Vì sao gọi là bánh chưng

Theo sự tích bánh chưng, bánh dày (bánh giầy) thì bánh chưng tựa cho đất, có bánh chưng vào dịp Tết tượng trưng cho đất đai đầy đủ (nếp,đậu xanh), màu mỡ (thịt mỡ) no ấm.
Bánh tét là biến tấu của bánh chưng về sau, bánh tét trong miền Nam tượng trưng cho con người miền Nam hiền lành chân chất, đơn giản dễ chịu, không cầu kỳ như người miền Bắc. Cho nên bánh tét được làm đơn giản hơn và gọn nhẹ, gói theo kiểu "đòn" như vậy một phần cũng vì thời tiết miền Nam nóng hơn miền Bắc cho nên nếu gói theo hình vuông to như bánh chưng thì dễ bị mốc ở 4 góc (ảnh hưởng đến nhân bánh), còn nếu là dạng đòn thì nếu có mốc thì cũng không ảnh hưởng, vì có thể cắt lát phần mốc bỏ đi.
Thực tế ngoài Bắc cũng có những vùng gói bánh Tét (gọi là bánh Chưng dài) như ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên ...

Vì sao gọi là bánh chưng

Ý nghĩa của bánh chưng, bánh tét trong ngày tết là tượng trưng cho một năm mới no đủ-hạnh phúc. Nhất là khi có những điều này thì nhắc con cháu luôn nhớ đến công lao của Tổ Tiên về trước, đây cũng là vật phẩm để dâng trên bàn thờ Tổ Tiên và không thể thiếu được.
Bánh làm từ gạo nếp, đậu xanh, thịt heo thể hiện sự phồn thịnh trong cuộc sống. Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình Cha Mẹ sinh thành yêu thương đùm bọc con cái. Chính vì thế, trong dịp tết trên bàn thờ Tổ Tiên luôn có bánh Chưng hoặc bánh Tét.
Với ý nghĩ sâu sắc như thế mà thiếu những chiếc bánh đó trên bàn thờ Tổ Tiên vào dịp Tết thì rõ ràng Tết rất là nhạt nhẽo, mất hẳn hương vị, ý nghĩ của Tết.

Một trong những từ được nhắc đến nhiều nhất ngày Tết, nhưng rất nhiều mắc, kể cả những người có học hành đàng hoàng. Từ đúng là "bánh chưng" thì cứ mặc nhiên viết "bánh trưng". Thậm chí có người nổi tiếng còn khoe kiến thức trên facebook còn viết là "bánh trưng".

Tìm trên google từ khóa ''bánh chưng'' có 3.260.000 kết quả hiển thị, còn ''bánh trưng'' có 377.000 kết quả. Đáng buồn, trong hơn ba trăm ngàn kết quả hiển thị ''bánh trưng'', có nhiều kết quả từ các trang web chính thống của báo chí truyền thông, của các sở ban ngành, trường học và từ bài viết, trang cá nhân của những người nổi tiếng.

Ban tổ chức một số lễ hội đầu năm cũng hay mắc lỗi chính tả này khi in phông sân khấu, băng rôn. Năm 2010, thay vì viết đúng "Hội thi gói, nấu bánh chưng, giã bánh giầy", Ban tổ chức lễ hội Đền Hùng cho căng một tấm biển rất to với dòng chữ "bánh trưng, bánh giày".

Vì sao gọi là bánh chưng

 Năm 2010, Ban tổ chức lễ hội Đền Hùng 2010 cho căng một tấm biển rất to với dòng chữ "bánh trưng, bánh giày". (Ảnh: VNE)

Không hiểu sao vẫn có nhiều người mắc lỗi chính tả này, khi mà truyện "Bánh chưng, bánh giầy" hầu hết người Việt đều biết. Truyện được chép trong sách Lĩnh Nam chích quái, tương truyền do Trần Thế Pháp sưu tập ghi lại từ thế kỷ XIV, sách ghi lại như sau:

Vua Hùng Vương muốn truyền ngôi. Ngài gọi các con đến, hứa sẽ chọn người nào làm được món ăn ngon để dâng cúng tổ tiên. Các hoàng tử thi nhau tìm kiếm của ngon vật lạ, sơn hào hải vị, để làm món ăn dâng lên vua cha. Lang Liệu nhà nghèo, chưa biết phải xoay xở ra sao thì một đêm được thần nhân báo mộng, chỉ cho cách làm bánh chưng (hình vuông) và bánh giầy (hình tròn).

