When the king was made to wear a red bonnet by the exultant crowds, he turned away and refused to celebrate. The expression of horror on her face is gradually modulated through the entire scale of feelings from hesitant doubt, anxious hope and cautious joy, right through to exultant happiness. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Hồi Nam HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI “BẤT ĐẮC CHÍ” TRONG THƠ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ CUỐI THẾ KỈ XVIII ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XIX (QUA KHẢO SÁT THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU VÀ CAO BÁ QUÁT) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM Thành phố Hồ Chí Minh – 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Hồi Nam HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI “BẤT ĐẮC CHÍ” TRONG THƠ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ CUỐI THẾ KỈ XVIII ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XIX (QUA KHẢO SÁT THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU VÀ CAO BÁ QUÁT) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAMNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THU YẾN Thành phố Hồ Chí Minh – 2016 LỜI CAM ĐOAN Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và khơng trùng lặp với các đề tài khác. Ngồi ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá của các tác giả khác, đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Tác giả Nguyễn Hồi Nam LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Lê Thu Yến, người trực tiếp hướng dẫn khoa học tận tình, chu đáo đã giúp tơi hồn thành luận văn khoa học này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn và Phòng Sau Đại học, Thư viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ chúng tôi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu. Tơi xin cảm ơn tập thể Thầy, Cô giảng dạy chuyên ngành Văn học Việt Nam (Cao học khóa 25) đã truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn những đóng góp q báu của q Thầy, Cơ trong Hội đồng chấm luận văn đã giúp đỡ chúng tơi trong q trình hồn thành luận văn khoa học. Tơi cũng xin cảm ơn gia đình, quý đồng nghiệp, bạn bè đã động viên và khích lệ tơi trong q trình học tập và viết luận văn. Xin chân thành cảm ơn tất cả! Tác giả Nguyễn Hoài Nam MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................... 11 1.1. Thời đại............................................................................................................. 11 1.2. Tác giả .............................................................................................................. 14 1.2.1. Nguyễn Du ................................................................................................. 14 1.2.2. Cao Bá Quát ............................................................................................... 17 1.3. Sự xuất hiện hình tượng con người “bất đắc chí” trong thơ trung đại Việt Nam từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX................................................. 19 Chương 2. HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI “BẤT ĐẮC CHÍ” TRONG THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU VÀ CAO BÁ QUÁT – NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ...................................................... 27 2.1. Con người ý thức cao về tài năng, nhân cách và trách nhiệm của bản thân ...... 27 2.2. Con người từ bất hòa với xã hội đến con người nổi loạn .................................. 36 2.3. Con người bất lực trước thời cuộc .................................................................... 54 2.4. Con người ôm nặng nỗi thương mình, đau đời ................................................. 62 Chương 3. HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI “BẤT ĐẮC CHÍ” TRONG THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU VÀ CAO BÁ QUÁT) – NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ................................................ 83 3.1. Lựa chọn thể loại, đặt nhan đề ........................................................................ 83 3.2. Cách lựa chọn hình ảnh, từ ngữ ...................................................................... 85 3.2.1. Cách lựa chọn hình ảnh.............................................................................. 85 3.2.2. Cách lựa chọn từ ngữ ................................................................................. 93 3.3. Giọng điệu ...................................................................................................... 107 3.3.1. Giọng mạnh mẽ, tự tin ............................................................................. 109 3.3.2. Giọng phẫn hận, khinh bạc ...................................................................... 112 3.3.3. Giọng buồn thương, tự trào ...................................................................... 