưa tốt. Vì thế, là giáo viên trực tiếp giảng dạy tất
cả các môn học trong nhà trường, tôi cần nghiên cứu và tìm ra phương pháp cụ thể, phù

Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết


5




Sáng kiến kinh nghiệm
Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1
hợp với từng đối tượng học sinh để giúp các em tiến bộ, nắm vững kiến thức trong
chương trình tạo nền móng vững chắc cho các em học tốt ở lớp trên và có kĩ năng giao
tiếp với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh.
Việc rèn kĩ năng nói đã giúp cho học sinh có khả năng giao tiếp, có khả năng nhìn
nhận và nhận xét sự vật, sự việc. Vậy để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả giáo
viên cần có cách tổ chức dạy học khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú bộc lộ cảm
xúc, ý nghĩ của mình nhằm phát huy kĩ năng nói và tính cởi mở, tự tin hơn trong giao
tiếp.

II. Mô tả các giải pháp của đê tài :
1. Thuyết minh tính mới:
a. Xác đinh và nắm rõ mục tiêu chính của chủ đề luyện nói để tất cả các học sinh đều
được tham gia luyện nói, không đi quá xa chủ đề tránh nhầm lẫn sang môn học khác.
Chẳng hạn như :
Chủ đề “Nói lời cảm ơn”;“Giúp đỡ cha mẹ”;“Con ngoan trò giỏi”; “Những người
bạn tốt”;…. Nếu đi quá sâu sẽ dễ lẫn sang dạy Đạo Đức.
Chủ đề “Sẻ, Ri, Bói cá, Le le” ; “Hươu, Nai, Gấu, Cọp, Voi” ; “Gió, mây, mưa, bão,
lũ” ; “Biển cả”; “Thung lũng, suối, đèo”…. Nếu đi quá sâu sẽ dễ lẫn sang dạy Tự nhiên
& xã hội.
b. Nắm vững khả năng nói của từng em để đưa ra phương pháp, hình thức dạy luyện
nói phù hợp với từng đối tượng. Thường xuyên chuẩn bi hệ thống câu hỏi cho từng chủ
đề, từng đối tượng học sinh khi thực hiện dạy luyện nói.
c. Phân các chủ đề ra thành nhiều nhóm khác nhau để chọn lựa phương pháp và hình

thức khác thay đổi cho phù hợp với cá nhân, nhóm, đối thoại, độc thoại.
Đối với những chủ đề gần gũi với học sinh như: “Ba má”;“Bà cháu”;“Bé và bạn bè”;
“Những người bạn tốt”;…. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh nói theo vốn hiểu biết
của bản thân thông qua các trò chơi hay tiểu phẩm.
Đối với những chủ đề không gần gũi với học sinh như : “Vó , bè ”;“Ba Vì ”;“Ruộng
bậc thang ”; “Đất nước ta tuyệt đẹp”;…. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh quan sát
tranh cụ thể và giới thiệu trực tiếp để học sinh hiểu đúng .
Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết

6




Sáng kiến kinh nghiệm
d. Phương tiện dạy học:

Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1

- Hình ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu .
- Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế làm phương tiện giảng dạy .
e. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy :
Do tình hình học sinh đa số các em còn nhút nhát, rất thụ động, ít phát biểu.Nếu phát
biểu thì chỉ ở mức độ trả lời câu hỏi chưa có khả năng nói đủ câu hay diễn đạt rõ ý muốn
nói…Do đó , để giúp các em làm quen và phát triển khả năng nói, tôi đã:
* Gợi ý bằng hệ thống câu hỏi qua phương pháp đàm thoại.
- Bước đầu chỉ dừng lại ở việc: Thầy hỏi – Trò trả lời

Thầy chỉnh sửa hoàn thiện


câu trả lời đầy đủ ý, rõ ràng nội dung.
- Tiếp tục khuyến khích học sinh nêu câu hỏi theo chủ đề : Trò hỏi - Trò trả lời

Trò

chỉnh sửa để hoàn thiện câu hỏi, câu trả lời của bạn.
* Sử dụng tranh ảnh đồ dùng trực quan.
Học sinh quan sát tranh và diễn đạt nội dung những gì thấy được ở bức tranh dựa trên
câu hỏi gợi ý sau đó nâng dần lên về cảm nhận của mình và tự trình bày ra cảm nhận đó.
* Tổ chức các hoạt động trò chơi tạo hứng thú, giúp các em mạnh dạn, tự tin, tích cực
tham gia trong quá trình luyện nói.
* Tổ chức luyện nói theo hình thức cá nhân, nhóm đôi, nhóm 4 .
Học sinh tự nói cho nhau nghe và cùng trao đổi những nhận biết, những cảm xúc của
mình về nội dung chủ đề.
* Thường xuyên quan sát, giúp đỡ, động viên kip thời.
Với phương pháp này đặc biệt vô cùng quan trọng. Bởi có quan sát chính xác, kip thời
thì mới phát hiện được khả năng luyện nói của từng em. Từ đó mới có biện pháp phát
huy điểm mạnh của học sinh và giúp đỡ, sửa chữa kip thời những vướng mắc, sai sót
của học sinh.
- Cần chú ý đặt câu hỏi phù hợp cho từng đối tượng học sinh. Chẳng hạn với những học
sinh trung bình, yếu cần đưa ra những câu hỏi cụ thể, dễ trả lời để động viên các em tham
gia luyện nói. Đối với học sinh khá, giỏi cần đưa ra những câu hỏi khái quát hơn để các
em tự suy nghĩ và tự tìm ra cách trình bày, diễn đạt ý kiến của mình.
Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết

7





Sáng kiến kinh nghiệm
Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1
- Tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở, động viên, khen ngợi kip thời nhằm kích

thích sự hứng thú, ham học hỏi của các em .
- Cần chú ý rèn kĩ năng phát âm đúng, nói to, rõ tiếng, nói thành câu hoàn chỉnh, giọng
điệu tự nhiên, chân thành, phù hợp với từng câu nói .

2. Khả năng áp dụng:
a. Thời gian áp dụng hoặc thử nghiệm:
Đề tài này được vận dụng và áp dụng thực tế ngay trong năm học 2012 – 2013 và
năm học 2013 – 2014.
b. Khả năng áp dụng:
- Học sinh rất hứng thú khi học phân môn Tiếng Việt, nhất là trong hoạt động luyện
nói.
- Lớp học sinh động, học sinh hăng hái tham gia phát biểu.
- Các em biết cách trả lời đủ câu, diễn đạt ý nghĩ, cảm xúc của mình một cách tự
nhiên.
- Biết ứng xử các tình huống trong giao tiếp một cách rõ ràng hơn, lễ phép hơn.
Qua thực tế cho thấy trong quá trình học tập và rèn luyện kết quả đã tiến bộ rõ rệt .
Thời điểm
Năm học: 2012 – 2013
Đầu năm
Giữa kì I
Cuối kì I
Giữa kì II
Cuối năm
Năm học 2013 – 2014.
Đầu năm
Giữa kì I

Cuối kì I
Giữa kì II
Cuối năm

Diễn đạt chưa lưu loát

Diễn đạt lưu loát, rõ ràng

15
13
08
06
2

06
08
13
15
19

12
10
08
05
1

5
7
9
12

16

1. Lợi ích kinh tế – xã hội :

Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết

8




Sáng kiến kinh nghiệm
Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1
Qua kết quả thống kê cho thấy chất lượng diễn đạt và giao tiếp của học sinh tiến bộ

rõ rệt, học sinh có hứng thú học tập và mạnh dạn phát biểu xây dựng bài. Đây chính là
yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy và học Tiếng Việt cho học sinh lớp
1.