Đến kì hẹn, vua Hùng Vương nếm các món ăn. Ngài khen bánh của Lang Liệu vừa có ý nghĩa tượng trưng cho "trời tròn đất vuông", vừa có mùi vị thơm ngon, được làm toàn bằng sản vật của đồng quê nước ta và truyền ngôi cho Lang Liêu.

(Lĩnh Nam chích quái, bản dịch của Lê Hữu Mục, Khai Trí, 1961).

Chưng (烝) ở đây là từ Hán-Việt có nghĩa gốc là hơi nóng hoặc hơi nước bốc lên. Chữ chưng này là một chữ tượng hình mô tả hình ảnh nấu bánh, người ta đã dùng phép hội ý để ghi lại.

Trước hết bên dưới là lửa = Hỏa, rồi mới đến một gạch ngang tượng trưng cho đáy nồi = Kim, bên trên là nước = Thủy và trên cùng là một gạch ngang nữa tượng trưng cho nắp đậy.

Từ đó, chưng còn có nghĩa là đun, hấp thực phẩm cho chín bằng nước hoặc hơi nước, hoặc đôi khi hiểu là đun, hấp nhẹ làm nước bay hơi, để cô hỗn hợp cho đặc lại.

Ở Trung Quốc cũng có loại bánh gọi là chưng bính (蒸餅, tức là bánh chưng) là bánh bột gạo hấp, là bánh bình thường, chả dùng vào dịp gì cả và người ta cũng chỉ hiểu chưng = hấp.

Các cuốn từ điển Tiếng Việt hiện đại cũng chỉ ghi nhận bánh chưng - bánh giầy, không ghi nhận bánh trưng, bánh dày, bánh dầy, bánh giày…

Tuy nhiên tương tự bánh trưng, có nhiều người vẫn viết sai từ bánh giầy thành bánh dầy hay thậm chí bánh dày/giày.

Trả lời Tuổi trẻ, nhà ngôn ngữ học Trần Chút - Nhà giáo ưu tú của ngành ngữ văn Việt Nam cho biết: "Bánh giầy" là từ biến âm của tiếng Việt cổ "bánh chì” ngày xưa (xưa: "ch" thì sau này biến thành "gi", xưa: âm "i" thì sau này biến thành "ây", ví dụ như: chường Ý giường, bên ni Ý bên nầy). Vì thế, viết "bánh giầy" là chính xác.

Cũng nên nói thêm là tiếng Việt ta phát âm "d" và "gi" không khác nhau nên một số người nhầm lẫn "dầy" tức là dày, mỏng nên mới viết là "bánh dầy". Tuy nhiên, theo qui tắc chính tả tiếng Việt hiện tại, viết "bánh giầy" là chuẩn xác nhất.

GS.TS Nguyễn Đức Dân - nguyên tổ trưởng tổ bộ môn Ngôn ngữ, khoa Ngữ văn - Báo chí Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn - ĐH Quốc gia TP.HCM, nguyên phó chủ tịch Hội Ngôn ngữ học Việt Nam cũng khẳng định: "Dùng từ "bánh giầy" là đúng như hướng dẫn của từ điển tiếng Việt".

Theo Từ điển tiếng Việt tường giải và liên tưởng của tác giả Nguyễn Văn Đạm, NXB Văn Hóa - Thông Tin, thì bánh giầy nghĩa là: bánh làm bằng xôi giã thật mịn.

Từ điển tiếng Việt của tác giả Minh Tân - Thanh Nghị - Xuân Lãm, NXB Thanh Hóa: "Bánh giầy: bánh làm bằng xôi giã thật mịn, nặn thành hình tròn, dẹt, có khi có nhân đậu xanh".

Đại từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý, NXB Văn Hóa - Thông Tin cũng giải thích: "Bánh giầy là bánh có hình tròn khum khum, màu trắng, rất dẻo, mịn mặt, làm bằng xôi trắng giã nhuyễn, khi ăn cặp với giò chả...".

GS.TS Nguyễn Đức Tồn - nguyên Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học cũng cho biết, chỉ duy nhất cách viết "bánh chưng", "bánh giầy" là đúng, không có biến thể hay cách viết tương tự.