119 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 129 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 132 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CBQ: Cao Bá Quát ND : Nguyễn Du 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bên cạnh văn học dân gian là các sáng tác của nhân dân lao động, văn học viết, đặc biệt là văn học viết từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX đã góp vào dòng chảy của thơ ca nghệ thuật một mạch nước trong trẻo, lúc sâu lắng, lúc cuồn cuộn trào dâng, bồi đắp cho văn học Việt Nam thêm mượt mà, màu mỡ. Vì vậy, các sáng tác của cha ơng giai đoạn này (văn học trung đại) được nghiên cứu, đưa vào trường phổ thông giảng dạy như một sự ghi nhận của người đời sau dành cho người đi trước, cũng là cách để thơ văn xưa đến với lòng người nay, khoảng cách người trước – người sau vì vậy mà thêm ngắn lại. Dễ ngộ nhận những gì được quan tâm, viết nhiều, nghiên cứu nhiều, cảm nhiều sẽ bị khai thác cạn kiệt, khơng cịn đất cho người đời sau tiếp tục tìm tịi, phát hiện; tuy nhiên văn học trung đại Việt Nam nói chung và thơ ca của những tác giả lớn giai đoạn này nói riêng vẫn mãi là kho vàng vơ tận. Ở đó, thiên nhiên, lịch sử và con người càng trở nên rõ nét hơn qua văn học, đặc biệt là hình ảnh các nhà nho thi sĩ - thế hệ cầm bút chính của văn học trung đại. Có một thực tế là những tác phẩm trung đại trong trường phổ thông hiện nay được đưa đến cho người học chưa có sự đồng đều mà có sự cách quãng rất rõ. Trong Chương trình Trung học Cơ sở có 19 tác phẩm với 8 tác phẩm thơ và 11 tác phẩm thuộc các thể loại khác (tập trung nhiều ở khối lớp 7); chương trình Trung học phổ thơng có tất cả 24 tác phẩm với 12 tác phẩm thơ (tập trung nhiều ở khối 10, 11) và 12 tác phẩm thuộc các thể loại khác. Trong số 20 bài thơ mà học sinh được học trong chương trình phổ thơng, ít nhiều người đọc cũng hiểu được phần nào tâm sự của người xưa. Đó là quan niệm về độc lập chủ quyền của Lí Thường Kiệt trong Nam quốc sơn hà; là mong ước một non sông bền vững đến muôn đời trong Tụng giá hồn kinh sư (Trần Quang Khải); là tâm tình lánh đục về trong, làm bạn với thiên nhiên ở Nguyễn Trãi trong Cơn sơn ca; tình bạn gắn bó của Nguyễn Khuyến qua Bạn đến chơi nhà; là vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lí tưởng và nhân cách cao cả trong Thuật hồi của Phạm Ngũ Lão cùng khí thế hào hùng của thời đại nhà Trần; là hình ảnh một nhà thơ mẫu mực như Nguyễn Bỉnh Khiêm ngợi ca thú thanh nhàn: “Một mai một cuốc 2 một cần câu/ Thơ thẩn dầu ai vui thú nào” (Nhàn),… Và khi đến với Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, con người trong thơ bắt đầu rõ nét hơn ở thái độ “bất đắc chí”, biểu lộ sự chán ghét của người trí thức đương thời và niềm khao khát thay đổi cuộc sống, những thổn thức cho kiếp nhân sinh nhiều nước mắt, cho thế thái nhân tình dễ đổi thay,… Cùng với họ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương qua thơ văn của mình cũng góp thêm tiếng nói khắc họa chính bản thân mình và nói hộ cho thế hệ các nhà thơ đương thời tâm trạng “bất đắc chí”. Vì vậy, chân dung các nhà nho, thi sĩ ngày càng rõ nét hơn ở khía cạnh thể hiện cái tơi cá nhân bất mãn trước thời cuộc. Chỉ đáng tiếc là sự cách quãng trong phân phối các bài học về tác phẩm của các nhà nho – thi sĩ khiến cho học sinh chưa có một cái nhìn bao qt về nét riêng mà chung của một thế hệ cầm bút tỏ lòng này. Nhìn từ phương diện con người nghệ thuật, con người “bất đắc chí” là sản phẩm của thời đại được phản ánh hết sức rõ nét trong thơ ca và có một sức hấp dẫn riêng. Với Nguyễn Du và Cao Bá Quát, đây là hai trong số những tác giả lớn của văn học Việt Nam giai đoạn trung đại - là những hiện tượng chỉ xuất hiện một lần trong văn học mà người viết đặc biệt yêu mến. Việc phục dựng lại hình tượng con người “bất đắc chí” qua thơ văn của họ, thiết nghĩ là nhiệm vụ mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên nhiều phương diện, cũng là một nhu cầu của người đời sau, cũng là cách thế hệ hơm nay tìm về, trân trọng những giá trị tinh thần của lịch sử, từ đó hướng đến tương lai tốt đẹp. Với những lí do đó, chúng tơi lựa chọn vấn đề “Hình tượng con người “bất đắc chí” trong thơ Trung đại Việt Nam từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX (qua khảo sát thơ chữ Hán của Nguyễn Du và Cao Bá Quát)” làm đề tài của luận văn này. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích đầu tiên của luận văn là tìm hiểu nguyên nhân và hồn cảnh xuất hiện tâm trạng “bất đắc chí” trong thơ ca giai đoạn văn học trung đại từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX. Từ đó, chỉ ra biểu hiện và giá trị của hình tượng con người “bất đắc chí” trong thơ chữ Hán của hai tác giả lớn giai đoạn này là Nguyễn Du và Cao Bá Quát – nhìn từ phương diện nội dung và phương diện nghệ thuật. Cuối cùng, luận văn 3 cho người đọc một cái nhìn hồn chỉnh về chân dung của một thế hệ các nhà nho thi sĩ giai đoạn hậu kì văn học trung đại. 3. Lịch sử vấn đề 3.1. Về tác giả Nguyễn Du Nguyễn Du là một tác giả lớn trong văn học trung đại, nên sẽ không có gì ngạc nhiên khi số lượng các cơng trình nghiên cứu về ông khá đồ sộ, đặc biệt là tiếp nhận, nghiên cứu, phê bình Truyện Kiều. Riêng thơ chữ Hán, sau khi Nguyễn Du qua đời, các tập thơ chữ Hán của ông đã bị thất lạc. Năm 1924, lần đầu tiên một số bài thơ chữ Hán Nguyễn Du được sưu tầm và trích dịch trong cuốn Truyện cụ Nguyễn Du của Lê Thước và Phan Sĩ Bàng; phải đến năm 1931, trên tạp chí Nam Phong số 161 mới ra mắt bạn đọc đầu tiên với 13 bài. Năm 1959, Bùi Kỷ - Phan Võ - Nguyễn Khắc Hanh có bản dịch Thơ chữ Hán Nguyễn Du với 102 bài (Nxb Văn hóa Hà Nội). Năm 1965, tuyển tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du do Lê Thước - Trương Chính dịch xuất bản với 249 bài (Nxb Văn học, Hà Nội). Năm 1988, Đào Duy Anh dịch 249 bài trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du được in bởi Nxb Văn học. Năm 1996, Nguyễn Du toàn tập ra đời. Tập 1 là thơ chữ Hán do Mai Quốc Liên và nhóm cộng sự của ơng phiên âm, dịch nghĩa và chú giải. Năm 2007, ông Trần Văn Nhĩ - một thầy giáo dạy Toán đã nghỉ hưu - với vốn Hán tự học của mình và niềm say mê cái đẹp của thi ca, ông đã dựa vào tập 1 của