C. KẾT LUẬN
1. Kết luận :
Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Yêu cầu luyện nói
cũng nhằm mục đích phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Do vậy tôi đã bước đầu nghiên cứu và
áp dụng mọi hình thức nhằm giúp cho việc giảng dạy đạt hiệu quả. Tôi thiết nghĩ mỗi
người giáo viên nên biết cách khơi gợi, kích thích và tổ chức cho học sinh nói năng, hứng
thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình một cách hồn nhiên độc đáo là điều giáo viên cần
làm. Theo tôi, đây chỉ là một số trăn trở của tôi trong quá trình giảng dạy phân môn Tiếng
Việt ở phần luyện nói là làm sao giúp học sinh biết cách diễn đạt, trao đổi những cảm
xúc, ý nghĩ của mình với cha mẹ, thầy cô và các bạn được lưu loát, rõ ràng hơn. Thực
hiện tốt được mục tiêu này là chúng ta đã góp phần nho nhỏ, thực hiện thành công trong

việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa theo yêu cầu của Bộ giáo dục và đào tạo.
2. Đê xuất, kiến nghị:
Trên đây là một số biện pháp giáo dục, giúp đỡ, rèn luyện nói cho học sinh của lớp
tôi, song vì thời gian cũng như vốn kiến thức và kinh nghiệm vẫn còn hạn chế cho nên đề
tài này còn có những thiếu sót . Tôi mong được sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp
để tôi thực hiện đề tài này có hiệu quả hơn.
Vĩnh Thạnh, ngày 25 tháng 11 năm 2014
Người thực hiện

Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết

9




Sáng kiến kinh nghiệm

Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1

Đoàn Thi Tuyết

Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết

10




Sáng kiến kinh nghiệm


Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1

PHẦN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết

11




Sáng kiến kinh nghiệm
Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Dạy Tiếng Việt ở tiểu học
( Nhà xuất bản giáo dục)
- Trò chơi trong dạy học âm –vần Tiếng Việt
( Nhà xuất bản giáo dục)
- Một số biện pháp hỗ trợ học sinh học tập môn Tiếng Việt
( Bộ giáo dục và đào tạo - Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn)


Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết

12




Sáng kiến kinh nghiệm

Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1

Giáo viên thực hiện: Đoàn Thị Tuyết

13



Skkn-rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1

  • doc
  • 11 trang
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo các nhà nghiên cứu tâm sinh lí trẻ em cho biết nếu trẻ em không nhận
được sự trợ giúp đầy đủ để phát triển các kĩ năng giao tiếp bằng lời trong những
năm đầu tiên của cuộc đời thường khó khăn trong giao tiếp xã hội và phát triển cảm
xúc khi các em lớn lên. Quá trình tư duy của trẻ thay đổi kéo theo việc học ngôn
ngữ cũng thay đổi. Lúc này trường tiểu học trở thành môi trường giáo dục tốt nhất
hướng dẫn trẻ phát triển vốn từ, học các cấu trúc chính xác của tiếng mẹ đẻ, mở
mang hiểu biết, hoàn thiện nhân cách.
Những điều nêu trên cho thấy, việc học tiếng nói chung và việc rèn kĩ năng nói nói
riêng ở tiểu học cần dựa trên nền tảng vốn sống, kinh nghiệm sử dụng ngôn ngữ
của trẻ để tiếp tục phát huy năng lực ngôn ngữ, năng lực tư duy bằng ngôn ngữ nói
của trẻ em.
Thông qua hoạt động nói các em sẽ phát huy được vốn ngôn ngữ tiếng Việt,
nói đúng cấu trúc ngữ pháp, mở rộng thêm vốn từ, làm cơ sở cho việc tiếp thu tri
thức sau này. Cũng nhằm hình thành thói quen, ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu
đẹp của tiếng Việt, góp phần hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Vì ngoài việc cung cấp cho học sinh hệ thống câu từ, lời nói còn rèn luyện
cho các em tính cẩn thận, sự tự tin trước đám đông, trách nhiệm với bản thân và tôn
trọng người tham gia giao tiếp.
Thế nhưng trong thực tế hiện nay ở những giờ luyện nói tình trạng học sinh nói
không đủ ý, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn, chưa lô gic. Nhiều học sinh nhút nhát
không muốn trình bày, chia sẻ với các bạn những điều mình nghĩ, mình biết hoặc
có nói thì cũng nói trống không, không rõ nghĩa. Thậm chí có một số em đã học
đến trung học cơ sở mà trước lớp học diễn đạt vẫn chưa trôi chảy. Đây là vấn đề
nhiều giáo viên gặp khó khăn khi giảng dạy và chưa hài lòng về học sinh của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Giúp các em giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt qua ngôn ngữ
nói. Thể hiện tình yêu đất nước, tinh thần đoàn kết các dân tộc anh em trong lớp
học, trường học và trên lãnh thổ Việt Nam cũng như trên thế giới.
Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh
3. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các em học sinh khối 1 trong những năm học trước đây và học sinh
lớp 1A nói riêng của trường tiểu học Hoàng Văn Thụ năm học 2013 – 2014.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Xuyên suốt trong quá trình dạy học học sinh khối 1 và học sinh lớp 1A của
trường tiểu học Hoàng Văn Thụ năm học 2013 – 2014 và học kì 1 năm học
2014 - 2015.
1

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp trải nghiệm thực tế.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp khảo nghiệm.
- Phương pháp quan sát, thực hành theo mẫu.
- Nghiên cứu tài liệu.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của xã hội loài người. Ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng: nói và viết. Cũng
diễn đạt một nội dung nào đó bằng phương tiện ngôn ngữ, có thể sử dụng dạng nói
hoặc viết tùy theo yêu cầu, mục đích, đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp.
Kĩ năng nói – một điều mà bất cứ người giáo viên nào khi đứng trên bục
giảng cũng luôn mong muốn ở học sinh mình dạy luôn thực hiện tốt. Không chỉ
giáo viên mà ngay cả khi nghe người khác nói đúng, nói đủ, nói trọng tâm sẽ giúp
người nghe dễ hiểu nội dung câu chuyện. Có những người còn có giọng nói truyền
cảm sẽ dễ đi vào lòng người hơn. Và trong giao tiếp ngôn ngữ nói là phương tiện
giao tiếp thông dụng nhất, quan trọng nhất. Trong một tiết học, các hoạt động tác
động qua lại giữa giáo viên và học sinh đều thông qua ngôn ngữ nói sau đó mới
thực hành viết. Như vậy góp phần khẳng định nói là kĩ năng rất quan trọng trong
giao tiếp của con người.
2. Thực trạng
- Do học sinh lớp 1 đa số rất hiếu động, dễ nhớ nhưng lại mau quên nên việc
ghi nhớ lời thầy cô dạy là chưa bền vững.
- Trường nằm ở vùng sâu, vùng xa, trong lớp còn có bốn loại học sinh dân
tộc và có ba loại học sinh dân tộc thiểu số trong đó có cả học sinh dân tộc thiểu số
tại chỗ và học sinh còn nhiều thiếu thốn, điều kiện tiếp cận với báo chí, các phương
tiện thông tin đại chúng chưa nhiều. ít có điều kiện tiếp cận với môi trường mới lạ
nên ngôn ngữ diễn đạt còn hạn chế nhiều.
a. Thuận lợi – khó khăn
+ Thuận lợi: Sách giáo khoa môn Tiếng Việt hiện nay tạo ra nhiều cơ hội cho
học sinh luyện nói. Ngay từ những bài học đầu tiên của lớp 1, học sinh đã được
luyện nói theo chủ đề. Những chủ đề luyện nói cuối mỗi bài học vần nếu thực hiện
tốt sẽ vừa giúp các em ôn các âm, vần vừa học, vừa tạo không khí học tập thoải
mái, thân thiện, vừa góp phần rèn kĩ năng nói theo chủ đề cho học sinh. Sau phần
ôn tập có giành thời lượng khoảng 10 -> 12 phút cho kể chuyện. Sang khoảng giữa
kì 2 (hết phần học vần chuyển sang phân môn tập đọc – lớp 1 có tiết kể chuyện).
Nội dung các bài của phân môn kể chuyện, tập làm văn, tập đọc, luyện từ và câu…
ở các lớp 2; 3; 4; 5 đã từng bước rèn luyện và phát triển kĩ năng nói cho học sinh.
2

