Tại sao thuốc kháng sinh không hiệu quả trong việc chống lại virus

Thuốc kháng sinh không tiêu diệt được virus gây ra các bệnh lý như COVID-19, cảm lạnh hoặc cúm,... Hơn nữa, việc sử dụng thuốc kháng sinh để điều trị các bệnh này còn có thể dẫn đến tình trạng “kháng thuốc kháng sinh”. Vậy bạn có bao giờ thắc mắc vì sao kháng sinh không diệt được virus hay không?

Để biết kháng sinh có tác dụng với virus không thì bạn phải hiểu được cách thức hoạt động của kháng sinh, cũng như sự khác nhau giữa vi khuẩn và virus.

1.1 Cách thức hoạt động của thuốc kháng sinh

Thuốc kháng sinh được sử dụng trong điều trị các bệnh lý nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra. Vi khuẩn là những sinh vật rất nhỏ và hàng tỷ trong số chúng sống trên cơ thể bạn. Hầu hết thời gian, những vi khuẩn này đều vô hại hoặc thậm chí có ích cho cơ thể của bạn, giống như những loại vi khuẩn giúp bạn tiêu hóa thức ăn, nhưng một số vi khuẩn có thể gây bệnh.

Kháng sinh ngăn ngừa nhiễm trùng do vi khuẩn thông qua cơ chế làm chậm sự phát triển của vi khuẩn và làm hỏng khả năng sinh sản, lây lan của chúng hoặc tiêu diệt vi khuẩn bằng cách phá hủy thành tế bào vi khuẩn.

1.2 Sự khác nhau giữa vi khuẩn và virus - Vì sao kháng sinh không diệt được virus?

Virus có cấu trúc và cách tồn tại khác với vi khuẩn. Virus không có thành tế bào có thể bị kháng sinh tấn công. Thay vào đó chúng được bao bọc bởi một lớp áo protein bảo vệ.

Không giống như vi khuẩn tấn công các tế bào của cơ thể bạn từ bên ngoài, virus thực sự di chuyển vào bên trong tế bào, sống vào tạo ra các bản sao của chính chúng trong đó. Virus không thể tự sinh sản, giống như vi khuẩn mà thay vào đó chúng tự gắn thành phần di truyền của mình vào các tế bào khỏe mạnh của chúng ta và lập trình lại các tế bào đó để tạo ra những virus mới. Chính vì tất cả những điểm khác biệt này mà thuốc kháng sinh không tiêu diệt được virus.

Bạn có thể gặp một số bệnh lý do virus gây ra chẳng hạn như:

Bạn có thể đã nghe cụm từ rằng: virus phải “hoạt động theo cách của nó – run its course”. Nó có nghĩa là đợi hệ thống miễn dịch của cơ thể tự chống lại bệnh tật bằng cách kích hoạt phản ứng miễn dịch. Tuy nhiên, điều này có thể mất thời gian. Ví dụ: ho và cảm lạnh có thể kéo dài từ 7 đến 10 ngày và bệnh cúm hoặc COVID có thể khiến bạn suy sụp trong 2 đến 3 tuần hoặc hơn.

Nếu bị bệnh do virus, bạn nên nghỉ ngơi, uống nhiều nước và điều trị các triệu chứng như sốt hoặc đau nhức. Các lựa chọn điều trị bao gồm: liều lượng thích hợp thuốc giảm đau và hạ sốt như acetaminophen không kê đơn (OTC) hoặc ibuprofen, hoặc theo chỉ dẫn của bác sĩ. Nếu bạn được chẩn đoán mắc bệnh do virus như ho, cảm lạnh hoặc đau họng và các triệu chứng của bạn xấu đi hoặc kéo dài hơn 10 ngày, hãy đến khám tại các cơ sở y tế hoặc liên hệ với bác sĩ.