Nguyễn Du toàn tập của Mai Quốc Liên và một số cơng trình khác để cho ra đời cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nxb Văn hóa - Văn nghệ, in lần 2, 2015). Cũng trong năm 2015, nhân kỉ niệm 250 năm năm sinh của Nguyễn Du (1965 - 2015), nhân việc Unesco tôn vinh Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới, Mai Quốc Liên và nhóm cộng sự của ông cho in lại cuốn Nguyễn Du toàn tập với tập 2 là phần Thơ chữ Hán của Nguyễn Du với 250 bài. Người viết coi đây là một tài liệu tham khảo có giá trị về văn bản cũng như phần dịch nghĩa, một mặt vì nó vừa đảm bảo tính kế thừa từ những người nghiên cứu, sưu tầm đi trước, vừa cố gắng khắc phục những sơ suất, nhược điểm của những bản dịch cũ; một mặt nó được trình bày một cách đầy khoa học, nguyên văn chữ Hán tương đối chính xác, phần dịch nghĩa sát ý và phần dịch thơ chuyển tải được nội dung tư tưởng của tác giả Nguyễn Du. 4 Về tình hình nghiên cứu phê bình, qua tìm hiểu tư liệu, chúng tơi nhận thấy người có cơng mở đường cho việc nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du là Đào Duy Anh. Trong bài viết Thi tập của Nguyễn Du trong cơng trình Khảo luận về “Kim Vân Kiều”, lần đầu tiên vị trí của thơ chữ Hán Nguyễn Du được khẳng định: “về hình thức cũng như về nội dung, thơ chữ Hán Nguyễn Du có thể đề vào hàng với thơ Cao Bá Quát và có thể đem so sánh với thơ Đường”. Đặc biệt, Đào Duy Anh là người đầu tiên khẳng định rằng những sáng tác chữ Hán này “là nguồn tư liệu q giá để tìm hiểu cái phẩm cách phức tạp và bi đát” của Nguyễn Du. Có thể nói đây là những ý kiến có giá trị gợi mở cho nhiều nhà nghiên cứu, phê bình ở các giai đoạn sau như Trương Chính, Nguyễn Đổng Chi, Hồi Thanh, Xn Diệu, Lê Trí Viễn, Nguyễn Huệ Chi, Vũ Đình Liên, Nguyễn Lộc (miền Bắc); Bùi Hữu Sủng, Thanh Lãng, Đỗ Trọng Huề (ở miền Nam) trong chặng đường từ 1954 đến 1975. Sau 1975 có Phan Hữu Nghệ, Đỗ Đức Dục, Đặng Thanh Lê, Mai Quốc Liên, Lê Thu Yến, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,… Những thành quả và phát hiện cụ thể từ hệ thống bài viết, tuyển tập trên đã góp phần khơng nhỏ vào việc tìm hiểu các giá trị của thơ chữ Hán Nguyễn Du của chúng tôi. Riêng các tác giả từng đề cập đến một, hai khía cạnh biểu hiện cho con người “bất đắc chí” trong thơ Nguyễn Du phải kể đến Trương Chính, Đào Duy Anh, Hồi Thanh, Đào Xuân Quý, Nguyễn Lộc, Vũ Khiêu, Nguyễn Huệ Chi, Mai Quốc Liên, Lê Thu Yến,... Điều này cho thấy dù ở thời đại nào, con người yêu thơ vẫn luôn cố gắng tìm tịi và phát hiện vẻ đẹp trong bề sâu tâm hồn con người cụ Nguyễn, đặc biệt là qua thơ chữ Hán. 3.2. Về tác giả Cao Bá Quát Cho đến nay, với một lượng tác phẩm đồ sộ, Cao Bá Quát xứng đáng là một trong những đại diện tiêu biểu cho nền thơ ca chữ Hán của văn học trung đại. Và những cơng trình nghiên cứu về thơ chữ Hán của ông cũng đạt nhiều thành tựu. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, sưu tầm thơ Cao Bá Quát chia ra 3 nhóm sau: Nhóm thứ nhất là những cơng trình sưu tầm, dịch thuật thơ chữ Hán được thực hiện bởi những nhà Hán học, nhà nghiên cứu nổi tiếng như: Trúc Khê, Vũ Khiêu, Nguyễn Văn Tú, Hoàng Tạo, Tảo Trang, Giản Chi, Tố Hữu, Vũ Tuấn Sán, Ngô Linh 5 Ngọc, Trần Lê Văn, Nguyễn Tiến Đồn, Nguyễn Đình Thảng, Nguyễn Văn Lãng, Thái Trọng Lai, Đinh Thanh Hiếu, Kiều Thu Hoạch, Huy Cận, Ngô Văn Phú, Trần Nhuận Minh, Vũ Duy Thơng,… Đó cũng là những con người góp phần khơng nhỏ để tạo nên một tuyển tập giá trị - có thể coi là tài sản của quốc gia - Cao Bá Quát toàn tập (hai tập) do Trung tâm Nghiên cứu Quốc học thực hiện mà Mai Quốc Liên làm chủ biên. Có thể coi đây là tài liệu sưu tầm có giá trị nhất đến thời điểm này và cũng là tư liệu chính để người viết thực hiện luận văn bên cạnh một số tài liệu khác tham khảo thêm như: Cao Bá Quát - về tác gia và tác phẩm (Nxb Giáo dục) do Nguyễn Hữu Sơn và Đặng Thị Hảo tuyển chọn và giới thiệu; Tuyển tập Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (Nxb Văn hóa - Văn nghệ) do Trần Văn Nhĩ dịch thơ;… Nhóm thứ hai là những bài viết có tính chất nghiên cứu bao qt thơ Cao Bá Qt nhìn từ phương diện nghệ thuật hoặc nội dung; hoặc tìm hiểu một điểm đặc sắc về nội dung hoặc nghệ thuật qua một số bài thơ tiêu biểu. Nhóm này có một số bài viết và cơng trình nghiên cứu của các tác giả như: Hồ Sen, Phạm Trọng Tâm, Kiêm Đạt, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Đức Tiến, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Tài Thư, Tố Hữu, Nguyễn Thu Phương, Mai Quốc Liên, Đinh Thị Thái Hà, Phạm Quang Trung, Nguyễn Kim Châu, Nguyễn Ngọc Quận,... Ngoài ra, tiếp nối những bài nghiên cứu của người đi trước là những tìm tịi, phát hiện của các cá nhân: năm 2003, có luận văn thạc sĩ của Đinh Thị Thái Hà với đề tài: “Cao Bá Quát - Lương tâm và khí phách thời đại qua thơ chữ Hán”; năm 2010, có luận văn thạc sĩ của Đồn Duy Linh: “Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát”,… Nhóm thứ ba là những bài viết có tính chất tìm hiểu những vấn đề cịn khúc mắc liên quan đến cuộc đời, con người hay là những tài liệu sưu tầm liên quan đến các giai thoại về cuộc đời Cao Bá Quát của một số tác giả tiêu biểu như: Sở Cuồng, Nguyễn Tường Phượng, Trúc Khê, Nguyên Sa, Lữ Hồ, Nguyễn Trường Sơn, Nguyễn Duy Diễn, Châu Hải Kỳ, Kiêm Đạt, Nguyễn Minh và K.T.X, Thuần Phong, Tảo Trang, Chu Thiên, Hồng Liên, Lê Xuân Giáo, Nguyễn Quỳnh, Phạm Văn Sơn, Vũ Khiêu, Phạm Văn Diêu, Phương Tri, Xuân Diệu, Hoa Bằng, Nguyễn Anh, Tương Huyền, Lê Trí Viễn, Phan Cơng, Đặng Thanh Lê,... 