Bài 2. Lipit – Bài 4 trang 13 sách Giáo khoa Hóa học 12 Nâng cao. Vì sao chất béo không tan trong nước mà tan trong các dung môi hữu cơ không phân cực? Tag: Tại Sao Lipid Không Tan Trong Nước Bài 4a) Vì sao chất béo không tan trong nước mà tan trong các dung môi hữu cơ không phân cực? b) So sánh nhiệt độ nóng chảy, nhiệt độ sôi của triglixerit chứa các gốc axit béo no và triglixerit chứa các gốc axit béo không no. Quảng cáoa) Thông thường, các chất phân cực tan dễ dàng trong các dung môi phân cực như nước, amoniac lỏng…; ngược lại các chất không phân cực tan dễ dàng trong các dung môi không phân cực như benzen,… Ở phân tử chất béo, các gốc hiđrocacbon rất dài, gồm toàn các nhóm không phân cực, chiếm hầu hết thể tích phân tử. Vì vậy nó không tan trong nước (dung môi phân cực) mà tan trong dung môi hữu cơ không phân cực. b) Các triglixerit chứa gốc axit béo không no có nhiệt độ nóng chảy và nhiệt độ sôi thấp hơn các triglixerit chứa gốc axit béo no vì: Ở các gốc axit béo no mạch phân tử gấp khúc một cách đều đặn, đồng nhất nên được sắp xếp chặt khít ở trạng thái rắn. Còn các axit béo không no, do tồn tại cấu hình cis-trans, đặc biệt là cấu hình cis của nối đôi C=C làm mất sự đều đặn, thống nhất, làm giảm sự sắp xếp chặt khít nên thường ở trạng thái lỏng. (Cấu hình trans của các nối đôi C=C ít ảnh hưởng đến sự gấp khúc đồng nhất của phân tử).
Lipoprotein được tổng hợp bởi gan vận chuyển triglycerides và cholesterol nội sinh. Lipoprotein lưu thông trong máu liên tục cho đến khi các TG chứa trong chúng được lấy đi bởi các mô ngoại vi hoặc các lipoprotein tự nó được gan thanh thải. Các yếu tố kích thích tổng hợp lipoprotein ở gan thường dẫn đến tăng nồng độ cholesterol huyết tương và TG.
Lipoprotein tỉ trọng trung bình (IDL) là sản phẩm chế biến LPL của VLDL và chylomicrons. IDL là VLDL giàu cholesterol và chylomicron còn sót lại được làm sạch bởi gan hoặc chuyển hóa bởi lipase gan thành LDL, chúng mang apo B-100.
Kích thước của các hạt LDL thay đổi từ lớn và đến nhỏ và dày đặc. LDL nhỏ và dày đặc là đặc biệt giàu este cholesterol, có liên quan đến rối loạn chuyển hóa như tăng triglycerid máu và kháng insulin.
Lipoprotein mật độ cao (HDL) là các lipoprotein cholesterol tự do đầu tiên được tổng hợp ở cả tế bào ruột và gan. Chuyển hóa HDL rất phức tạp, nhưng một trong những vai trò của HDL là mang cholesterol từ các mô ngoại vi và các lipoprotein khác và vận chuyển nó đến nơi cần nhất - các tế bào khác, các lipoprotein khác (sử dụng cholesteryl ester transfer protein [CETP]), và gan (để thanh thải). Hiệu quả chung của nó là chống bệnh xơ vữa động mạch.
Sự gia tăng cholesterol tự do từ tế bào qua trung gian bởi kênh vận chuyển A1 (ABCA1) gắn kết với ATP, kết hợp với apoprotein A-I(apo AI) để tạo ra HDL mới. Cholesterol tự do trong HDL non sau đó được este hóa bởi enzyme lecithin-cholesterol acyl transferase (LCAT), tạo ra HDL trưởng thành. Nồng độ HDL huyết tương có thể không hoàn toàn đại diện cho sự vận chuyển cholesterol ngược, và tác dụng bảo vệ của nồng độ HDL cao hơn cũng có thể là do các đặc tính chống oxy hóa và chống viêm.
vì sao chất béo không tan trong nước? Các câu hỏi tương tự
|