Trong một số bệnh nhiễm trùng do virus, chẳng hạn như cúm, bệnh zona (herpes zoster) , COVID hoặc thủy đậu (varicella), bác sĩ có thể quyết định kê đơn thuốc kháng virus để rút ngắn thời gian lây nhiễm và giúp ngăn ngừa biến chứng. Thuốc kháng virus thường cần được thực hiện sớm khi bị nhiễm trùng - thường trong 24 đến 48 giờ đầu tiên để có hiệu quả cao nhất.

Trong các trường hợp nhiễm virus phức tạp hoặc kéo dài, vi khuẩn cũng có thể xâm nhập và gây ra bệnh được gọi là “nhiễm trùng thứ phát”, chẳng hạn như viêm phổi do vi khuẩn. Trong những trường hợp này, bác sĩ có thể kê đơn thuốc kháng sinh, nếu cần để tiêu diệt vi khuẩn xâm nhập cụ thể. Thuốc kháng sinh không được kê đơn để điều trị virus.

Giống như bất kỳ sinh vật sống nào, vi khuẩn có thể tiến hóa và thích nghi với môi trường thay đổi. Điều này có nghĩa là vi khuẩn có thể trở nên “đề kháng” với thuốc kháng sinh, nếu tiếp xúc với chúng đủ nhiều.

Khi vi khuẩn trở nên đề kháng với kháng sinh, nguy cơ nhiễm trùng do các vi khuẩn có hại gây ra có thể sẽ không điều trị được nữa, vì chúng ta không còn bất kỳ vũ khí nào để chống lại chúng. Kháng sinh không tiêu diệt được virus, vì vậy khi bạn không bị nhiễm trùng thứ phát do vi khuẩn, việc dùng thuốc kháng sinh có thể làm tăng nguy cơ xảy ra tình trạng kháng kháng sinh và làm cho thuốc kháng sinh nói chung kém hiệu quả hơn.

Dùng thuốc kháng sinh khi không cần thiết là một sự lãng phí và có nguy cơ mắc các tác dụng phụ như phát ban, đau bụng hoặc tiêu chảy. Điều này cũng có nghĩa là khi bạn thực sự mắc một bệnh lý nhiễm trùng do vi khuẩn nghiêm trọng thì kháng sinh có thể sẽ không hoạt động.

Virus có thể gây bệnh:

  • Ở đường hô hấp khi chúng ta hít phải các giọt bắn chứa virus
  • Ở da khi dùng chung vật dụng cá nhân, khăn tắm bể bơi,..
  • Ở đường tiêu hóa do ngộ độc thực phẩm, lây truyền virus qua đường phân miệng,...
  • Ở đường tình dục do sự tiếp xúc với dịch cơ thể hoặc máu của người nhiễm bệnh.

Biết được phương thức lây nhiễm của virus là cách tốt nhất để ngăn chặn chúng xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh. Vì vậy, bạn cần:

  • Giữ gìn vệ sinh tốt: rửa tay sạch sẽ sau khi đi vệ sinh, trước khi ăn và nấu ăn, sau khi ho hắt hơi,...
  • Không sử dụng chung ly, đĩa, dụng cụ ăn uống, khăn tắm,... với người khác.
  • Thực hiện tốt các kỹ thuật đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm: rửa sạch thức ăn dưới vòi nước chảy trước khi chế biến, để riêng thức ăn chín và sống, ăn chín uống sôi,...
  • Tiêm chủng vắc-xin đầy đủ
  • Tuân theo các nguyên tắc quan hệ tình dục an toàn
  • Thường xuyên vệ sinh mũi họng bằng nước muối sinh lý hoặc các dung dịch sát khuẩn họng miệng.

Ngoài ra, bạn nên tăng cường sức đề kháng của cơ thể bằng chế độ ăn uống lành mạnh: ăn nhiều thực phẩm trái cây, rau, giảm lượng muối, ăn một lượng vừa phải chất béo và dầu, hạn chế ăn đường, uống đủ nước, không uống rượu, bia,... để có thể ngăn ngừa, chống lại sự tấn công của virus.