Video: Tháo dỡ hàng loạt biển hiệu sai chính tả ở Hà Nội

Đức Phúc

BÀN LẠI TÊN GỌI BÁNH CHƯNG - BÁNH GIÀY - BÁNH TÀY - BÁNH TÉT

VIÊN NHƯ

 

Vì sao gọi là bánh chưng

Nói đến bánh chưng, bánh giày ở nước ta ai mà chẳng biết, bên cạnh là một thực phẩm, nó còn là vật phẩm biểu tượng có tính thiêng liêng dùng để cúng hiến tổ tiên trong ngày tết. Chuyện bánh chưng, bánh giày được ghi lại trong sách “Lĩnh Nam chích quái” (LNCQ), tương truyền do Trần Thế Pháp sưu tập ghi lại từ thế kỷ XV. Tuy nhiên gần đây, có lẽ do nghi ngờ nguồn gốc mà LNCQ đưa ra, các nhà nghiên cứu văn hóa còn đi xa hơn trong việc tìm về cội nguồn của việc ra đời cái bánh ấy. Có thể nói những nghiên cứu ấy cung cấp cho người đọc một cái nhìn đa dạng hơn về ý nghĩa cũng như thời điểm và nơi ra đời của nó, tựu trung người ta nghiên cứu về:

1 – Nguồn gốc bánh.

2 – Ý nghĩa từ “Chưng” và các tên liên quan như Giầy – Giày - Dày – Tày - Tét.

3 – Ý nghĩa của bánh thông qua hình thức mà nó thể hiện.

Cùng trong hướng tìm hiểu các tiêu chí đó, tôi xin bàn lại như sau:

1 – Nguồn gốc.

Theo LNCQ thì nguồn gốc Bánh chưng – Bánh giày có từ thời Vua Hùng được ghi lại như sau:

Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân rồi, trong nước thái bình, nên lo việc truyền ngôi cho con, mới hội họp hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo rằng: “Đứa nào làm vừa lòng ta, cuối năm đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng Tiên Vương cho tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho”.

...

“Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là vật để nuôi dân khỏe mạnh, ăn mãi không chán, không có vật gì hơn được. Nếu giã gạo nếp gói thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, hoặc lấy lá gói thành hình vuông để tượng trưng cho Đất, ở trong làm nhân ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý công ơn dưỡng dục của cha mẹ, như thế thì lòng cha sẽ vui, nhà ngươi chắc được ngôi quý”.

... lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh dày.

(Nguyễn Hữu Vinh dịch)

Theo sách thì câu chuyện này là một trong những câu chuyện của xứ Lĩnh Nam, như vậy không gian của nó có thể rộng khắp xứ Lĩnh Nam, mà xứ Lĩnh Nam xưa kia ở tận phía Nam sông Dương Tử nơi cộng đồng dân cư Bách Việt sinh sống, do đó nó có thể là văn hóa của cả vùng này. Tuy nhiên, nhất định thuở ban đầu nó phải xuất phát từ một dân tộc nào đó rồi sau mới lan rộng ra. Vậy dân tộc đó là dân tộc nào? Theo tôi, thì dân tộc nào đã sáng tạo ra Dịch học chính là dân tộc đã làm nên văn hóa này.

2 – Về tên gọi bánh Chưng – Bánh Giày – Bánh Tày – Bánh Tét.

Theo sách LNCQ, bánh Chưng vuông, tượng trưng cho Đất, bánh Giày tròn, tượng trưng cho Trời, khái niệm âm dương này cũng liên hệ với các tên gọi về sau như Tày, Tét. Do đó, theo tôi cần phải giải thích các cặp từ ấy phù hợp với triết lí âm dương (siêu hình), đồng thời vẫn phải nói lên được tính phồn thực của nó (hữu hình), nếu không hội đủ hai tiêu chí ấy thì khó mà thuyết phục.

Vì sao gọi là bánh chưng

Nghĩa từ “CHƯNG”.

Trong Đại Nam quốc ấm tự vị (1895-1896) tác giả Huỳnh Tịnh Của viết:

1- Bánh chưng: Bánh gói bằng nếp hình vuông, còn có tên là địa bính tức bánh tượng trưng cho đất vuông. Bánh được chưng hấp nên gọi là bánh chưng.

2- Bánh chưng: Bánh vuông giẹp giống cái bàn chưn, cũng gọi là địa bính.

Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh là “đun, nấu cách thủy”

Vương Lực cổ Hán ngữ tự điển (Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 2002) đã ghi cho chữ chưng 烝

 một trong các nghĩa là “dụng hỏa hồng khảo” 用火烘烤, nghĩa là dùng lửa mà nung.