+ Khó khăn: - Trong quá trình dạy vì đa số các em là học sinh dân tộc thiểu
số tại chỗ. Khi ở nhà các em giao tiếp với gia đình hầu hết là tiếng mẹ đẻ nên vào
lớp 1 người giáo viên gặp rất nhiều khó khăn khi giao tiếp với học sinh nói chung
và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng.
b. Thành công – hạn chế
+ Thành công: Hầu hết các em được học qua do tôi chủ nhiệm, các em đều
nói tốt, kĩ năng nói phát triển như nói đúng trọng tâm câu hỏi, nói đủ ý câu, biết
vươn lên trong học tập, có kĩ năng sống tốt hơn.
+ Hạn chế:
* Đối với giáo viên: Còn có giáo viên
- Chưa kiểm soát kết quả học sinh luyện nói theo nhóm, khiến việc tổ chức
cho học sinh hoạt động nhóm chỉ mang tính hình thức, chưa hiệu quả.
- Chưa có biện pháp khuyến khích học sinh luyện nói có hiệu quả.
- Chưa xác định trọng tâm của giờ học cũng như chưa linh hoạt trong việc
tập trung vào những kĩ năng còn hạn chế của học sinh.
* Đối với học sinh: - Các em còn lúng túng khi nói chính là các em còn hạn
chế vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp dẫn đến việc các em không
biết nói gì với các chủ đề luyện nói theo yêu cầu bài học hoặc trong quá trình học
tập.
c. Mặt mạnh, mặt yếu
+ Mặt mạnh: - Hầu hết các em phát huy được những ưu điểm khi tôi hướng
dẫn luyện nói qua các giờ học thông qua hoạt động giao tiếp “đàm thoại”
+ Mặt yếu: - Những em chưa thông thạo Tiếng Việt việc hướng dẫn các em
luyện nói có phần hạn chế.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
- Nhờ sự tạo điều kiện giúp đỡ về thời gian của lãnh đạo trường, sự phối hợp
đồng bộ của giáo viên trong toàn khối và giáo viên bộ môn, kết hợp với sự quan
tâm nhiệt tình của giáo viên chủ nhiệm đối với từng học sinh kể cả vật chất lẫn tinh
thân nên việc đồng tình ủng hộ của cha mẹ học sinh kết quả đạt được có khả thi.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề và thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Một tiết học tốt không có nghĩa là học sinh cứ khoanh tay, ngồi im lặng trong
khi giáo viên vẫn cứ giảng bài say sưa, để rồi khi cô hỏi, học sinh chẳng biết gì để
mà trả lời. Như vậy chúng ta lại quay lại phương pháp dạy học cũ: Là thầy nói – trò
nghe. Mà muốn để có tiết học tốt thì ta phải nghĩ tới hướng tích cực, giúp các em
tiếp thu bài một cách chủ động, độc lập trong suy nghĩ, phát huy tính sáng tạo của
các em. Song khi các em đã suy nghĩ được điều mà mình biết, muốn nói nhưng lại
ngại không giám nói vì không biết bắt đầu từ đâu. Do vậy việc nắm bắt sự hiểu bài
của các em đối với giáo viên rất khó. Để có một tiết học sinh động, để giúp giáo
viên đánh giá được tất cả học sinh của mình dạy hiểu bài ở mức độ nào thì việc
đàm thoại trong mỗi tiết dạy đều rất quan trọng, thiết thực bắt đầu từ việc đàm thoại
mà giáo viên chỉ là người thiết kế (đưa ra các câu hỏi), động viên học sinh tham gia
trả lời, nhận xét lẫn nhau.
3

Có như thế đó mới là tiết học thực sự là lấy học sinh làm trung tâm. muốn
vậy thì việc giúp học sinh nói tốt rất cần thiết trong tất cả các môn học cũng như
bất kì một hoạt động giao tiếp nào.
3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Đề tài đưa ra một số giải pháp, biện pháp nhằm giúp giáo viên hướng dẫn
các em có khả năng nói và kĩ năng nói tốt nâng cao chất lượng học tập cho các em.
Việc rèn nói cho các em nói tốt, nói thành thạo, nói đúng, nói đủ ý câu giúp
các em tự tin khi giao tiếp và lĩnh hội được kiến thức bài giảng của giáo viên đầy
đủ hơn, dễ hiểu hơn, hiểu sâu hơn. lôi kéo tất cả mọi đối tượng học sinh vào bài
học tốt hơn, hiệu quả cho tiết dạy của giáo viên vẹn toàn như mong muốn.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
+ Xây dựng kế hoạch bài dạy theo kì, theo bài.
+ Tìm hiểu đối tượng học sinh thông qua cha mẹ học sinh
+ Kết hợp các anh chị đội viên khi sinh hoạt sao.
+ Phối kết hợp với giáo viên dạy thay và dạy bộ môn.
+ Thông qua kế hoạch hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Rèn kĩ năng nói thông qua các môn học
- Giáo viên cần xác định rõ nói là một trong bốn kĩ năng quan trọng ở tất cả
các môn học. Vì vậy kĩ năng nói cần được quan tâm đúng mức.
- Khi tổ chức đàm thoại ở lớp trước tiên là giáo viên nên yêu cầu một cách rõ
ràng cho mọi đối tượng học sinh đều hiểu được vấn đề mà giáo viên đặt ra. Khi nêu
câu hỏi thì phải chọn học sinh có trình độ phù hợp để trả lời ( dạy phân hóa theo
các đối tượng học sinh), không chỉ tập trung vào những học sinh có năng khiếu nói
tốt mà phải giành cho tất cả mọi đối tượng học sinh đều được tham gia nói. Cũng
không nhất thiết cứ phải tới mục luyện nói của môn Tiếng Việt thì các em mới
được tham gia nói mà ngay trong quá trình giảng dạy ở tất cả các môn, các em đều
được tham gia nói.
+ Trong môn toán:
(Ví dụ: Giáo viên hỏi: 2 + 3 = ? (hai cộng ba bằng mấy? ) – thường thì học
sinh chỉ trả lời luôn kết quả: 5 hoặc bằng 5. Lúc này giáo viên giúp đỡ học sinh
hiểu ngoài việc nói đúng ra cần phải nói đủ ý câu như: hai cộng ba bằng năm
(2 + 3 = 5) và cho học sinh nhận xét câu trả lời của bạn. Khi học sinh tham gia
nhận xét câu trả lời của bạn mình đó cũng là hình thức giúp các em luyện nói: Như
ví dụ trên khi bạn trả lời, học sinh khác sẽ tham gia nhận xét bạn: Thưa cô bạn nói
đúng nhưng chưa đủ ý câu: (5 hoặc bằng 5). Hoặc bạn nói đúng, đủ, nói to, rõ ràng
ạ như vậy đã thể hiện hình thức tăng cường Tiêng Việt cho học sinh và giúp người
nghe hiểu trọn vẹn nội dung đề yêu cầu. Ngoài ra trong quá trình hình thành các
phép tính, giáo viên hướng dẫn cho các em nói thông qua các các hình vẽ (trực
quan) hoặc đồ dùng có sẵn, từ các bài học nhận biết số cho đến các phép tính và
sau là toán giải có lời văn. Giúp các em tự lĩnh hội được kĩ năng nói Tiếng Việt tốt
hơn.
4

Ví dụ: Cho tóm tắt bài toán:
Mai có: 10 kẹo
Mai cho: 4 kẹo
Mai còn:…kẹo?
Từ tóm tắt bài toán, các em sẽ phải hiểu được nội dung trọn vẹn của đề và
giáo viên thường yêu cầu nhìn tóm tắt, đọc đề toán, Ở đây đã triển khai từ thu hẹp
góc độ đề sẽ mở rộng đề qua ngôn ngữ nói: Mai có 10 kẹo, Mai cho bạn 4 kẹo. Hỏi
Mai còn lại mấy(bao nhiêu) kẹo? để từ đó giúp các em giải bài toán có lời giải
đúng, đủ, rõ nghĩa.
+ Trong môn âm nhạc:
Trong quá trình dạy môn âm nhạc (phần dạy lời bài hát), bao giờ giáo viên
cũng cho các em được đọc lời bài hát. Đó cũng là một phần trong việc rèn nói (nói
đúng lời bài hát), sau đó hướng dẫn các em hát và yêu cầu hát thuộc lời bài hát. Khi
các em tập hát to, ngay cả khi chúng ở nhà một mình, trẻ sẽ vượt qua nỗi sợ diễn
thuyết. hát thuộc lời bài hát đúng giai điệu bài hát đó được đánh giá là có năng
khiếu hát, góp phần tham gia vào kĩ năng nói.
+ Trong môn Tiếng Việt:
Cuối mỗi bài (phân môn học vần) đều có mục luyện nói song không phải cứ
đến mục này thì các em mới được tham gia nói, mà trong quá trình đàm thoại như
khi bắt đầu vào học vần mới là nhận diện vần, các em đã được tham gia nóí, giáo
viên định hướng, uốn nắn cho học sinh nói từ nói đúng đến nói đủ, không nên trả
lời trống không.
Ví dụ khi dạy vần ôt - ơt (bài 70 )
Dạy vần ôt: Ghi và hướng dẫn học sinh nhận diện vần.
- Vần gồm mấy âm? (Học sinh trả lời: Vần gồm hai âm: Âm ô đứng trước, âm t
đứng sau). Đến đây giáo viên cũng cần uốn nắn ngay từ đầu để các em cần nói
đúng, đủ, kể cả học sinh khác tham gia nhận xét cũng vậy. (ví dụ: Em thưa cô bạn
trả lời đúng, đủ rồi ạ; hoặc bạn nói (trả lời) đúng (gần đúng) rồi ạ) . Không nên để
học sinh trả lời cộc lốc như: đúng – sai qua ngôn ngữ nói
Đến khi xây dựng tiếng: Đã có vần ôt, muốn có tiếng cột ta phải thêm âm gì và
thanh gì? (Thường thì học sinh hay trả lời: âm c và thanh nặng), nhưng giáo viên
cần uốn nắn cho các em nói đúng, đủ ý câu: (Đã có vần ôt, muốn có tiếng cột ta
phải thêm âm c đứng trước vần ôt và thêm thanh nặng dưới âm ô).
Khi xây dựng và rút ra từ khóa: cột cờ. Giáo viên cần giúp đỡ các em nói được: Từ
cột cờ có hai tiếng, tiếng cột đứng trước, tiếng cờ sau.
Khi dạy đến vần 2 (ơt), yêu cầu so sánh hai vần, giúp các em nói được: hai vần
giống nhau đều có âm (t) đứng cuối vần; hai vần khác nhau hai âm đầu vần (âm ô
khác âm ơ).
Như vậy cứ sau một hoạt động, giáo viên đều cho các em tự nhận xét về câu
trả lời của bạn, đó cũng chính là hình thức tăng cường Tiếng Việt (hay đó chính là
động viên các em phát triển lời nói tự nhiên). Giáo viên cần quan sát và nếu còn có
5