6 Cũng như với Nguyễn Du, các tác giả từng đề cập đến một, hai khía cạnh biểu hiện cho con người “bất đắc chí” trong thơ Cao Bá Quát phải kể đến tên tuổi của Nguyễn Đức Tiến, Phạm Văn Sơn, Mai Quốc Liên, Nguyễn Anh, Dương Quảng Hàm, Phạm Trọng Tâm, Nguyễn Huệ Chi,… Những tác giả này đều có sự nhìn nhận đa chiều khi viết về hiện tượng Cao Bá Quát nhưng điểm thống nhất là công nhận Cao Bá Quát như một nhà thơ lớn của dân tộc với nhân cách, sự nghiệp văn chương rất đáng trân trọng và nghiên cứu. Ở khía cạnh con người “bất đắc chí” trong thơ Cao Bá Quát, ít hay nhiều các tác giả trên cũng chỉ ra những biểu hiện cụ thể hoặc mang tính khái quát cao, rất hữu ích để người viết tiếp cận. 3.3. Về những bài viết có liên quan đến đề tài của luận văn Nhìn chung, chưa có một cơng trình, bài nghiên cứu nào đi sâu và một cách toàn diện về hình tượng con người “bất đắc chí” trong thơ trung đại từ cuối thế kỉ XIII đến đầu thế kỉ XIX trong từng bình diện biểu hiện mà chủ yếu là tập trung khai thác tâm trạng “bất đắc chí” của từng nhà thơ riêng lẻ, ở một hay hai biểu hiện chưa có tính bao qt. Chẳng hạn về Nguyễn Du, nhà nghiên cứu Đào Duy Anh cũng có nhắc đến và lí giải thái độ “bất đắc chí” của nhà thơ khi làm quan dưới triều Nguyễn là bởi nhà thơ luôn mang tâm sự day dứt của kẻ bề tôi phải thờ hai chúa trong Khảo luận về Kim Vân Kiều (1943). Hoài Thanh năm 1960 trong bài viết “Tâm tình của Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán” đăng trên tạp chí Văn nghệ cũng phát biểu có phần tương tự với ý kiến trên của Đào Duy Anh. Năm 1965, trong phần giới thiệu cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nxb Văn học), nhà nghiên cứu Trương Chính cho rằng cái “bất đắc chí” của Nguyễn Du trong những năm làm quan là do hiện thực cuộc sống mà triều Nguyễn gây ra và tâm sự của Nguyễn Du trong hai tập thơ này khơng nằm ngồi nỗi nhớ nhà, thú săn bắn, cho cuộc đời là bể dâu, muốn về yên nghỉ bên cạnh việc ca tụng lòng tiết nghĩa, phê phán những người hèn hạ, chỉ cầu phú quý công danh,... Sau này, các nhà nghiên cứu Trương Chính, Đào Xuân Quý, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Lộc, Hà Minh Đức, Mai Quốc Liên dù không dùng trực tiếp từ “bất đắc chí” nhưng đều có những lí giải sâu sắc về thái độ, suy ngẫm của Nguyễn Du đối với thời 7 đại, triều đình, cuộc đời và con người - là những biểu hiện cho tâm trạng “bất đắc chí” ấy. Trong cuốn “Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du” (1998), tác giả Lê Thu Yến nhiều lần đề cập đến cái chí của Nguyễn Du: con người “hùng tâm tráng chí”, “mộng lớn chí cao” nhưng cuộc đời đã khiến người tráng sĩ đơi lúc hụt hẫng, trở thành “con người thất chí” và thơ văn ơng chính là bức tự họa rõ nét nhất cho con người ấy. Cuốn sách này còn đề cập đến những biểu hiện khác của “con người thất chí” – Nguyễn Du trong thơ như chất hùng thời thanh niên, cái bi khi mộng khơng thành, chí khơng đạt, hay là cái thất chí lãng mạn thể hiện ở việc lao vào hưởng lạc,…[110, tr.65-69]. Về Cao Bá Quát, sử dụng từ “bất đắc chí” đầu tiên để nói về ơng phải kể đến Dương Quảng Hàm. Trong Việt Nam văn học sử yếu (1941), Dương Quảng Hàm viết về Cao Bá Quát: “Ông là một bậc có tài lỗi lạc nhưng khơng được trọng dụng nên sinh ra chán nản, bực tức, khinh khi ngạo vật, kết cục làm loạn mà phải giết chết, bởi thế trong thi ca của ông, ta nhận thấy cái tư tưởng yếm thế, tình cảm phẫn uất của một kẻ bất đắc chí” [38, tr.176]. Nguyễn Đức Tiến (1962) trong bài viết “Sự lập chí của Cao Bá Qt”, có cho rằng Cao Bá Qt khơng dừng lại ở cái chí thường thấy ở kẻ sĩ theo Nho học mà là Ý CHÍ ĐẾ VƯƠNG [88, tr.394]. Bài viết này có nhiều luận giải hay nhưng tiếc rằng sự đúc kết ở trên đi hơi xa so với những gì văn chương Cao Bá Quát thể hiện. Trong bài viết “Nhân sinh quan của nhà nho Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX qua thi ca” (1965), Phạm Văn Sơn có đề cập đến chữ “chí” theo chủ trương của Nho giáo, ông đặc biệt so sánh nhân sinh quan giữa hai con người Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát, có đoạn: “Hai người cùng giống nhau ở chỗ cùng ham chuyện thơ thần rượu thánh, cao sơn lưu ưng vào trường đời đã quan niệm thế sự và thời cuộc khác nhau. Nguyễn Công Trứ, vọng mỹ nhân kiểu Tô Đông Pha nhớ cảnh cũ người xưa trên dịng Xích Bích nhưng vào trường đời đã quan niệm thế sự và thời cuộc khác nhau. Nguyễn Công Trứ xuất đầu lộ diện vào đời Nguyễn - Sơ tuy tánh tình chẳng tốt đẹp nhưng không chán ghét, trái lại chỉ mong có “mưa dồn sóng vỗ” để “ra tay buồm lái với 8 cuồng phong, chí những toan xẻ núi lấp sơng, làm tiếng phi thường đâu đấy tỏ”… Cịn Cao Chu Thần khơng chấp nhận Nguyễn – triều là chánh thống như hầu hết mọi sĩ dân Bắc hà thuở ấy, lại thêm vì tài học hơn người tuy đã có khi cố gắng hịa mình vào cái xã hội sơng Hương núi Ngự rồi rút cục vẫn không sao tránh được cái cảnh thuyền xuôi nước ngược, bất như ý” [82, tr.491-492]. Tác giả Nguyễn Anh (1972) trong bài viết: “Cao Bá Quát, kẻ bất đắc chí, con người nổi loạn hay nhà cách mạng?” cũng đề cập đến Cao Bá Quát như một con người có tư tưởng cách mạng, “lại sống trong một xã hội quá già nua, bệnh hoạn, có tài nhưng khơng được chế độ trọng dụng, với bản tính kiêu ngạo, tự cao tự đại, Cao Bá Quát trở thành kẻ bất đắc chí”, về sau, “chính biến tháng 10 năm 1864 là cơ hội ngàn năm một thuở để cho Cao Bá Quát có dịp bộc phát tâm thức bất đắc chí, căm phẫn của mình” [1, tr.679]. Hay trong một bài viết gần đây của Mai Quốc Liên “Cao Bá Quát – một thiên tài kì vĩ của văn học Việt Nam”, có nhận định “Đó là một con người có một hồi bão lớn, một ý chí khác thường, một lòng ưu ái đối với vận mệnh Tổ quốc và nhân dân…” [51, tr.17]. Có thể