Như thế, nghĩa chữ chưng trong bánh chưng không thích hợp với các nghĩa như đã nêu, trừ nghĩa 2 nhưng không phải với giải thích ấy. Thông thường, người ta hiểu chưng có nghĩa là làm chín bằng hơi nước, nhưng trong LNCQ viết “Chử nhi thục chi” có nghĩa là nấu (Chử) chứ không phải chưng. Đồng thời, trên thực tế, ai cũng biết là luộc hay nấu bánh chứ chưa hề có chuyện chưng bánh chưng, ngay cả người viết LNCQ cũng hiểu thế nên mới viết là nấu. Như thế, từ chưng này có thể đã có trước khi người ta mô tả về chuyện chế biến nó. Ta có thể phân tích quá trình bằng cách chiết tự chữ chưng 烝. Theo tôi chữ chưng này là một chữ tượng hình mô tả hình ảnh nấu bánh, người ta đã dùng phép hội ý để ghi lại. Trước hết bên dưới là lửa = Hỏa, rồi mới đến một gạch ngang tượng trưng cho đáy nồi = Kim, bên trên là nước = Thủy và trên cùng là một gạch ngang nữa tượng trưng cho nắp đậy. Tất nhiên, đã là nấu bánh thì phải có bánh, cho dù con chữ không thể hiện điều đó, bánh có lá màu xanh = Mộc, bên trong có nếp và ở giữa là nhụy sau khi nấu chín thường có màu đất = Thổ. Như vậy con chữ đã nói lên ngũ hành, một trong những thành phần của dịch học. Vậy tại sao gọi là “chưng”? Nếu không phải nghĩa là chưng cất thì từ chưng này có nghĩa là gì? Có liên quan gì đến đất? Theo tôi, từ Chưng này có nghĩa là cái Chưn (cái chân). Ta thường nói “Đầu đội trời chân đạp đất” vì cái bánh tên là chưng, hình vuông tượng trưng cho đất thì nhất định khi đặt tên cho cái bánh ấy cũng phải có nét nghĩa liên quan đến đất. Cần thấy là triết lí âm dương ban đầu con người nghiệm từ bản thân mà ra sau đó mới tìm thấy tính phổ quát của nó trong vũ trụ, cho nên tín ngưỡng phồn thực là tôn giáo đầu tiên của con người. Chính vì chưng có nghĩa là chưn = Vuông = Âm nên các từ theo nó như giày, tày, tét phải là biểu tượng cho dương; đồng thời phải tròn.

Nghĩa từ GIÀY (Giầy – dày).

Như LNCQ mô tả “Lại lấy nếp nấu xôi đem giã cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh giày” Như vậy, để làm được bánh giày ta phải qua công đoạn giã, mà giã thì phải dùng chày = Dương, tất nhiên là phải để xôi trong cối = Âm. Hình ảnh và khái niệm chày cối là tượng trưng cho âm dương, hình ảnh này cũng được ghi lại trên trống đồng. Sau khi làm thành chiếc bánh rồi người ta cần một cái tên cho nó, vậy phải đặt tên như thế nào. Tất nhiên, cái tên ấy phải nói lên được tính Dương và tất nhiên không thoát khỏi khái niệm phồn thực trong hình thể, cụ thể là cái chày họ đang sử dụng. Từ suy nghĩ đó, họ cần có một cái tên mà nội tại cái tên ấy phải nó liên quan đến khái niệm chày, không gì hơn là gộp cả hai việc giã và chày lại thành một âm để đặt tên cho cái bánh và chữ Giày ra đời theo cách sau đây:

GIÃ – CHÀY đọc phản thành GIÀY chã (Có lẽ từ  CHÃ cũng từ đây mà có). Như vậy, từ Giày có liên quan đến quá trình chế biến cái bánh tượng trưng cho Trời. Chính vì vậy, từ Giày cũng mang nét nghĩa của sự giày xéo, chà đạp, làm cho nát và khi được sử dụng là danh từ này để chỉ cái thứ mà người ta mang dưới chân gọi là giày cũng mang nét nghĩa này. Giày thì phải ôm lấy chân chứ như âm với dương vậy.

Nghĩa từ TÀY.