học sinh luyện nói chưa tốt, giáo viên nên hướng dẫn cho các em thực hành nói
theo mẫu.
Phần luyện nói theo chủ đề là một nội dung nhằm phát triển ngôn ngữ tự
nhiên của trẻ, do vậy sau mỗi bài học nào cũng có mục luyện nói theo chủ đề, tùy
thuộc vào tình hình thực tế nơi các em sinh sống và chủ đề mà giáo viên điều chỉnh
cho phù hợp nội dung luyện nói. Để đạt được kết quả trong mục luyện nói này, giáo
viên nên định hướng cho các em về chủ đề thành những nội dung cụ thể và nên tổ
chức hoạt động theo nhóm 2, không nên tổ chức hoạt động theo nhóm lớn vì như
thế các em sẽ ít được tham gia nói. Nếu hoạt động theo nhóm 2 thì sẽ giúp học sinh
hỏi – trả lời theo chủ đề, có đổi qua lại hỏi – đáp để học nào cũng được tham gia
nói. Khi học sinh tham gia hoạt động nhóm thì giáo viên cần theo dõi và không bỏ
sót một trẻ nào khi yêu cầu trẻ trả lời câu hỏi, giáo viên không nên chú ý đến những
em hay giơ tay. Giáo viên cần đảm bảo tạo cơ hội cho tất cả các học sinh lần lượt
được nói trước lớp. Chính vì thế việc phân nhóm nhỏ để tập trung nói là rất cần
thiết.
Với những học sinh diễn đạt ngôn ngữ còn lộn xộn thì sau mỗi lần nói, giáo
viên cần hướng dẫn các em sắp xếp thứ tự những điều cần nói có trước có sau và
nói lại thật phù hợp với yêu cầu đặt ra.
Trong quá trình đàm thoại, giáo viên phát hiện ra học sinh phát âm chưa
đúng, hay dùng từ chưa chính xác trong một số trường hợp thì giáo viên cần sửa
chữa ngay và cho các em nói lại thành câu hoàn chỉnh để ghi nhớ.
Cuối mỗi bài ôn tập phần học vần có mục kể chuyện, sang dạy phân môn tập
đọc ở cuối mỗi bài dạy( phần luyện đọc) đều có phần luyện nói câu có chứa vần…
cần ôn. Và cuối mỗi chủ điểm đều có một tiết dạy kể chuyện cụ thể. Tập đọc và kể
chuyện cũng là một cách rèn nói cho học sinh có kĩ năng nói tốt. Đối với học sinh
có kĩ năng nói tốt sẽ có giọng đọc tốt, kể chuyện truyền cảm.
* Kết hợp với giáo viên bộ môn và giáo viên dạy thay.
Đối với giáo viên dạy các môn chuyên biệt (thể dục, mĩ thuật…) và giáo viên
dạy thay, tôi thường xuyên gặp và trao đổi để cùng với giáo viên chủ nhiệm nhắc
nhở, uốn nắn cách trả lời của các em ngay trong từng tiết học, môn học để các em
thấy được thầy cô nào cũng quan tâm, cũng có trách nhiệm mong muốn các em tiến
bộ. Từ đó các em sẽ cố gắng thực hiện một cách tự giác để sớm hoàn thành nhiệm
vụ học tập và để tất cả các thầy cô được vui.
* Kết hợp với gia đình học sinh.
Nhiều phụ huynh học sinh cho rằng con đọc tốt, viết tốt, (thực hành) làm bài
tập đúng là đủ. Lúc này giáo viên cần định hướng cho họ hiểu về các kĩ năng cần
và đủ của một học sinh. Vì vậy giáo viên cần tuyên truyền tới phụ huynh học sinh
vào các buổi họp cha mẹ học sinh giúp họ hiểu phát triển toàn diện về một học sinh
có năng khiếu một cách đúng đắn, về tầm quan trọng của việc học nói chung và về
kĩ năng nói nói riêng. Cần giúp họ hiểu việc giáo dục, động viên các em thì phụ
huynh phải thực sự gương mẫu trong việc nói năng có chừng mực, lịch sự, nhã
nhặn với mọi người xung quanh để các em học tập, noi theo. Khuyến khích phụ
6

huynh có con học tập tiến bộ bằng phần thưởng như: Cho đi tham quan, du lịch…
giúp các em phát triển tri giác nhiều sẽ tốt cho các em khi làm văn sau này.
Tuyên truyền tới cha mẹ học sinh giúp con mình phát triển kĩ năng ngôn ngữ
nói Tiếng Việt tại nhà như: Nói đúng theo nội dung, đủ ý câu, lưu loát.
Đối với phụ huynh là người dân tộc thiểu số: Giáo viên cần gặp trực tiếp và
góp ý khi giao tiếp ở nhà bằng tiếng Việt, không nên nói tiếng mẹ đẻ nhiều nhưng
vẫn cần giữ gìn bản sắc văn hoá, phong tục tập quán riêng.
* Kết hợp với anh ( chị ) đội viên khi sinh hoạt sao.
Đối với học sinh lớp một việc ghi nhớ của các em chưa được vững chắc, dễ
nhớ nhưng cũng rất mau quên nên ngoài việc luyện nói trong giờ tiếng Việt ra giáo
viên cần duy trì việc uốn nắn cho các em có được kĩ năng nói thành câu, trôi chảy ở
các hoạt động giao tiếp khác như: Khi các em tham gia sinh hoạt sao được các anh
chị đội viên lớp trên xuống sinh hoạt, giáo viên nên hướng dẫn và kết hợp với anh
chị đội viên này để hướng dẫn các em hát, múa, thể dục…. Giúp các em mạnh dạn,
tự tin trước tập thể, góp phần mạnh dạn khi nói trước đám đông.
*Tuyên dương, động viên, nhắc nhở kịp thời.
Mỗi khi học sinh học tập tốt ở tất cả mọi lĩnh vực trong đó có phần luyện
nói, kĩ năng nói tốt thì giáo viên cần tuyên dương kịp thờì, đây là động lực thúc đẩy
có hiệu quả cao nhất giúp các em đã làm tốt phát huy, những em chưa mạnh dạn,
chưa tự tin khi nói cũng tự điều chỉnh. Không nên chê hoặc phạt khi các em nói
chưa đúng theo ý mình mà cần giúp các em hiểu nội dung cần nói để các em tham
gia nói tích cực. Đối với học sinh tiểu học, giáo viên là người chuẩn mực nhất,
tuyệt vời nhất, nói gì cũng đúng. Chính vì thế nên giáo viên phải có kĩ năng nói
chuẩn, đúng, ngoài ra cần có kĩ năng nói truyền cảm khi kể chuyện.
c/ Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp.
Giáo viên cần nắm vững và hiểu rõ vai trò của việc nói và kĩ năng nói. Cần
có sự hỗ trợ đồng bộ của giáo viên bộ môn và giáo viên dạy thay cũng như kinh
nghiệm của giáo viên trong toàn khối 1.
d/ Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp như tôi vừa trình bày nó có quan hệ mật thiết và
lôgic xuyên suốt trong quá trình dạy học kể cả giờ học chính khoá cũng như ngoại
khoá cũng như tiết sinh hoạt lớp.
e/ Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
- Qua khảo nghiệm thu được những kết quả khả thi. Đa số học sinh nói tốt và
có kĩ năng nói tốt. Nói đúng, nói đủ ý câu, góp phần nâng cao chất lượng học tập
cho các em.
Kết quả khảo nghiệm năm học 2013 – 2014 của lớp 1A trường tiểu học
Hoàng Văn Thụ do tôi chủ nhiệm ( TSHS 17 em, trong đó có 2 học sinh khuyết tật
nặng; 10 em là học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ).