mỗi bài viết, ý kiến trên đều có giá trị hết sức lớn lao để người viết tiếp cận, hiểu rõ hơn đề tài và làm nền tảng cho việc nghiên cứu, sắp xếp luận điểm của luận văn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn hướng đến việc nghiên cứu một hình tượng nghệ thuật hoàn chỉnh về con người mang tâm trạng “bất đắc chí” bằng thơ trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX qua việc khảo sát phần thơ chữ Hán của hai tác giả lớn tiêu biểu cho giai đoạn này là Nguyễn Du (1765 - 1820) và Cao Bá Quát (1809 - 1855). Trong đó, Nguyễn Du với Nguyễn Du tồn tập (tập 2) phần Thơ chữ Hán (250 bài), Mai Quốc Liên - Vũ Tuân Sán dịch nghĩa, chú thích, Nhà xuất bản Văn học; Cao Bá Quát với 418 bài thơ chữ Hán in trong cuốn Cao Bá Quát toàn tập (tập một) của Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Nhà xuất bản Văn học. 9 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu bối cảnh thời đại, cuộc đời – những yếu tố chi phối sáng tác của Nguyễn Du và Cao Bá Quát, từ đó hiểu thêm về nội dung tác phẩm. Phương pháp hệ thống: đặt Nguyễn Du, Cao Bá Quát vào hệ thống những nhà thơ của văn học trung đại, từ đặc điểm riêng của thơ chữ Hán - như một thành tố của hệ thống mà nhìn thấy đặc điểm chung của thơ ca - vừa phản ánh tâm hồn hai nhà thơ vừa phản ánh cả một thế hệ những nhà Nho cầm bút trước, sau và cùng thời. Phương pháp so sánh được dùng để làm rõ bản chất của đối tượng trong mối tương quan với một số hiện tượng văn học khác như: thơ Nguyễn Trãi, thơ Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến,… Phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng với tư cách là phương pháp chủ đạo để tìm hiểu đặc điểm của đối tượng; kết hợp với thống kê, phân loại được sử dụng như một thao tác phụ trợ để làm tăng sức thuyết phục cho những kết luận rút ra từ luận văn. 6. Những đóng góp của luận văn Luận văn đi sâu vào khảo sát từng phương diện biểu hiện của con người “bất đắc chí” trong thơ chữ Hán của hai tác giả Nguyễn Du và Cao Bá Quát (nhìn từ phương diện nội dung); cách thức biểu hiện (nhìn từ phương diện nghệ thuật); từ đó khái qt lên tâm sự, nỗi niềm của cả một thế hệ nhà nho tài cao nhưng sinh bất phùng thời. Những kết quả trên có thể áp dụng được vào thực tế giảng dạy, vào việc tiếp nhận tác phẩm thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Cao Bá Quát và các nhà nho khác trong văn học trung đại Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài mở đầu và kết luận, phần nội dung chính của luận văn được triển khai thành 3 chương như sau: Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 10 Trong chương này, luận văn giới thiệu khái quát về xã hội và con người Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX cũng là thời đại sản sinh ra hai tác giả lớn của văn học là Nguyễn Du và Cao Bá Quát với một số nét chính về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp văn học. Sau đó, từ lý thuyết về hình tượng con người nghệ thuật trong thơ ca nói chung, luận văn tìm hiểu nguyên nhân của sự xuất hiện con người mang tâm trạng “bất đắc chí” trong thơ; cùng với đó là sự lí giải về ý nghĩa của cụm từ có nguồn gốc từ tiếng Hán này. Chương 2. HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI “BẤT ĐẮC CHÍ” TRONG THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU VÀ CAO BÁ QUÁT – NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG Trong chương này, luận văn chỉ ra những biểu hiện về phương diện nội dung của hình tượng con người “bất đắc chí” qua phần thơ chữ Hán của hai tác giả trên các biểu hiện: 2.1. Con người ý thức cao về tài năng, nhân cách và trách nhiệm của bản thân; 2.2. Con người từ bất hòa với xã hội đến con người nổi loạn; 2.3. Con người bất lực trước thời cuộc; 2.4. Con người ôm nặng nỗi thương mình, đau đời. Chương 3. HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI “BẤT ĐẮC CHÍ” TRONG THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU VÀ CAO BÁ QUÁT – NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT Tiếp nối chương hai, chương ba của luận văn chỉ ra những biểu hiện về phương diện nghệ thuật của hình tượng con người “bất đắc chí” qua phần thơ chữ Hán của hai tác giả trên các bình diện thể loại; cách lựa chọn hình ảnh, từ ngữ; giọng điệu (mạnh mẽ, tự tin; phẫn hận, khinh bạc; buồn thương, tự trào). 11 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Thời đại Thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX, chế độ phong kiến khủng hoảng triền miên. Bức tranh chế độ phong phong kiến đã bắt đầu chuyển dần từ gam màu sáng sang gam màu tối và ngày càng đậm nét, phủ lên một khơng khí xám xịt cho cả bức tranh xét về tổng thể mà ở đó, con người phải vật lộn với nhiều vấn đề từ bên ngồi và cả bên trong chính mình. Nội chiến diễn ra liên tục trong hai thế kỉ trước: hết cuộc chiến Lê-Mạc (1545 1592) lại đến cuộc tranh giành quyền lực giữa chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong (1627 - 1672) đã chia cắt đất nước thành từng vùng miền và nhấn chìm non sơng trong biển máu và sự đói nghèo, trì trệ. Sang thế kỉ XVIII, nội chiến tạm chấm dứt nhưng loạn lạc vẫn xảy ra khắp nơi, các cuộc thanh trừng, sát phạt giữa các tập đoàn phong kiến vẫn diễn ra. Vua chúa thi nhau ăn chơi hưởng lạc, quan lại xu nịnh, ra sức bóp nặn dân nghèo khiến nhân dân lầm than, khốn khổ cùng cực. Đó là chưa kể đạo đức xã hội, giáo dục, khoa cử xuống cấp một cách trầm trọng; kinh tế kiệt quê, đói kém mất mùa xảy ra thường xuyên đến mức Lịch triều hiến chương loại chí viết: “Người dân bỏ cày cấy, trong làng xóm khơng nhà nào có thóc gạo dự trữ. Dân lưu tán