Theo dõi website Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec để nắm thêm nhiều thông tin sức khỏe, dinh dưỡng, làm đẹp để bảo vệ sức khỏe cho bản thân và những người thân yêu trong gia đình.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để được giảm ngay 15% phí khám khi đặt hẹn khám lần đầu trên toàn hệ thống Vinmec (áp dụng từ 17/10 - 31/12/2022). Quý khách cũng có thể quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn tư vấn từ xa qua video với các bác sĩ Vinmec mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

XEM THÊM:

Tại sao thuốc kháng sinh không hiệu quả trong việc chống lại virus

Bệnh gây ra bởi vi khuẩn sẽ được điều trị bằng thuốc kháng sinh thích hợp.

Vi khuẩn là những sinh vật nhân sơ. Cấu trúc của tế bào còn đơn giản, không có màng nhân nhưng chúng có khả năng tự tổng hợp chất dinh dưỡng để phát triển và tự sinh sản nhân lên. Cấu trúc vi khuẩn thường bao gồm lớp vỏ nhầy, thành tế bào, màng tế bào chất, tế bào chất, thể nhân, ribosome, mesosome, các hạt chức năng khác, nhung mao giúp bám dính và tiên mao để di chuyển.

Virus là một nhóm vi sinh vật nhỏ hơn vi khuẩn khoảng 10- 100 lần. Cấu trúc vô cùng đơn giản chỉ gồm lớp vỏ bao bọc vật chất di truyền bên trong, không có chứa các enzyme chuyển hóa hay enzyme hô hấp. Do đó, virus chỉ có thể sinh sản bên trong tế bào sống của vật chủ và rất khó để diệt virus. Dựa vào vật chất di truyền trong cấu tạo, virus được phân loại hai loại là ARN virus hoặc ADN virus.

Khác biệt về sinh sản

Trong điều kiện thích hợp, vi khuẩn sinh sản vô tính bằng cách phân đôi. Sau đó, mỗi tế bào 'con' sẽ tiếp tục phân chia và cứ tiếp tục như vậy. Chỉ cần một thời gian rất ngắn- trong vòng 08 giờ, một loại vi khuẩn có thể phát triển thành một quần thể hơn 500.000 con.

Nếu điều kiện môi trường không phù hợp với vi khuẩn, một số loài sẽ chuyển sang trạng thái không hoạt động. Chúng tạo ra một lớp vỏ bao phủ bên ngoài để bảo vệ, những tế bào vi khuẩn không hoạt động này được gọi là bào tử. Bào tử khó bị tiêu diệt hơn vi khuẩn đang hoạt động vì tính thấm kém của lớp phủ bên ngoài của chúng. 

Khác với vi khuẩn, virus chỉ có thể nhân lên trong tế bào chủ (vi khuẩn, thực vật, động vật). Các giai đoạn nhân lên của virus thường bao gồm hấp phụ, xâm nhập vào tế bào chủ, tổng hợp các thành phần cấu trúc, lắp ráp sau đó phá vỡ tế bào chủ để ra ngoài và tiếp tục xâm nhập vào tế bào chủ khác.

 Với các mARN virus, muốn tích hợp vào ADN của tế bào chủ để được nhân lên, chúng cần có enzyme phiên mã ngược để tổng hợp ADN từ mARN. Chính vì đặc điểm phá vỡ tế bào chủ hàng loạt trong quá trình nhân lên của virus, nên trong giai đoạn tiến triển của bệnh, người nhiễm virus có những triệu chứng rầm rộ.

Tác động tới hệ miễn dịch của cơ thể

Khi cơ thể nhiễm vi khuẩn hay virus thì các tế bào của hệ miễn dịch sẽ được kích hoạt để khởi phát các phản ứng bảo vệ cơ thể. Đáp ứng miễn dịch biểu hiện thông qua tăng thân nhiệt, khởi động phản ứng viêm, tăng lưu lượng máu cục bộ tới vị trí nhiễm trùng, các tế bào miễn dịch đến nhận diện, vây bắt và tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa tác nhân gây bệnh.