7

Mức độ

Nói trống không

Nói chưa đủ ý

Nói đúng, đủ ý
câu (trả lời)

Tham gia nhận
xét đánh giá bạn
nói

Phát triển lời nói
tự nhiên

15 -> 17 %

Giai đoạn

Đầu
học

năm

97 -> 99%

90- >95%

8 -> 10 %

10 -> 15 %

Cuối
học

năm

1 -> 0 %

2 -> 1 %

98 -> 100%

98 -> 100% 94 -> 96 %

4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu.
Những giải pháp, biện pháp này vẫn được tôi tiếp tục vận dụng trong năm
học 2014 - 2015 và thu được kêt quả rất tốt trong học kì 1 này.
Đề tài rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1có tác động tới giáo viên trong toàn
khối 1 của trường. Đề tài có thể nghiên cứu và phát triển cao hơn.
Như vậy để có tiết học tốt, giờ học tốt, trước hết người giáo viên phải định
hướng cho các em chăm chú nghe giảng, tham gia nói, có kĩ năng nói tốt. Thực tế
cho thấy giáo viên chủ nhiệm càng quan tâm tới bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết và
đặc biệt là kĩ năng nói bao nhiêu thì các em học tốt bấy nhiêu. Và qua kinh nghiệm
này của tôi, tôi thiết nghĩ đã góp phần thúc đẩy động cơ học tập cho các em, giúp
các em tự tin trong học tập, mạnh dạn trong giao tiếp thông qua ngôn ngữ nói, giúp
các em lĩnh hội bài học một cách có chủ động và hiểu bài sâu hơn, tốt hơn.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Muốn có chất lượng trong giờ dạy tốt thì việc đầu tiên người giáo viên phải
xây dựng được kế hoạch bài dạy dài hạn và theo từng chủ đề, từng bài theo hướng
đổi mới. Vậy muốn cho học sinh nói tốt, trước hết người giáo viên phải nắm được
vai trò của việc luyện nói cũng như kĩ năng nói. người giáo viên chủ nhiệm phải
biết xây dựng kế hoạch lâu dài và ngắn hạn phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của
học sinh địa phương.
Cần phối hợp đồng bộ giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn, giáo
viên dạy thay; với cha mẹ học sinh; với giáo viên trong toàn khối 1 nói riêng và các
khối lớp khác trong trường được tốt.
2. Kiến nghị
Đối với lãnh đạo cần mở chuyên đề (một tiết dạy ) cụ thể về hình thức tăng
cường Tiếng Việt “ cần có điểm nhấn” cho học sinh như vùng có nhiều học sinh là
học sinh dân tộc thiểu số đang theo học đặc biệt là lớp một.
Người viết.

8

Phạm Thị Hòe
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
...................................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
...................................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)

9

TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

Tên tài liệu

Tên tác giả

1

- Tâm lí lứa tuổi học
sinh

2

Một số biện pháp nâng CNĐT – TS: Trần Thị
cao hiệu quả rèn kĩ Hiền Lương
năng nói cho học sinh
tiểu học.
Tham khảo tài liệu
trên mạng internet

3

10

Nhà xuất
bản

Năm xuất
bản

Thời gian
thực hiện: 5/
2007 – 12/
2008

MỤC LỤC
Mục
I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng:
a/ Thuận lợi – khó khăn
b/ Thành công – hạn chế
c/ mặt mạnh – mặt yếu
d/ Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
e/ Phân tích, đánh giá các vấn đề và thực trạng mà đề tài
đã đặt ra
3. Giải pháp, biện pháp
a/ Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
b/ Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
c/ Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
d/ Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
e/ Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu.
4. Kết quả rhu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học
của vấn đề nghiên cứu.
III. Phần kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang
1

2

3
4
5; 6
7

8

10

11

Tải về bản full

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2

MỞ ĐẦU

Cũng như bộ SGK Tiếng Việt Tiểu học cải cách giáo dục cũ, bộ SGK Tiếng Việt tiểu học mới tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh thông qua các phân môn Tập đọc, Từ ngữ - Ngữ pháp, Chính tả, Tập viết, Kể chuyện và Tập làm văn.

Cấp tiểu học là cấp học nền tảng, quan trọng trong hệ thống các cấp học ở nước ta vì đây là cấp học mở đầu cung cấp những kiến thức cơ bản, ban đầu cho học sinh đồng thời thông qua các hoạt động học tập đó người giáo viên còn dạy cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn chuẩn bị cho các cấp học tiếp theo.

Trong cấp tiểu học thì các lớp đầu cấp (lớp 1,2) lại càng được coi trọng vì đây là thời kỳ các em bắt đầu làm quen với một hệ thống các tri thức mới của rất nhiều các môn học trong đó môn Tiếng Việt giúp cho các em hình thành và phát triển các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập tốt các môn học khác và tham gia giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi đồng thời rèn luyện các thao tác tư duy.

Phân môn Tập đọc rèn luyện cho học sinh các kĩ năng đọc (đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc hiểu, đọc diễn cảm), nghe và nói. Bên cạnh đó, thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội dung bài đọc, phân môn Tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết tự nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học (như đề tài, cốt truyện, nhân vật…) và góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh.

Phân môn Từ ngữ - Ngữ pháp được gọi bằng tên mới là Luyện từ và câu, cung cấp những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt bằng con đường quy nạp và rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu (nói, viết), kĩ năng đọc cho học sinh.

Phân môn Chính tả rèn các kĩ năng viết, nghe và đọc. Trong giờ Chính tả, nhiệm vụ của học sinh là viết một đoạn văn (nhìn – viết, nghe – viết, nhớ - viết) và làm bài tập chính tả, qua đó rèn luyện các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Các bài chính tả nhiều khi cũng cung cấp cho học sinh vốn từ, vốn hiểu biết về các mảng khác nhau của đời sống.

Phân môn Tập viết chủ yếu rèn kĩ năng viết chữ.

Phân môn Kể chuyện rèn kĩ năng nói, nghe và đọc. Trong giờ kể chuyện, học sinh kể lại những câu chuyện phù hợp với chủ điểm mà các em đã học (Trong sách SGK hoặc trong các sách khác), nghe thầy, cô hoặc bạn kể rồi kể lại một câu chuyện bằng lời của mình, trả lời câu hỏi hoặc ghi lại những chi tiết chính của câu chuyện đó.

Phân môn Tập làm văn rèn cả 4 kĩ năng nghe, nói, viết và đọc. Trong giờ Tập làm văn, học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (nói, viết) xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành của văn bản.

Nhận biết được tầm quan trọng của việc đổi mới SGK lớp 2 và môn Tiếng Việt ở lớp 2, là một trong những giáo viên được tiếp cận với chương trình và SGK mới, tôi vừa dạy vừa nghiên cứu để tìm ra những sáng kiến mới nhằm nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và mong được góp sức giúp cho công tác giáo dục ngày càng phát triển và đổi mới.

Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học, Tiếng Việt là môn học rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tự giác tập luyện và rút kinh nghiệm qua thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Trong kinh nghiệm này, tôi xin đề cập đến vấn đề: “Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2”

Không biết từ bao giờ, trải qua hang ngàn năm tiến hóa của loài người, ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa, tính cách con người.

Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng:

“Học ăn, học nói, học gói, học mở”

“Lời nói không mất tiền mua,

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”

Để đánh giá một con người, chúng ta cần phải có sự thử thách qua giao tiếp hàng ngày với họ:

“Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”

Mặt khác việc giao tiếp, ứng xửa khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh vực:

“Khéo bán, khéo mua cũng thua người khéo nói”

Với trẻ em, lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng:

“Trẻ lên ba, cả nhà học nói”

Ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo dục tiểu học nói riêng đã được xã hội trao cho trọng trách đáng tự hào là giáo dục trẻ em ngay từ những ngày đầu bước chân tới trường. Từ bao đời nay, việc giáo dục ở nhà trường đã áp dụng phương châm: “Tiên học lễ, hậu học văn”.