bồng bế dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt một quan không ăn được một bữa cho no. Dân phần nhiều ăn rễ cây, thịt chuột, thịt rắn. Số dân đi lang thang mười phần chết đói mất chín, những làng xưa có tiếng là trù phú nay chỉ cịn có hai, ba nhà mà thơi,...” [13, tr.19]. Tất nhiên cũng có những vị chúa có thực tài, mong muốn thay đổi nhưng lực bất tịng tâm, khơng thể xoay chuyển được một xã hội đã mục ruỗng từ rường cột. Ở Đàng Trong, dù cuộc sống có dễ thở hơn nhưng chế độ thuế khóa vẫn khơng kém nặng nề, có nơi vẫn xảy ra nạn đói. Những mâu thuẫn tồn đọng trong nhiều thế kỉ trước bùng nổ dẫn đến phong trào đấu tranh của nhân dân nổ ra khắp nơi đến mức các nhà nghiên cứu gọi thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX là “thế kỉ của khởi nghĩa nông dân”, tiêu biểu như khởi nghĩa của Nguyễn Dương Hưng (1737), Lê Duy Mật (1738), Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Ngơ Trác nh (1739), Hồng Cơng Chất (1740) và đỉnh cao là phong trào Tây Sơn (1771) 12 do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo đã cùng một lúc lật đổ các tập đoàn phong kiến trong nước: nhà Nguyễn (Đàng Trong), chính quyền Lê Trịnh (Đàng Ngoài) và đập tan các cuộc xâm lược từ hai phía: quân Xiêm và quân Thanh; thống nhất Nam Bắc, xóa bỏ sự chia cắt đất nước tồn tại trên hai thế kỉ. Trong thời gian tồn tại 143 năm, nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi hoàng đế Gia Long lên ngôi năm 1802 sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và sụp đổ hoàn toàn khi hoàng đế Bảo Đại thối vị vào năm 1945 đã cố gắng để khơi phục lại địa vị của tư tưởng Nho giáo để làm chỗ dựa cho sự thống trị, đã cố gắng xây dựng bộ máy chính quyền phong kiến theo hướng quân chủ chuyên chế cao độ; cố gắng trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá song hiệu quả thấp. Để bảo vệ quyền lợi của mình, nhà Nguyễn đã thi hành nhiều chính sách kìm hãm sự phát triển của đất nước (khống chế hành vi của các nho sĩ cấp tiến, đối ngoại thì “bế quan tỏa cảng”, hạn chế giao thiệp ngoại bang, chống đạo Thiên Chúa, thực hiện chế độ thuế khóa nặng nề...) nên khơng tạo được những chuyển biến mới, tích cực để đất nước theo kịp sự phát triển của thế giới. Vì vậy, trong gần nửa đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn đã làm cho tiềm lực đất nước ngày càng suy yếu, ngày càng nghèo nàn, lạc hậu, không khí xã hội khá căng thẳng, đất nước khơng đủ sức kháng cự trước những đe dọa của chủ nghĩa thực dân đang đến gần. Một điều đáng chú ý là trong nhiều cuộc khởi nghĩa nơng dân, có sự tham gia lãnh đạo của tầng lớp trí thức. Điều này đã phản ánh những mâu thuẫn cơ bản đã đến hồi không thể giải quyết được; đồng thời sự sụp đổ thần tượng, sự suy đồi của tư tưởng chính thống và sự hỗn loạn của kỉ cương xã hội là cơ sở làm xuất hiện tư tưởng chống đối tư tưởng chính thống, vượt khỏi khuôn khổ xã hội, tư tưởng tự do dân chủ cũng dần manh nha. Như vậy, “nhà văn sẽ có nhiều khoảng khơng tự do hơn cho sự sáng tạo của mình mà chính quyền khơng đủ sức quản lý và kiểm sốt nổi. Điều đó hết sức có ý nghĩa đối với sự phát triển văn học” [90, tr.17]. Thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX chứng kiến quá nhiều sự đổi thay đồng thời ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn học. Về mặt tích cực, sự phát triển của kinh tế hàng hóa diễn ra trước đó (từ thế kỉ XVI, XVII) đã dẫn đến sự hình thành một tầng lớp 13 thị dân, thương nhân, thợ thủ công ở các đô thị lớn với tư tưởng phóng khống, tự do, khơng chịu bó mình trong một số những quan hệ và đạo đức Nho giáo đã trở nên gị bó, chật hẹp. Cơng việc bn bán, tiếp xúc với những khn khổ ngồi chuẩn mực đạo đức truyền thống đã tạo nên họ cách sống, cách suy nghĩ mới mẻ hơn, từ đó mà thấy được những mặt trái, cứng nhắc, giáo điều với những ràng buộc khắt khe, trái tự nhiên của lễ giáo phong kiến nên có xu hướng đấu tranh địi sự cơng bằng. Những tác giả và cũng là độc giả này trở thành những khuôn mặt không thể thiếu của đời sống văn học nhộn nhịp và sôi động của giai đoạn thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. Theo nghiên cứu của Vũ Thanh, riêng từ giữa thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XVIII, trong giới nho sĩ Đàng Ngoài đã bắt đầu diễn ra một cuộc cải cách xã hội được gọi là phong trào Thực học. Phong trào này được khởi xướng bởi một số nhà nho cấp tiến, tiêu biểu là Vũ Công Đạo (1629 - 1714, đỗ Tiến sĩ năm 1659, làm quan đến chức Thượng thư Bộ Công, từng đi sứ Trung Quốc) và Vũ Thạnh (1663 - ?, đỗ Thám hoa năm 1685, làm quan đến chức Bồi tụng), được tiếp nối bởi Nguyễn Tơng Quai (16931763, đỗ Hồng giáp năm 1722, giữ chức vụ Hộ bộ Tả thị lang, hai lần đi sứ Trung Quốc), Lê Quý Đôn (1726 - 1785) và tiếp theo là Bùi Huy Bích (1744 - 1818), Phan Huy Chú (1782 - 1840),... Cuộc cải cách đã tập trung vào cách tân nền Nho học đang sa sút, cách tân nền pháp luật,...trong đó thành cơng hơn cả là cải cách văn chương, chẳng hạn như cổ súy cho việc chú trọng những giá trị thực tiễn của văn chương, đả phá văn phong sáo rỗng, nặng về ca tụng một chiều đạo lí thánh hiền, cổ súy cho người sáng tác phải chú ý đến hiện thực cuộc đời,...từ đó dẫn đến những đổi mới căn bản về nhiều phương diện trong văn học thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. “Đây chính là giai đoạn văn học chuyển biến từ mối quan tâm đặc biệt tới đạo đức ln lí, tơn giáo sang hướng nhiều hơn đến thực tế đời sống, đến con người. Văn học đã trở nên bớt “thiêng”, bớt đi những nội dung đạo lí xa rời thực tiễn, gắn bó với cuộc đời hơn, cụ thể, chi tiết