Ngoài tên bánh chưng – Bánh giày còn có bánh Chưng – Bánh Tày. Vậy chữ Tày nghĩa là gì mà đi liền với từ Chưng? Ở vùng Phú Thọ và một vài vùng ven Hà Nội hiện nay vẫn còn gói bánh này gọi là bánh chưng tày hay bánh tày, còn có tên khác là bánh đòn giống với bánh tét miền Trung và miền Nam. Vậy Tày nghĩa là gì? Theo tôi, từ Tày là một từ phái sinh từ từ Tay (cánh tay). Vì từ chưng trong bánh chưng có nghĩa là chưn thì việc nó đi liền với tay là chuyện bình thường, chỉ sự liên kết chặt chẽ như “Anh em như thể tay chưn” cũng như âm luôn luôn đi liền với dương vậy. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng nó bị trầm hóa, từ tay thành tày và cũng có thể do ảnh hưởng bởi từ giày trước đó. Chuyện này rất phổ biến đối với người Việt khi đọc các âm cuối không dấu như Uber = U bờ, Viber = Vai bờ, Toyota = Tô dô đà. Ngoài ra, sở dĩ tôi cho tày là tay là vì câu chuyện bánh chưng bánh giày mang ý nghĩa âm dương, dịch lí. Như ta biết căn bản của dịch lí là Thái cực (lí số = 10) sinh nhị nghi – tứ tượng – Bát quái – 64 quẻ (6+4=10). Ta có thể liên tưởng 10 ngón chân trên hai bàn chân và 10 ngón tay. Tay chân là một cặp đối đãi như trên dưới, trong ngoài, phải trái, âm dương.

Vì sao gọi là bánh chưng

Nghĩa từ TÉT.

Bên cạnh các cặp từ Chưng – Giày, Chưng – Tày ta còn có cặp từ khác đó là Chưng – Tét. Vậy từ Tét trong trường hợp này nghĩa là gì?

Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của ghi:

Tét: Tước ra, xé ra, tách ra ”; rồi “Tét bánh: Dụng dây nhợ mà siết đòn bánh ra từ lát, từ khoanh”.

Bánh tét là bánh có hình tròn dài như bánh Tày và có vai trò như từ Giày – Tày do đó nó cũng có nghĩa là dương – trời, đối lại với chưng có hình vuông biểu tượng cho âm – đất. Ta có các từ liên quan như: Tước- Tách – toát – toét đều chỉ việc dùng một cái gì đó làm cho một vật khác bể ra thành hai hay nhiều phần. Định nghĩa và ví dụ trên là chính xác nhưng người đọc dễ bị định hướng do cách hiểu từ tét phải là dùng sợi dây, vì vậy khó mà tìm ra ý nghĩa của nó trong trường hợp này – Bánh tét. Nếu vì bánh bị tét bởi sợi dây mà đặt tên là tét thì nó có liên quan gì đến từ chưng, mà như ta biết chưng tượng cho đất, giày, tày, tét cho trời, có nghĩa là cặp từ này phải có mối liên quan chặt chẽ như âm với dương. Theo tôi, nghĩa của từ này đơn giản đã nằm trong tên bánh - Bánh tét, có nghĩa là cái bánh dùng để tét, ở đây là tét cái bánh chưng. Như đã nói trên thuyết âm dương, phồn thực ban đầu xuất phát từ sự chiêm nghiệm bản thân về sau mới thăng hoa thành triết thuyết, nhưng cho dù có phát triển như thế nào thì khái niệm ban đầu vẫn là khái niệm căn bản.

Từ Tét này chỉ có ở miền Trung và miền Nam, có thể sau khi sử dụng Tét thay Tày, người ta lại sáng tạo nên một cặp từ khác đó là bánh Tày – Bánh Ú. Bánh tày miền Trung nhỏ chỉ độ bằng gang tay, thường thì hai cái úp vào nhau, có hình hơi tròn, còn bánh ú thì giống hình cái vú, có lẽ ú là cách nói trại tù vú mà ra, tượng trưng cho âm. Tày = Dương, Ú = Âm. Bánh ú này có hình dáng giống như bánh chưng Triệu Khánh – Quảng Đông – Trung Quốc.

3 - Ý Nghĩa.

Tóm lại, dù tên gọi và hình dáng khác nhau nhưng rõ ràng ý nghĩa của nó thống nhất. Đó là nói lên triết lí âm dương, nó không chỉ được biểu thị qua việc làm bánh để tưởng nhớ tổ tiên mà qua đó khẳng định rằng triết lí này, Dịch học, là sản phẩm của người Việt. Ngay cả các tên bánh: Chưng – Giày - Tày – Tét đều là Nôm cả và đều liên quan chặt chẽ đến tính phồn thực. Do tính tàn khốc của lịch sử, người Việt không thể nói ra điều đó trực tiếp được, nên họ tìm mọi cách để ghi lại nguồn gốc của triết thuyết đó thông qua các hình thức văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc mình như trống đồng, ông Táo, Cóc kiện Trời, Sơn Tinh - Thủy Tinh v.v. Truyện bánh Chưng và bánh Giày không ngoài mục đích ấy.

Vì sao gọi là bánh chưng

Tin tức khác