Dạy Tiếng Việt không có nghĩa là chỉ dạy các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà dạy các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng quan trọng. Ta thử tưởng tượng một người đọc thông, viết thạo tất cả các loại văn bản, song khi giao tiếp lại để lại ấn tượng xấu, không gây được mối thiện cảm đối với mọi người thì con người đó có khả năng sống và làm việc có hiệu quả không?

Ý thức được vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong giao tiếp. Đó chính là lí do mà tôi đã chọn đề tài “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2” để trao đổi với các bạn đồng nghiệp giúp cho công tác giảng dạy trong nhà trường ngày một tốt hơn.

NỘI DUNG

PHẦN 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1 Mục tiêu, ý nghĩa:

Tìm ra những biện pháp phù hợp nhằm giúp trẻ: trước hết mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tiếp đó là rèn những kỹ năng, thói quen dùng lời nói biểu cảm trong giao tiếp, trong các giờ luyện nói của các tiết Tiếng Việt trong chương trình SGK lớp 2 hiện hành.

Nghiên cứu thực trạng trẻ lớp 2 hiện nay có kiến thức, ý thức ra sao trong giao tiếp hàng ngày cũng như sự bảy tỏ quan điểm nhận thức của bản thân, trước những vấn đề mà trẻ phải tự bộc lộ bản thân qua những lời nói, lời phát biểu trả lời theo nội dung bài học và sự giao tiếp với mọi người xung quanh ở trường, ở lớp.

Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt lớp 2 theo hướng lấy học sinh làm trung tâm.

1.2 Chuẩn yêu cầu cần đạt

Kĩ năng nói của học sinh lớp 2 cần đạt các yêu cầu sau:

- Nói thành câu, rõ ràng, mạch lạc

- Bước đầu biết chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, chia tay, mời, nhờ, yêu cầu, chia vui, chia buồn…đúng ngữ điệu và đúng nghi thức giao tiếp ở gia đình, trường học, nơi công cộng.

- Biết giới thiệu đơn giản về bản thân, gia đình, lớp học, bạn bè theo mục đích nhất định

- Kể lại được một đoạn truyện đã nghe, đã đọc.

- Nói những lời nói thể hiện hành vi thanh lịch, văn minh.

PHẦN 2: THỰC TRẠNG

Để nắm được khả năng nói của học sinh, khi nhận lớp tôi đã chủ động gần gũi giao tiếp với các em và quan sát những tình huống giao tiếp tự nhiên. Trong các tình huống giao tiếp tôi cố gắng đưa vào những nghi thức của lời nói như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, đồng ý, không đồng ý, từ chối…để xem phản ứng của học sinh. Tôi thấy đa số các em chưa biết đưa ra lời nói phù hợp với những tình huống giao tiếp.

Thực tế hiện nay do các em ít được tiếp xúc với xung quanh do bố mẹ bận đi làm và vì vậy vốn hiểu biết về các quy tắc giao tiếp của các em rất yếu. Đồng thời nhiều gia đình do cha mẹ bàn giao con ở nhà cho người giúp việc đến từ các địa phương nên các em cũng bị ảnh hưởng trong cách nói, cách phát âm của những địa phương khác nhau. Các em chưa biết cách diễn đạt ý của mình sao cho lịch sự khi giao tiếp với bạn bè hay mọi người xung quanh.

Trong giao tiếp hàng ngày các em rất ít khi nói lời khen ngợi, cảm ơn nên trong bài học các em còn lúng túng, ngại ngùng khi thực hành nói lời cảm ơn, khen ngợi.

Do các tiết học có thời lượng rất ngắn nên GV không thể cho nhiều học sinh được thực hành nhiều các nghi thức giao tiếp.

Hiện tại, một số học sinh ở địa bàn Thụy Khuê khi nói các em vẫn sai nhiều lỗi phát âm và một số học sinh do bố mẹ xuất thân ở tỉnh ngoài nên cũng ảnh hưởng lối phát âm của địa phương.

PHẦN 3:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM “RÈN KĨ NĂNG NÓI

TRONG GIỜ HỌC TIẾNG VIỆT CỦA HỌC SINH LỚP 2”

3.1 Phương pháp 1: Phương pháp quan sát:

Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu giáo dục nhằm quan sát giờ dạy của giáo viên và học tập của học sinh trên lớp đánh giá kết quả học tập của học sinh thông qua những lời phát biểu của học sinh trong giờ luyện nói của mỗi tiết học, qua lời nói của học sinh với mọi người xung quanh mọi nơi, mọi lúc qua các bài tập thực hành trong vở bài tập Tiếng Việt in.

Biện pháp thực hiện:

- Ngoài những sổ sách do nhà trường quy định, giáo viên có thêm một quyển sổ ghi chép những điều quan sát, nhận xét từng học sinh trong lớp. Đó là cuốn sổ: “Theo dõi đánh giá hành vi, cử chỉ, lời nói học sinh”. Trong cuốn sổ này, giáo viên ghi chép những hành vi, lời nói giao tiếp, những thói quen và cả những khuyết điểm còn khiếm khuyết của học sinh, để từ đó có cái nhìn khái quát về việc sử dụng vốn ngôn ngữ biểu cảm của học sinh. Từ đó giáo viên dễ dàng phân loại khả năng giao tiếp của từng học sinh giỏi và học sinh xuất sắc, luyện kĩ năng nói sao cho đạt trình độ chuẩn cho học sinh khá và học sinh trung bình. Quan sát phản ánh khá trung thực tình trạng của học sinh.

- Ưu điểm của phương pháp này là: Sau khi phân loại học sinh, giáo viên chọn lọc những câu hỏi, câu gợi mở sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh để các em phát huy hết khả năng giao tiếp của bản thân trong phần luyện nói của tiết học môn tập đọc và các môn khác trong chương trình.

3.2 Phương pháp 2: Phương pháp phân tích – tổng hợp:

Qua những ghi chép cá nhân của giáo viên và những số liệu thống kê, giáo viên xử lý những thông tin ấy bằng cách phân tích, tổng hợp những mẫu lời nói thu thập được từ phía học sinh. Từ đó có thể có sự đánh giá sát thực hơn về tình trạng học sinh.

Biện pháp thực hiện:

- Giáo viên tiến hành phân nhóm học sinh theo những nhóm sau:

a. Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, mạch lạc, biết thể hiện lời nói biểu cảm trong giao tiếp. Đây chính là những nhóm trưởng, những người dẫn chương trình trong các giờ luyện nói trên lớp, những nhân vật nòng cốt trong các tiểu phẩm của các tiết Tiếng Việt mà học sinh tham gia rèn luyện kĩ năng nói trên lớp.

b. Nhóm học sinh có lời nói tương đối trôi chảy, rõ ràng tuy nhiên chưa thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét.

c. Nhóm học sinh ngại giao tiếp, khả năng giao tiếp kém, hầu như không biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp.

Sau khi phân tích đặc điểm cũng như khả năng giao tiếp của từng học sinh trong lớp, giáo viên tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố đều khắp 3 đối tượng học sinh nêu trên trong các tổ, các nhóm.

Ưu điểm của biện pháp này là: Sự tương trợ lẫn nhau trong quá trình học tập của học sinh là việc làm hết sức bổ ích và mang tính khả quan. Như ta từng nói: “Học thày không tày học bạn”.

Sự phấn khích trong quá trình học tập, đua thầy, đua bạn sẽ giúp trẻ mạnh dạn, năng động hơn rất nhiều trong quá trình rèn nói.

Sự cổ vũ động viên của các bạn trong nhóm, trong tổ sẽ giúp trẻ tự tin hơn trước lời phát biểu của mình.

..........

Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết

Sáng kiến kinh nghiệm môn Tiếng Việt lớp 1 – Nâng cao hiệu quả hoạt động luyện nói trong tiết tiếng việt cho học sinh lớp 1

Tham khảo tài liệu 'sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng việt lớp 1 – nâng cao hiệu quả hoạt động luyện nói trong tiết tiếng việt cho học sinh lớp 1', tài liệu phổ thông, mầm non - mẫu giáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả... » Xem thêm

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng việt lớp 1 – Nâng cao hiệu quả hoạt động luyện nói trong tiết tiếng việt cho học sinh lớp 1 Nâng cao hiệu quả hoạt động luyện nói trong tiết Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 Lời mở đầu Trong cuộc sống hàng ngày, ở mọi ngành nghề đều cần đến các hoạt động giao tiếp. Giao tiếp qua việc sử dụng ngôn ngữ sao cho chọn lọc để diễn đạt ý của mình nhằm giúp người khác biết và hiểu những thông tin đến đối tượng cần giao tiếp, nhằm đạt đến thành công trong công việc. Đặc biệt,trong lĩnh vực giáo dục cũng đòi hỏi người Giáo viên hướng dẫn, giảng dạy sao cho học sinh của mình có được kỹ năng giao tiếp thật tốt. Chính vì lí do đó, đối với HS ( bất cứ ở bậc học nào ) cũng đều được rèn luyện 4 kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết để đáp ứng nhu cầu giao tiếp nêu trên.
  2. Để thực hiện được yêu cầu trên ở chương trình mới môn Tiếng Việt 1 yêu cầu giáo viên khi dạy phải đảm bảo mục tiêu hình thành và phát triển cho học sinh đầy đủ 4 kỹ năng. Trong đó kỹ năng nói được luyện tập kết hợp trong các kỹ năng đọc, nghe, viết. Điển hình là trong tiết 2 của một bài học vần hay tập đọc có hẳn 1 hoạt động riêng cho phần luyện nói. Việc rèn kỹ năng nói đã giúp cho trẻ có khả năng giao tiếp, biết ứng xử và nhận xét sự vật, sự việc trên những nhận thức riêng, bằng sự cảm nhận ngây ngô của con mắt trẻ thơ. Vì thế, để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả, giáo viên cần phải có cách tổ chức dạy để khơi gợi , kích thích học sinh có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình nhằm phát huy kỹ năng nói của các em, nhằm giúp trẻ sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở và tự tin hơn trong quá trình giao tiếp. Trên đây là một trong những điểm mới của sách giáo khoa chương trình năm 2000 và tôi cũng muốn cùng cộng tác để giúp cho các em rèn kỹ năng nói một cách hiệu quả. NHỮNG THUẬN LỢI – KHÓ KHĂN KHI DẠY LUYỆN NÓI 1 / Thuận lợi : Học sinh lớp 1 có khả năng tự trả lời các câu hỏi đơn giản và phát triển lời - nói thành một câu, 1 đoạn văn theo cảm xúc, suy nghĩ của mình. Đồ dùng dạy học đầy đủ, tranh ảnh đẹp kích thích học sinh nói, ham học, - ham tìm hiểu. Đa số các chủ đề luyện nói gần gũi với thực tế cuộc sống của học sinh - (Chủ đề về bản thân bé, bạn bè xung quanh, ba mẹ, ông bà, những sinh hoạt thông thường của các em : phim hoạt hình, đọc truyện,nhà trẻ,chuối, bưởi, vú sữa …).
  3. Giáo viên được tham gia tập huấn, dự giờ riêng cho phần luyện nói , từ đó - giúp giáo viên nắm được các mục tiêu chính trong phần luyện nói cho học sinh. 2 / Khó khăn : Tình hình học sinh : đa số các em ở vùng ven chưa qua mẫu giáo nên khả - năng giao tiếp còn hạn chế : các em còn nhút nhát, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói. Thiếu một số tranh ảnh để minh hoạ cho chủ đề cần luyện nói. - Một số chủ đề lạ, chưa thật sự với cuộc sống của các em : lễ hội, vó bè, đồi - núi… nên các em khó hình dung để phát huy khả năng nói của mình một cách phong phú. Thời lượng dành cho phần luyện nói còn ít nên học sinh không được luyện - nói nhiều. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN Để giúp Hs rèn luyện kĩ năng nói và phát triển khả năng diễn đạt ý phong phú: 1. Điều trước tiên, tôi phải xác định và nắm rõ mục tiêu chính của chủ đề cần luyện nói là gì? Chính chủ đề là điểm tựa, gợi ý cho phần luyện nói. Gợi ý sao để tất cả Hs đều được nói, không đi quá xa với chủ đề. Chẳng hạn như: Chủ đề “Nói lời cảm ơn”, “Giúp đỡ cha mẹ” ,”Con ngoan trò giỏi””Những người bạn tốt”….. Nếu đi quá sâu vào chủ đề sẽ dễ lẫn sang dạy đạo đức.Vì thế, để khắc phục điều này, tôi chỉ định hướng cho các em câu hỏi gợi ý xoay quanh vấn đề trọng tâm cần luyện nói:
  4. Em chỉ kể cho cô và các bạn trong nhóm nghe về những lần mình đã cảm  ơn ai đó về điều gì? Hoặc kể những việc em đã làm để giúp đỡ cha mẹ của mình ?  Kể những việc đã làm thể hiện em đã cố gắng để trở thành một người con  ngoan trong gia đình, một người trò giỏi của trường học? ….. Hoặc những chủ đề về “Biển cả”,”Thung lũng,suối ,đèo”,”Hươu,Nai, Gấu,Voi,Cọp” “Sẻ,ri, bói cá, le le”” Gió, mây, mưa, bão, lũ”…lẫn sang việc dạy tự nhiên xã hội.Do đó, tôi cũng cố gắng giúp học sinh bằng cách gợi ý những câu hỏi thật sát với chủ đề không sa đà tìm hiểu về đời sống của các động vật, sự vật, hiện tượng,….Chẳng hạn những chủ đề về các sự vật, hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên Cho học sinh xem 1 số tranh ảnh liên quan đến các hiện tượng đó, Hs sẽ  nêu được tên của các sự vật trên. Sau đó, Gv chỉ cần nêu câu hỏi gợi ý để các em cùng thảo luận với nhau về những tác hại,hoặc những cách nào để ngăn chặn, bảo vệ khi chúng xảy ra. Những chủ đề nói về động vật : Gv có thể cho các em sắm vai tên của các  con vật trong rừng cần luyện nói. Nêu lên nhận xét riêng của em về chúng(Em yêu, không thích con vật nào đó?Nói lên cảm nhận của mình:tại sao em lại yêu, không thích con vật đó?) 2. GV nắm bắt thực tế về khả năng nói của từng em để đưa ra phương pháp,hình thức dạy luyện nói phù hợp với đối tượng. Phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng nhóm đối tượng tuỳ nội dung - từng bài.
  5. l Tùy theo từng chủ đề mà tôi có định hướng cho học sinh khi luyện nói. Khi đặt câu hỏi để giúp các em biết cách nói cho sát nội dung bài . Tôi phải chuẩn bị và dự trù thêm 1 số câu hỏi cho từng đối tượng, đi từ câu hỏi tổng quát, rồi mới gợi ý bằng những câu hỏi nhỏ( Khi các em lúng túng sẽ dễ dàng có cơ sở theo sự định hướng của cô để rèn nói) Chuẩn bị tranh ảnh,phương tiện dạy học phục vụ cho phần luyện nói thêm sinh - động, hứng thú. l Ngoài những tranh ảnh được cung cấp, tôi cùng với các bạn trong khối sưu tầm thêm 1 số tranh ảnh, đồ dùng khác liên quan đến bài dạy để phần luyện nói thêm phong phú, gần gũi. Chẳng hạn như: với các chủ đề nói về : cây cối, hoa trái ( đưa những vật thật, tranh ảnh của những tờ ap-phích, hình trên lịch, hình chụp….) 3. Phân các chủ đề ra thành nhiều nhóm khác nhau để chọn lựa phương pháp và hình thức khác thay đổi cho phù hợp với cá nhân, nhóm, đối thoại, độc thoại… Với những chủ đề gần gũi với học sinh như: Chủ đề: Ba má; Quà quê; Nhà - trẻ; Bé và bạn bè; Người bạn tốt; Điểm 10; Bữa cơm… Giáo viên gợi mở cho Hs nói qua vốn hiểu biết thực tế của các em, chọn lựa những hình thức học tập, trò chơi v.v… Chẳng hạn như: F Chủ đề nói về gia đình:”Ba má” “Bà cháu”… có thể cho học sinh sắm vai nhân vật thể hiện tình cảm của ông bà, ba mẹ đã yêu thương, quan tâm, chăm sóc em . Hoặc những tình cảm , việc làm của em thể hiện sự hiếu thảo của một người cháu, người con đối với ông bà, cha mẹ của mình.