hơn, lấy thực tại làm đối tượng phản ánh. Các nhà văn nhà thơ đã hướng đến việc phản ánh những vấn đề của hiện thực đời sống, đặc biệt là cuộc đời của những người có số phận bi đát trong xã hội.” [98, tr.20]. Bên cạnh bộ phận sáng tác, phong trào Thực học cũng thúc đẩy sự phát triển nền học thuật nước nhà, dùng 14 học thuật biên khảo thực tiễn. Tinh thần thực tiễn của cuộc cải cách đã góp phần làm xuất hiện những nhà văn hóa lớn, với những tác phẩm học thuật đồ sộ, với những nhà văn - nhà bác học tiêu biểu như: Nguyễn Tông Quai, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú,... Trong sáng tác cũng xuất hiện những “người khổng lồ” như Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Lê Hữu Trác, Nguyễn Du,... Họ vừa có tâm hồn biết cảm thông với đời của một nghệ sĩ lớn, vừa chứa đựng trong mình những tri thức sâu rộng của một bậc thức giả. Sự kết hợp ấy đã góp phần tạo nên những tác phẩm vĩ đại như: Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Thượng kinh kí sự, Hồng Lê nhất thống chí, Vũ trung tùy bút,... Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc lại xuất hiện một lớp nhà nho đa tài và có nhiều trước tác giá trị như vậy. Có thể nói, văn học thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất, kết tinh mọi thành tựu tám thế kỉ của văn học Việt Nam trung đại, được mệnh danh là giai đoạn văn học cổ điển và mở ra một thời kì phát triển mới, hết sức thịnh vượng trong đời sống văn hóa và văn học. Tất cả các thể loại văn học đến giai đoạn này đều phát triển đến đỉnh cao, hình thành những thể loại được coi như thuần túy dân tộc, xuất hiện những tác giả, tác phẩm thuộc loại lớn nhất trong văn học Việt Nam như hai tác giả Nguyễn Du, Cao Bá Quát - nổi bật với phần thơ chữ Hán mà luận văn chúng tôi đang khảo sát. 1.2. Tác giả 1.2.1. Nguyễn Du Nguyễn Du (1765 - 1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại q tộc, nhiều đời làm quan, có thế lực vào bậc nhất đương thời đến mức người địa phương có ca dao nói về dịng họ này: Bao giờ ngàn Hống hết cây, Sông Rum hết nước, họ này hết quan. Cha là Nguyễn Nghiễm, sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tức Thượng thư bộ hộ triều Lê. Ông là một quan 15 văn, thỉnh thoảng lại cầm quân đi đánh giặc, có cơng được khen thưởng. Nhưng gia đình Nguyễn Du khơng phải chỉ có nhiều người làm quan mà cịn có nhiều người viết sách, làm văn, nghĩa là một gia đình có truyền thống về văn học. Nguyễn Quỳnh, ông nội của Nguyễn Du là một nhà triết học chuyên nghiên cứu Kinh Dịch. Nguyễn Nghiễm một sử gia, đồng thời là một nhà thơ. Nguyễn Khản anh cả Nguyễn Du giỏi thơ Nôm, hay làm thơ đối đáp với Trịnh Sâm, lại là người “ham thích hát xướng, gặp khi con hát tang trở cũng cứ cho tiền bắt hát, không lúc nào bỏ tiếng tơ tiếng trúc”. Tương truyền Nguyễn Khản là một trong những người có dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Cơn ra tiếng Việt. Rồi Nguyễn Đề anh cùng mẹ với Nguyễn Du, Nguyễn Thiện cháu gọi Nguyễn Du bằng chú ruột, Nguyễn Hành em ruột Nguyễn Thiện đều là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Mẹ của Nguyễn Du là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, tên là Trần Thị Tần (1740 - 1778), con gái một người làm chức câu kế, quê làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào chỗ bà ra đời ở một vùng quan họ nổi tiếng, làng bà lại có truyền thống hát tuồng và bản thân bà, một cô gái xuất thân từ một gia đình bình thường, lại lấy lẽ một ơng quan to trong triều đình, họ phán đốn rằng bà là một cô gái đẹp và giỏi nghề ca xướng. Không có tài liệu nào ghi chép nhưng chắc chắn những năm ấu thơ của Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng từ mẹ. Sống trong một môi trường như thế, năng khiếu văn học của Nguyễn Du có điều kiện nảy nở và phát triển từ sớm. Những năm tuổi nhỏ, nhà thơ sống trong vàng son, nhung lụa của cuộc sống quý tộc giàu sang nhưng kéo dài không bao lâu, những biến cố dữ dội của thời đại và của gia đình đã nhanh chóng đẩy nhà thơ ra giữa bão táp của cuộc đời. Trong hoàn cảnh ấy, Nguyễn Du đã sống phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc (1786 – 1796) rồi về ở ẩn tại quê nội Hà Tĩnh (1796 – 1802). Sau khi đánh bại Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi (1802), Nguyễn Du ra làm quan bất đắc dĩ với triều Nguyễn. Năm 1813 - 1814, ông được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc lần thứ hai, nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh, mất ở Huế, thọ 54 tuổi. Mộ ông nguyên táng tại làng An Ninh, huyện Hương Trà (gần sau chùa Thiện Mụ). Năm Giáp Thân (1824), người ta cải táng ông và đưa về quê nhà 16 Tiên Điền, Hà Tĩnh. Lúc nhà thơ qua đời, quan lại ở kinh nhiều người làm câu đối phúng viếng hết lời ngợi ca tài hoa rất mực của nhà thơ. Có những câu thơ, câu đối như: Nhất viện cầm tơn nhân ký khứ Đại gia văn tự thế thanh truyền (Rượu đàn đầy viện người đi vắng Văn tự hơn đời tiếng dội vang) Hay: Nhất đại tài hoa, vi sứ, vi khanh, sinh bất thiểm, Bách niên sự nghiệp, tại gia, tại quốc, tử do vinh. (Một kiếp tài hoa, làm sứ, làm khanh, sinh chẳng thẹn, Trăm năm sự nghiệp, ở nhà, ở nước, chết còn vinh.) Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc. Cuộc đời từng trải, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du một vốn sống phong phú và niềm thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Năm 1965 ơng được Hội đồng hịa bình thế giới của UNESCO cơng nhận là danh nhân văn hóa thế giới và quyết định kỉ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm sinh của ông. Nguyễn Du đã để lại một di sản văn chương đồ sộ với những tác phẩm kiệt xuất, ở thể loại nào ơng cũng đạt được sự hồn thiện ở trình độ cổ điển: Ở thơ chữ Hán, Nguyễn Du có 3 tập thơ: Thanh Hiên thi tập gồm: 78 bài làm lúc ông đang sống lẩn tránh ở quê vợ và quê nhà Nghi Xuân (1786 - 1804); Nam trung tạp ngâm gồm: 40 bài là tập thơ sáng tác lúc ra làm quan với triều Nguyễn (1805 - 1813); Bắc hành tạp lục gồm: 132 bài làm lúc phụng mệnh vua dẫn đầu đoàn đi sứ Trung Quốc (1813 - 1814); tổng cộng 250 bài. Ở thơ chữ Nơm, Nguyễn Du có hai kiệt tác Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) gồm 3254 câu thơ lục bát và Văn tế thập loại chúng sinh gồm 184 câu viết theo thể song thất lục bát. Ngoài ra, ơng cịn có một số tác phẩm đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu và bài vè Thác lời trai phường nón. 17 Nguyễn Du là tập đại thành của văn học phong kiến, là người kế thừa một cách sáng tạo truyền thống tốt đẹp của văn học dân tộc và nâng truyền thống ấy lên một đỉnh cao chói lọi; là nhà thơ nhân đạo lỗi lạc với tấm lòng sâu sắc, bao dung, đồng thời ơng đã dùng ngịi bút phê phán hiện thực mạnh mẽ, sắc bén. Sáng tác của Nguyễn Du là sự kết tinh những thành tựu chữ Hán và chữ Nôm của dân tộc, tổng hợp tinh hoa của nhiều thể loại văn học để sáng tác Truyện Kiều. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã có cơng lớn trong việc đưa ngơn ngữ văn học tiếng Việt lên trình độ điêu luyện, cổ điển. Với những tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du khẳng định cái mẫu mực của một bậc tài nho và tầm vóc lớn của một tâm hồn ưu thời mẫn thế, ln lộng gió thời đại. Từ những đóng góp đó, ơng thật xứng đáng với danh hiệu Đại thi hào dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới. 1.2.2. Cao Bá Quát Cao Bá Quát (1809 - 1855) tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiên, người làng Phú Thị, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Ông sinh trong một gia đình nhà nho, tiên thế từng có nhiều người đỗ đạt, làm quan như Cao Bái Hiên, Cao Cửu Chiếu, Cao Huy Diệu, Cao Dương Trạc; đồng thời với Cao Bá Quát có Cao Huy Tố, Cao Xuân Nguyên, Cao Duy Tân cũng là những người thành danh. Thân sinh Cao Bá Quát là Cao Huy Giảng tuy là nhà nho danh tiếng nhưng không ra thi cử để hiển đạt, tất cả hi vọng gửi vào việc dạy dỗ hai người con trai Bá Đạt và Bá Quát. Cho nên, thuở nhỏ, Cao Bá Quát được cho đi học rất sớm và nổi tiếng là thông minh, học giỏi, lại sớm có ý thức về tài văn chương của mình. Cao Bá Qt cịn là một người phóng khống, thích tự do như sau này ơng tự nhận trong thơ: Thiếu niên tâm tích tảo thanh cuồng, Dĩ bả thành khuy tính lưỡng vương (vong). (Từ thuở trẻ tính nết đã phóng khống rồi, Đơi đường thành hay bại đều khơng để trí nhớ.) (Cấm sở cảm tự, túng bút ngẫu thư) 18 Bởi vậy, ơng ưa làm theo ý mình, ít khi chịu theo khuôn phép. Nết ấy, ngay từ nhỏ, ông thân sinh của Cao Bá Quát đã nhận thấy trong lời văn của con mà nhận xét: “… Văn của Bá Quát hơn về tài tứ nhưng kém về khuôn phép”. Sau này, nó biểu lộ trong mọi hành động của ơng: đi thi làm bài thì cứ lấy ý riêng của mình mà suy luận, nên đi thi Hương từ năm mười bốn tuổi, năm hai mươi ba tuổi mới đỗ cử nhân. Sau đó trong chín năm, cứ ba năm một lần vào Huế thi Hội nhưng lần nào cũng bị đánh hỏng. Năm 1841, ông được gọi vào Huế để giữ một chức tập sự ở Bộ Lễ. Chẳng bao lâu sau khi làm việc ở Bộ Lễ, ông bị bắt giam và chịu cực hình tra tấn trong gần 3 năm vì khi làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên, ông đã dùng muội đèn chữa những chỗ phạm trường quy trong hai mươi tư quyển thi đáng được lấy đỗ. Việc bị phát giác, ông bị bắt giam, bị tra tấn rồi bị kết vào tội chết, sau giảm xuống tội giảo giam hậu, tức được giam lại đợi lệnh. Sau gần ba năm bị giam cầm khổ sở, ơng được triều đình tạm tha, nhưng phải đi xuất dương hiệu lực (để lấy công chuộc tội) trong phái bộ do Đào Trí Phú làm trưởng đồn. Khi về nước, ông bị thải hồi. Bốn năm sau được cử đi làm giáo thụ ở Quốc Oai (Hà Tây), một vùng hẻo lánh lúc bấy giờ. Cuộc đời với nhiều thăng trầm mang lại cho con người chuộng cởi mở như Cao Bá Quát cơ hội được đi nhiều, tiếp xúc nhiều với nhiều người, nhiều cảnh đời, nhiều nền văn hóa khác nhau. Những dịp này đã giúp Cao Bá Quát có cái nhìn sâu sắc hơn về đời sống của nhân dân mình, về những giá trị tinh thần của dân tộc đồng thời cũng nới rộng một tầm nhìn, một cách nghĩ trước những cái lạ mắt. “Ở Cao Bá Quát có sự phá vỡ cách sống, cách nghĩ của một tri thức Nho gia.” [54, tr.11]. Chính lẽ đó, về sau, năm 1855, vùng Sơn Tây, Bắc Ninh xảy ra hạn hán nặng, nạn châu chấu quấy phá làm mùa màng thất bát, nhân dân cực khổ đã nổi dậy chống triều đình, Cao Bá Quát nhân đó bắt tay với những người chủ chốt, mượn cớ khôi phục nhà Lê, tôn Lê Duy Cự làm “minh chủ”, tự xưng là “Quốc sư”, tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương chống lại triều đình nhà Nguyễn nhưng bị đàn áp thẳng tay nên cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị chết trong một trận đánh. Nhà Nguyễn còn ra lệnh “tru di tam tộc” họ Cao, truy sát hậu duệ, tiêu hủy tác phẩm của Cao Bá Quát.
Đắc chí là gì?
Được thoả mãn điều hằng mong muốn. Tỏ ra thích thú vì đạt được điều mong muốn.
Bất đắc dĩ có nghĩa là gì?
bất đắc dĩ trgt. Không có sự lựa chọn khác. (Xem từ nguyên 1) Không thể đừng được.
Chết bất đắc kỳ tử là như thế nào?
Thành ngữ Cái chết đột ngột, không vì nguyên nhân tự nhiên.
Thật đặc chỉ là gì?
đắc: được; chí: lòng muốn) Được thoả mãn sự mong muốn cao xa của mình: Khi đắc chí lại có khi thất chí (NgCgTrứ); Ông già đắc chí vỗ đùi cười ha hả (NgĐThi). tt.
|