Tuy nhiên, virus đặt ra thách thức lớn hơn đối với hệ thống miễn dịch của cơ thể vì chúng ẩn bên trong các tế bào. Điều này làm cho các kháng thể, các tế bào miễn dịch khó tiếp cận và tiêu diệt chúng. Một số tế bào đặc biệt của hệ thống miễn dịch, được gọi là tế bào lympho T, có thể nhận ra và tiêu diệt các tế bào chứa virus, vì bề mặt của các tế bào bị nhiễm bệnh bị thay đổi khi virus nhân lên. 

Nhiều loại virus, khi được giải phóng khỏi các tế bào bị nhiễm, sẽ bị đánh đánh bại hiệu quả bởi các kháng thể đã được tạo ra trước đó trong đáp ứng với chu kỳ nhiễm virus cũ hoặc việc tiêm chủng.

Tại sao thuốc kháng sinh không hiệu quả trong việc chống lại virus

Thuốc kháng sinh không được dùng trong trị các bệnh lý do virus gây ra

Sự khác biệt giữa thuốc kháng sinh và thuốc kháng virus

Bệnh gây ra bởi vi khuẩn sẽ được điều trị bằng thuốc kháng sinh thích hợp tùy thuộc đặc điểm của vi khuẩn, khả năng phân bố của kháng sinh tới vị trí nhiễm khuẩn.

Thuốc kháng sinh tác động tới vi khuẩn thông qua việc làm gián đoạn quá trình trao đổi chất của vi khuẩn hoặc ức chế quá trình tổng hợp các chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của vi khuẩn. Từ đó vi khuẩn bị kìm hãm sự nhân lên và sau đó bị li giải, tiêu diệt. 

Cụ thể, các nhóm thuốc kháng sinh sẽ tác động lên quá trình tổng hợp vách tế bào vi khuẩn, gây rối loạn chức năng màng tế bào chất, ức chế sinh tổng hợp protein và acid nucleic. Thế nhưng, đến nay tình trạng kháng kháng sinh đang là vấn đề báo động do thực trạng sử dụng thuốc kháng sinh không hợp lý.

Trong điều trị bệnh do virus, chủ yếu là điều trị hỗ trợ, điều trị triệu chứng như hạ sốt, giảm đau, phòng biến chứng, và ngăn ngừa bội nhiễm. Về cấu trúc, thuốc kháng virus chia làm hai loại là thuốc có cấu trúc nucleosid hoặc không nucleosid.

Thuốc kháng sinh không được dùng trong trị các bệnh lý do virus gây ra bởi cấu tạo và đặc điểm sinh sản khác hoàn toàn giữa hai loại vi sinh vật này.

Thuốc kháng virus có thể can thiệp vào từng giai đoạn nhân lên của virus trong tế bào chủ mà chủ yếu là tác dụng thông qua enzyme đặc hiệu của mỗi quá trình. Từ đó, thuốc kháng virus sẽ ngăn cản virus bám vào tế bào chủ để xâm nhập, ngăn cản quá trình phiên mã, dịch mã tổng hợp protein, ngăn cản sự tái tổ hợp tạo hạt virus mới…

Hiện nay, mới chỉ có một số virus có thuốc kháng virus đặc hiệu như virus cúm, virus Herpes, virus viêm gan B, viêm gan C và HIV. Thuốc kháng virus khác đang được tiếp tục nghiên cứu.

Nên tiêm vaccine để kích thích cơ thể sản sinh sẵn kháng thể khi ứng phó với sự xâm nhập của vi khuẩn và virus.

Nâng cao sức đề kháng của cơ thể bằng việc bổ sung đầy đủ các chất dinh dưỡng: Tăng cường vitamin bằng rau xanh, trái cây, các loại ngũ cốc, sữa, trứng.

Rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.

Thường xuyên vệ sinh mũi, họng bằng nước muối sinh lý.

Chỉ sử dụng thuốc kháng sinh theo chỉ định của bác sĩ khi cơ thể có dấu hiệu nhiễm hoặc bội nhiễm vi khuẩn rõ rệt.

Mời xem thêm video đang được quan tâm:

Thông điệp 5T: Pháo đài chống dịch COVID-19 trong tăng cường giãn cách xã hội.

Ths.DS. Mai Ngọc Tú