  6. Với những chủ đề lạ, khó hơn: chủ đề: Vó bè; Suối đèo thung lũng; Lễ hội; - Ao, hồ, giếng; Đất nước ta tuyệt đẹp; Ba Vì; Ruộng bậc thang… FChủ đề Vó bè : Cho Hs quan sát tranh thật kỹ , Gv giới thiệu trực tiếp đó chính là vó bè.Gợi ý để các em nói được dụng cụ đó được đặt ở đâu?dùng để làm gì ? FChủ đề Ba Vì : Sau khi Hs quan sát tranh xong, Gv giới thiệu trực tiếp luôn : Tranh vẽ cảnh ở Ba Vì. Gợi ý cho các em nêu lên những cảnh vật có trong bức tranh đó?Cảm nhận về cảnh vật ở đó như thế nào?( Thích hay không thích?Tại sao thích?) 4. Phương tiện dạy học: Hình ảnh trong SGK là chủ yếu. - Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để l àm phương tiện - giảng dạy. Sưu tầm thêm 1 số tranh ảnh, mẫu vật. - 5. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy: Do tình hình học sinh chiếm 1 nửa chưa qua mẫu giáo, rất thụ động ít phát - biểu. Hoặc phát biểu thì chỉ dững lại ở chỗ trả lời những câu hỏi cô đưa ra. Do vậy, để giúp cho các em làm quen và phát triển khả năng nói, tôi đã: a) Gợi ý bằng hệ thống câu hỏi qua phương pháp đàm thoại: Bước đầu chỉ dừng lại ở việc: “Thầy hỏi – trò đáp”. Dựa trên lời nói của - Hs, Gv sẽ chỉnh sửa câu nói sao cho rõ, gọn, đủ ý, diễn đạt ý theo nội dung câu hỏi xoay quanh chủ đề. b) Sử dụng tranh ảnh, đồ dùng trực quan:
  7. HS quan sát tranh và diễn đạt lại những gì đã được quan sát khi nhìn tranh. - Mỗi hình vẽ trong tranh là 1 tình huống thể hiện chủ đề của bài. Khi Hs đã quen với việc luyện nói, Gv sẽ nâng dần hình thức trong quá - trình dạy luyện nói: Chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi mở thật kỹ. Ban đầu là những câu hỏi dễ dành cho Hs chọn và giúp cả lớp có được những ý chính của chủ đề cần được nói. Sau đó câu hỏi được nâng dần cao hơn, khái quát hơn. Chẳng hạn như: với chủ đề “Chợ tết”: Gv cho Hs nghe nhạc hát về ngày - tết: các em sẽ dễ dàng hình dung và nhận ra ngay chủ đề cần phải luyện nói về ngày tết. Gv đưa ra 1 số câu hỏi mở để từng cá nhân có thể trả lời dễ dàng khi quan - sát hình vẽ về ngày tết: Tranh vẽ cảnh gì? s Trong tranh con thấy có ai và có những gì? Họ đang làm gì? s Con đã đi chợ tết bao giờ chưa? s Một số câu hỏi khác khái quát hơn để các nhóm cùng thảo luận, diễn đạt ý - hoàn chỉnh, thành 1 đoạn văn: Mọi người khi đi chợ tết như thế nào? s Ba mẹ trong gia đình con thường mua những gì khi đi chợ tết? s - Hoặc khi dạy chủ đề về “ Biển cả”: Phong cảnh biển đẹp như thế nào? s
  8. Biển có gì? Nước biển màu gì? s Âm thanh của biển ra sao? s Em hãy kể về những lần đi tắm biển với gia đình? s Tại sao em thích biển? s c) Tổ chức các hoạt động trò chơi, tạo hứng thú, giúp các em mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia trong quá trình luyện nói. Chẳng hạn như chủ đề: Nặn đồ chơi; Ao choàng, áo len, áo sơ mi; Ghế đẩu, - ghế xoay, ghế tựa; Phim hoạt hình; Đọc truyện tranh… Hs sẽ được tham gia chơi nặn hình bằng đất, tô màu, vẽ tranh, hay chọn các loại áo thích hợp với thời tiết… d) Tổ chức luyện nói theo hình thức cá nhân, nhóm đôi, nhóm sáu, tổ, lớp… Hs sẽ tự nói cho nhau nghe cùng trao đổi những nhận biết và bày tỏ cảm xúc của mình về nội dung chủ đề. e) Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng: Trong tiết dạy, tôi thường chú ý đến Hs ít nói, thụ động, đặt những câu hỏi - dễ động viên các em cùng tham gia nói. Đối với những em khá giỏi tôi sẽ khuyến khích, gợi mở bằng những câu hỏi khái quát hơn để giúp các em tự tin, mạnh dạn trình bày ý kiến, cảm xúc của mình 1 cách chân thành. Tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở, động viên khen thưởng kịp thời - nhằm kích thích sự hứng thú, ham học hỏi nơi các em. Trọng tâm khi dạy luyện nói cho Hs, tôi thường chú ý rèn kỹ năng nói to, - rõ tiếng; nói thành câu, thành đoạn hoàn chỉnh, hay, giàu cảm xúc. Với một ngữ điệu tự nhiên, chân thành.
  9. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 1) Học sinh: Rất hứng thú khi học phân môn TV, nhất là trong hoạt động luyện nói. - Lớp học sinh động, Hs tham gia tích cực phát biểu hăng hái. - Các em biết trả lời, diễn đạt ý nghĩ, cảm xúc của mình một cách tự nhiên, - chân thật. Khoảng 50% Hs nói thành 1 đoạn văn ( 3, 4 câu) đúng với nội dung chủ đề - cần luyện nói. Những em nhút nhát, rụt rè, thụ động đã nhanh nhẹn hơn, tích cực hơn. Biết - tham gia vào mọi hoạt động trong quá trình luyện nói 1 cách chủ động. Biết ứng xử các từng huống trong khi giao tiếp 1 cách nhạy bén, ngoan, lễ - phép hơn. 2) Giáo viên: Lúc đầu tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc giúp các em luyện nói. - Đa số Hs chỉ biết trả lời theo câu hỏi 1 cách thụ động, diễn đạt ý kém. - Nhưng với sự hỗ trợ của Ban giám hiệu, tổ khối và bằng sự cố gắng, lòng quyết tâm của bản thân tôi đã kiên nhẫn rèn luyện, uốn nắn, chỉnh sửa “ từng lời ăn tiếng nói” cho mỗi em. Học hỏi thêm kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp, tham khảo sách vở để - lựa chọn nhiều hình thức tổ chức giúp các em trong quá trình luyện nói. KẾT LUẬN:
  10. Trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Yêu cầu luyện nói cũng nhằm mục đích phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Do vậy tôi đ ã bước đầu nghiên cứu và áp dụng mọi hình thức nhằm giúp việc giảng dạy đạt hiệu quả. Tôi thiết nghĩ mỗi người Gv biết cách khơi gợi, kích thích và tổ chức cho Hs nói năng, hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình 1 cách hồn nhiên độc đáo là điều mà Gv cần làm. Theo tôi, đây chỉ là một số trăn trở của tôi trong quá trình giảng dạy của mình trong môn Tiếng Việt, trong đó phần “Luyện nói “ cũng là một trong những băn khoãn của rất nhiều Gv là làm sao giúp cho Hs của mình cùng dễ dàng tham gia vào quá trình rèn kĩ năng giao tiếp, qua việc các em tự diễn đạt, trao đổi những cảm nghĩ, xúc cảm ,tình cảm của mình trước một sự kiện, việc làm nào đó…. Làm được như thế chúng ta đã góp phần nho nhỏ thực hiện thành công trong việc đổi mới chương trình giáo khoa mới theo yêu cầu của Bộ. Ngày 26 tháng 03 năm 2006 Người viết Lê Thị Kim Hoa Nhận xét của Ban giám hiệu ……………………………………………………………………………………… ……………….. ……………………………………………………………………………………… ……………….. ……………………………………………………………………………………… ……………….. ……………………………………………………………………………………… ………………..
  11. ……………………………………………………………………………………… ……………….. ……………………………………………………………………………………… ……………….. ……………………………………………………………………………………… ……………….. ……………………………………………………………………………………… ……………….. Nhận xét của Lãnh đạo cấp trên: ……………………………………………………………………………………… ……………….. ……………………………………………………………………………………… ……………….. ……………………………………………………………………………………… ……………….. ……………………………………………………………………………………… ……………….. ……………………………………………………………………………………… ……………….. ……………………………………………………………………… ……………… ………………..
  12. ……………………………………………………………………………………… ……………….. ……………………………………………………………………………………… ………………..